Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

So sánh giáo dục khoa cử thời Lý Trần và Lê sơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89 KB, 3 trang )

SO SÁNH
GIÁO DỤC THỜI LÝ- TRẦN VÀ
GIÁO DỤC THỜI LÊ SƠ
I. GIÁO DỤC THỜI LÝ – TRẦN:
Ở thời kỳ đầu của quốc gia phong kiến
độc lập, Nho giáo chưa mạnh nhưng nó đã cùng
với chữ Hán tồn tại trong xã hội Việt Nam. Chế
độ giáo dục và thi cử theo tinh thần nho giáo
cũng theo đó mà phát triển. Lúc đầu, số Nho sĩ
còn ít nên ảnh hưởng của họ trong xã hội còn
hạn chế.
Để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại
cho bộ máy hành chính, nhà Lý bắt đầu chăm lo
việc học tập thi cử. Năm 1070, nhà Lý cho
dựng Văn miếu, đúc tượng Chu Công, Khổng
Tử, mở Quốc Tử Giám – nơi dạy học cho con
vua và hàng ngũ quý tộc, quan lại.
Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu
tiên để lựa chọn nhân tài. Sau đó nhà Lý còn
mở khao thi với các môn thi viết, làm tính, hình
luật … Từ đây Nho giáo bắt đầu có địa vị thống
trị xã hội.
Đến nhà Trần, vương triều đã chính qui
hóa, tạo nề nếp qui củ cho việc học hành, thi
cử. Nhà nước lập Quốc học viện để cho con em
quý tộc, quan lại vào học. Tại lộ, phủ, châu,
chức học quan được đặt ra. Không chỉ những
trường học của nhà nước, các nhà Nho còn lập
các trường học ở các làng xóm. Thể lệ học vị,
thi cử được qui định. Năm 1247, nhà Trần đặt
danh hiệu Tam khôi (Trạng Nguyên, Bảng


Nhãn, Thám Hoa.) dành cho ba người thi đỗ
xuất sắc trong các kì thi Đình.
II. GIÁO DỤC THỜI LÊ SƠ:
Do yêu cầu phát triển của bộ máy phong
kiến quan liêu, do việc tôn sùng Nho giáo, chế
độ giáo dục và thi cử thời Lê sơ khá phát triển.
Ngay từ năm 1428, khi đất nước vừa mới giải
phóng, Lê Lợi đã hạ lệnh dựng lại Quốc Tử
Giám, mở trường học ở các lộ. Năm 1429, Lê
Lợi mở khoa thi Minh Kinh để khảo sát lại
quan văn, võ từ tứ phẩm trở xuống và tuyển lựa
nhân tài sung vào bộ máy quan liêu. Trải qua
các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, chế độ thi
cử càng được tổ chức đều đặn và có quy củ.
Năm 1442 triều đình mở khoa thi Hội đầu tiên
lấy 33 người đỗ tiến sĩ. Trong thời Thánh Tông,
Nhà nước còn bổ xung thêm nhiều điều quy
định trong thể lệ thi cử. Ở các đạo thừa tuyên
đều có trường thi Hương, cứ 3 năm Nhà nước
mở một kì thi Hương và năm sau mở kì thi Hội
ở kinh đô.
Ngoài những kì thi Hương, thi Hội, thỉnh
thoảng nhà nước tổ chức các kì thi với hai môn
viết chữ và làm toán để chọn lại viên, và khoa
thi Minh Kinh, Hoàng từ, Nho thần để khảo
hạch quan lại. Từ năm 1484, Lê Thánh Tông
sau dựng bia đá ở Văn Miếu, khắc tên những
người đỗ từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1442 để
tôn vinh những người đỗ đại khoa và khuyến
khích học tập, thi cử.

Chế độ giáo dục, thi cử thời Lê sơ được
mở rộng hơn trước, cho con em mọi tầng lớp
nhân dân tham dự. Nhưng để đảm bảo sự trung
thành của sĩ tử. Lê Thánh Tông đặt lệ “bảo kết
hương thi” bắt các xã phải đảm bảo người đi thi
phải là người có “đức hạnh”. Đồng thời bắt
người đi thi phải khai lý lịc ba đời gọi là “Cung
khai tam đại”. Nếu là con cháu nhà xướng ca,
ngụy quan hay kẻ chống đối triều đình thì
không cho dự thi.
Gần 100 năm dười triều Lê sơ (1428 –
1527), từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1442 đến
khoa thi cuối năm 1526, nhà Lê đã mở được 26
khoa thi, đào tạo được 988 tiến sĩ.
Để khuyến khích việc học tập, ngoài việc
bổ dụng những người đỗ đạt cho làm quan, Lê
Thánh Tông còn định lệ xướng danh, vinh quy.
Thời Lê sơ, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông là
một thời kì thịnh đạt của nền giáo dục khoa cử
phong kiến Việt Nam. Riêng 38 năm dưới thời
trị vì của Lê Thánh Tông (1460 – 1497) có 12
khoa thi Hộ láy 501 người đỗ tiến sĩ, trong đó
lấy 10 người đỗ Trạng nguyên. Thời Lê sơ có
những kì thi Hội có đến hàng ngàn thí sinh, như
khoa thi năm Ất Tỵ (1475) có đến 3000 người
dự thi.
Sự phát triển của giáo dục đã tạo ra hàng
loạt người bổ xung vào bộ máy phong kiến
quan liêu đang phát triển, phục vụ công cuộc
xây dựng đất nước, nâng cao dân trí, đồng thời

cũng sản sinh ra nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà sử
học lỗi lạc của dân tộc.
Bài văn bia tiến sĩ năm Nhâm tuất do
Đông Các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn đã
khẳng định : “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mới mạnh
…”
SO SÁNH GIÁO DỤC THỜI LÝ TRẦN VÀ LÊ SƠ:
* Điểm giống nhau:
- Mục đích của giáo dục – khoa cử: Lựa chọn nhân tài, phục vụ
cho bộ máy nhà nước phong kiến quan liêu.
- Nội dung giáo dục: Chủ yếu trú trọng lĩnh vực xã hội, với các
tài liệu giáo dục như: Tứ Thư, Ngũ kinh, Bắc sử ….
* Điểm khác nhau:
Điểm so
sánh
Giáo dục khoa cử
thời Lý – Trần
Giáo dục khoa cử
thời Lê sơ
Vai trò của
Nho học
trong giáo
dục.
- Chưa được coi trọng,
Phật giáo có ảnh hưởng
lớn và là quốc giáo, cùng
tư tưởng “Tam giáo đồng
nguyên”.
- Trở thành hệ tư tưởng của

giai cấp phong kiến thống trị,
với địa vị độc tôn, là nội
dung của giáo dục.
Thể lệ và
quy trình
thi cử
- Còn thiếu chặt chẽ, nhà
nước chỉ mở khoa thi
tuyển chọn nhân tài khi có
nhu cầu.
- Chặt chẽ, được tổ chức đều
đặn và qui củ. Nhà nước qui
định cứ 3 năm mở một kì thi
Hương, năm sau mở kì thi
hội. Qui chế thi cũng khoa
học và chặt chẽ hơn với các
qui định về “bảo kết hương
thi” và “Cung khai tam đại”.
Hệ thống
giáo dục.
- Các trường chủ yếu do
nhà nước lập.
- Hệ thống giáo dục được mở
rộng, ngoài các trường do
nhà nước lập nên, ở các Lộ,
Phủ, Huyện, các đạo Thừa
tuyên đều có các trường.
Đối tượng
được giáo
dục dự thi

- Chỉ bó hẹp trong bộ phận
con cháu quý tộc, quan lại.
- Được mở rộng con em mọi
tầng lớp nhân dân (Trừ con
cháu nhà xướng ca, ngụy
quan, chống đối triều đình)
đều được dự thi.
Chính sách
khuyến
khích giáo
dục – khoa
cử.
- Chưa được coi trọng. - Rất được chú ý: Nhà nước
định lệ xướng danh, vinh
quy, những người đỗ đạt cao
được khắc tên vào bia Tiến sĩ
đặt tại Văn Miếu …
By: Giang Trọng Thủy.

×