Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

“Cứ đi thì sẽ đến” – một tinh thần Viết văn Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.39 KB, 12 trang )

“Cứ đi thì sẽ đến” – một tinh thần Viết văn Nguyễn Du
(Ngô Thị Kim Cúc)
Ngày 15/11/2014, Trường Viết văn Nguyễn Du (nay là Khoa Viết văn - Báo chí, Đại học
Văn Hóa Hà Nội) đã tổ chức lễ kỷ niệm 35 năm thành lập (1979 – 2014). Đây là một ngơi
trường nổi tiếng với đặc thù đào tạo chính quy chuyên ngành viết văn trên cả nước. Rất
nhiều nhà văn, nhà thơ hiện đã thành danh từng theo học nơi đây, như: Hữu Thỉnh, Lâm
Thị Mỹ Dạ, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Lập Em, Khuất Quang
Thụy, Ngô Thị Kim Cúc, Chu Lai, Đào Thắng… Nhân dịp Kỷ niệm 35 năm thành lập
trường Viết văn Nguyễn Du, chúng tôi trân trọng giới thiệu một số bài viết của các nhà
văn, nhà thơ thuộc các thế hệ sinh viên của ngôi trường này.

1.Một chớp mắt, ba mươi lăm năm
Tơi khơng biết có ai khơng muốn sự ra đời của ngôi trường ấy hay không, nhưng số người thực sự muốn nó ra đời
thì chắc chắn rất nhiều. Đó là những nhà văn lớp trước từng tham gia vào việc tổ chức hoặc lên lớp cho những khóa
bồi dưỡng ngắn ngày với “nhãn mác” uy tín: Trại viết Quảng Bá; và rất rất đông những cây bút trẻ khát thèm một
chương trình học dài hạn, có hệ thống, để lấp đầy những lỗ hổng kiến thức có được chỉ nhờ tự học.
Nguyện vọng rất chính đáng đó đã được sự chuẩn y từ Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương của thời kỳ đổi mới, và
ngôi trường mang tên nhà thơ lớn của dân tộc đã được cấp giấy khai sinh vào ngày 29 tháng 11 năm 1979, gấp gáp
đúng như với một-việc-cần-làm-ngay, bởi vì về nhiểu mặt, nó có vẻ chưa được chuẩn bị một cách đầy đủ.
Chỉ riêng danh xưng, đã là một sự nhấc lên đặt xuống rất thận trọng. Gạt bỏ cái tên Học viện (để có được tầm vóc
quốc gia khi “đối ngoại” với Học viện Gorki của Liên Xô hay Becher của Cộng hịa Dân chủ Đức), nó đã chính thức
được gọi là Trường. Nhưng có lẽ ở Việt Nam chưa hề có tiền lệ mở một ngơi trường chỉ cho mấy mươi học viên, nên
cuối cùng, nó đã thu lại thành một Khoa (Khoa Viết văn), ké vào một ngôi trường đã có sẵn: Đại học Văn hóa.
Cho đến bây giờ, sau ba mươi lăm năm, chúng tôi mới nhớ ra rằng, chẳng ai trong hơn 40 học viên có được bất cứ
bức ảnh tử tế nào của ngôi trường buổi đầu ấy. Khơng ai nghĩ đến việc ghi hình nó cả. Có lẽ hình ảnh một dãy nhà
mái tranh vách đất ọp ẹp, tồi tàn, luộm thuộm, đã không gây được cảm hứng cho bất cứ ai để nghĩ đến việc phải ghi
hình nó. Vả lại thời kỳ 1979 mới giải phóng đầy khó khăn thiếu thốn ấy, ảnh iếc là một thứ quá ư xa xỉ, và chẳng
việc gì người ta phải tốn phim để chụp ảnh một cái nhà kho xấu xí.
Dãy nhà kho bỏ khơng nằm giữa khu nhà tập thể của cán bộ nhân viên trường Đại học Văn hóa đã được trưng dụng
để biến thành “giảng đường” và nơi ở cho hơn 20 học viên dân sự, đa số là người từ các tỉnh về thủ đô “du học”.
Nghe đâu nhà văn- đại tá Nguyễn Chí Trung, khi xộc vào tìm hiểu “cơ sở vật chất” của Trường Viết văn Nguyễn Du,


đã hết sức kinh hãi nhìn thấy nguyên trạng dãy nhà kho mốc meo trống hoang, nhện giăng tứ phía.


(Thầy và trị Viết văn Nguyễn Du khóa I)

Ơng đã xăng xái đi mua tre và phên cót về để ngăn phịng (mỗi ngăn kho rộng chừng 20 mét vng được chia thành
4 phòng ở), đi mua dây kẽm về để giăng dây phơi, sửa lại cửa nẻo, quét mới vơi tường…
Sau đó, nhờ đi xin xỏ khắp các nơi, mỗi phịng cũng có được một cái giường cá nhân tận dụng, bàn ghế cũng là đồ
phế thải ở đâu đó mang về, khơng cái nào giống cái nào. Nước sẽ được dùng trong bể chung với tất cả các khoa
khác và tập thể gia đình cán bộ. Nhà vệ sinh cũng dùng chung, là loại hố xí hai ngăn.
Điện đóm cũng khơng phải chuyện đơn giản. Để có được cho mỗi phịng một bóng đèn trịn, cũng phải phép tắc qua
rất nhiều khâu thủ tục. Mà điện thì như thể trị đùa, cứ một hơm có lại dăm ba hơm cúp, có khi một buổi tối cúp đi
cúp lại đến mươi lần. Thế là học viên mỗi người tự động sắm cho mình một cái đèn dầu hỏa, loại đèn Hoa kỳ nhỏ
xíu, tiết kiệm dầu, để có chút ánh sáng mà làm mọi chuyện, kể cả đọc sách, làm bài và viết lách.
Với các học viên quân đội thì mọi chuyện ổn hơn. Họ đã có sẵn khu Trại Sáng tác Vân Hồ, cũng chỉ là dãy nhà cấp 4
nhưng dù sao cũng tường gạch, mái tôn, điện nước tử tế, so với bên dân sự vẫn là sang trọng chán. Bên ấy cũng có
gần 20 học viên nội trú, cũng một phòng hai người như bên này.
Ngày khai giảng, khi lần đầu nhìn thấy tất cả bạn đồng mơn, tơi đã có phần ngạc nhiên lẫn thất vọng. Q nhiều
người khơng cịn trẻ, và một nửa lớp là sĩ quan qn đội. Những ngơi sao sáng chói trên cổ áo các sĩ quan khiến sinh
viên và nhân viên các khoa khác đặc biệt chú ý đến Khoa Viết văn. Nhưng những bộ đồng phục sĩ quan cũng kéo cái
tơng màu chung của cả lớp chìm hẳn xuống.
Trong ba học viên phát biểu (Hữu Thỉnh, Vương Anh, Lâm Thị Mỹ Dạ), chị Dạ đã nói rằng, chị đã chờ đợi khóa học
này từ khi cịn là một cơ gái trẻ, còn giờ đây khi trở thành học viên, chị đã là một người mẹ hai con. Mà phải đâu chỉ
mình Mỹ Dạ đã sang tuổi ba mươi, nhiểu học viên còn mấp mé tuổi bốn mươi. Chiến tranh đã sản sinh ra một thế hệ
nhà văn xuất thân từ chiến trường nhưng cũng chính chiến tranh đã lấy đi tuổi mười tám đôi mươi, tuổi để bước vào
giảng đường của họ.


Với bên ngoài, cuộc ra mắt của Trường Viết văn Nguyễn Du thu hút sự quan tâm lớn của văn giới và trí thức. Bởi
nhiều học viên đang là những tác giả nổi tiếng. Những người đứng ra làm giấy khai sinh cho trường cũng là những

tên tuổi đang nổi: ngồi Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương Trần Độ, cịn có tiến sĩ Hồng Ngọc Hiến học ở
Liên Xơ về, nhà văn Ngun Ngọc đang là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam…
Khu nội trú nằm sau khu nhà ở của nhân viên trường, nên nhìn ra chỉ tồn một màu xanh: bạc hà, sầu đơng, chuối,
đu đủ, bầu bí, rau cải… tăng gia của gia đình cán bộ. Cuối dãy nhà là một ao nước, thơng với những cái ao lớn hơn
của dân làng, phía bên kia hàng rào.
Tôi và chị Lê Thị Mây chọn phòng ở cuối dãy, kề với phòng của nhà văn Mã A Lềnh và nhà thơ Anh Chi. Nhờ ở đầu
hồi, mỗi chúng tơi có thêm một cửa sổ mở sang phía nhà dân. Trong cái ao thả dầy rau dút, bèo hoa dâu, hằng ngày
dân làng giặt giũ, rửa ráy, tắm táp, có lúc tát nước bắt cá…, đúng như sinh hoạt từ ngàn đời của làng quê miền bắc.
Tôi đã quan sát được bao điều hay ho mới lạ từ ơ cửa sổ nhỏ này.
Vì cả dãy nhà nội trú chỉ được ngăn bằng phên tre, vách lại thấp, nên nếu muốn, có thể đứng trên giường để dịm
sang nhà bên cạnh. Cứ thơng thống như thế nên đầu dãy nói một câu thì cuối dãy vẫn nghe rõ mồn một. Ai ốm nghỉ
học nằm lại phòng ở, vẫn có thể nghe tiếng giảng viên đang giảng bài ở phòng học ngay đầu dãy .
Ba năm, gần hai mươi con người sống cùng trong một khu nhà với tình trạng như thế, nên chẳng cịn chuyện gì về
nhau mà người ta không tường tận…

2.Cận cảnh những tuổi tên
Nếu Hà Nội tò mò về Trường Viết văn Nguyễn Du như thế nào thì các học viên của trường cũng tò mò về Hà Nội y
như vậy. Từ khắp nơi, học viên về thủ đô đâu chỉ để học. Người ta cịn có bao cơ hội để khám phá những điều thú
vị, mở rộng các mối giao tiếp đồng thời với việc lên lớp. Một trong những công việc hào hứng nhất, là tiếp cận với
những tuổi tên tiêu biểu nhất của văn chương và học giới Việt Nam.
Để cung cấp kiến thức, gợi mở suy nghiệm cho học viên, nhà trường đã mời những chuyên gia giỏi nhất của từng
chuyên ngành đến đứng lớp. Những người đã nhận lời đến với trường có một sự quan tâm đặc biệt dành cho học
viên. Họ cũng có nhu cầu “khai thác” các học viên, một tập thể đa dạng và hấp dẫn: những sĩ quan vừa kinh qua
chiến trường ở khắp các quân binh chủng, những nữ thanh niên xung phong và bộ đội phục viên, những sinh viên
của phong trào đô thị miền nam… Những tên tuổi như Nguyễn Tài Cẩn, Đặng Nghiêm Vạn, Trần Đình Hượu, Phan
Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Từ Chi, Hồ Ngọc Đại, Phạm Hồng Gia, Hồ Văn Thơng, Tạ Quang Thành,
Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Huệ Chi… bên cạnh những cái tên Nguyễn Đình Thi, Xn Diệu, Nguyễn Tn, Tơ
Hồi, Ngun Ngọc…, là những nhân vật mà học viên sẽ tiếp xúc hằng ngày.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn giảng về ngôn ngữ, đánh thức trong nhà văn những suy nghĩ rộng lớn hơn câu chữ. Người
cầm bút phải tự kiểm lại xem mình đã đối xử với ngôn ngữ ra sao: đã thật trân trọng, trau chuốt, yêu mến, đã biết

tự làm giàu bằng cách khai thác ngôn ngữ từ dân gian hay chưa. Sự sâu sắc trong nội dung cùng cách diễn đạt rất
tự nhiên trong cả lời nói lẫn điệu bộ của giáo sư đã hoàn toàn chinh phục người nghe. Và người ta hiểu ra vì sao
người đàn ơng Việt Nam nói giọng Nghệ và hay nhai trầu này lại lơi cuốn một cơ gái Nga bỏ cả gia đình xứ sở sang
Việt Nam làm dâu, trở thành một người vợ giống hệt như bao bà vợ Việt Nam bình thường khác.
Khi nhà văn Nguyễn Đình Thi xuất hiện trong buổi giảng đầu tiên, học viên lắng nghe như uống từng lời ơng, từng
cái khốt tay, từng bước đi, từng cái liếc mắt cau mày… Và quả thật ông Thi đã bộc lộ rất rõ cốt cách của một người
viết kịch: từng cử động của cơ thể, từng chuyển động nhỏ nhất của gương mặt, ánh mắt, từng âm lượng lên bổng
xuống trầm của mỗi câu nói, ơng đều rất biết điều tiết để đạt hiệu quả cao nhất. Ông biết người ta đang lắng nghe,


đang chú mục nhìn mình. Câu chuyện mà ơng dùng để kết bài giảng là chuyện về con lừa, mà ông bảo rằng rất tiếc
vì chỉ mới được đọc, quá trễ, khi tuổi đã lớn.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài giảng của mình lại mượn câu chuyện về con cuốn chiếu. Ông kể rằng cuốn chiếu đã
được các nhà báo phỏng vấn về việc hằng ngày đã bước đi như thế nào để hàng trăm cái chân không hề va chạm
vào nhau. Và lần đầu tiên, cuốn chiếu phải tổng kết, hệ thống lại tất cả những kinh nghiệm đi đứng có được, để rồi
sau đó, khi bắt đầu bước đi trở lại, nó bỗng… lạng quạng đâm quàng chân này vào chân kia một cách đầy hỗn loạn.
Có nghĩa là học viên hãy cứ học, nhưng đừng để các thứ tri thức và lý luận làm mình rối tung lên và tắc tị ln,
chẳng cịn viết lách gì được, giống như con cuốn chiếu.
Ngoại ngữ quả là một thử thách thực sự đối với nhiều học viên đã rời bỏ đèn sách từ hai mươi năm trước. Tuy nhiên,
đó là môn bắt buộc và lớp đã chia ra làm hai, nửa này học Anh văn còn nửa kia học Nga văn. Cơ giáo Nga văn
Nguyễn Hồng Giang là con gái một người Đức trong quân đội Pháp đã lấy vợ Việt Nam. Gia đình đã qua Nga sinh
sống khi cô Giang mới lên tám, nhưng lúc thành niên, cô quay về Việt Nam, vào học trường sư phạm và sau đó đi
dạy, rồi lấy chồng Việt Nam.
Nhỏ nhắn, xinh xắn với một gương mặt hoàn toàn Tây nhưng phong thái lại rất Việt, cơ chiếm được cảm tình của
mọi người qua cung cách làm việc đầy trách nhiệm. Buổi học tiếng Nga nào cả lớp cũng cười bằng thích vì Chu Lai
ln nhiệt tình thái q, lúc nào cũng xung phong đứng lên trả lời, nhưng lại đọc như quát vào mặt người đối diện.
Trong khi đó, rất nhiều học viên khác khi bị gọi đến cứ ấp úng ngập ngợ mãi, rồi bỗng nhiên buột ra mấy tiếng đầy
hục hặc khiến cơ giáo dù bặm mơi cố nín cũng phải bật lên cười.
Lớp Anh văn cũng chẳng hơn gì lớp Nga văn. Đều đã quen sử dụng tiếng Việt để viết, những nhà văn khơng cịn trẻ
q cực nhọc để bắt đầu lại với một ngữ pháp hoàn tồn xa lạ cùng cách phát âm chẳng có gì giống như tiếng Việt.

Chỉ với từ “the teacher” mà có học viên đã phải vật vã đi tới đi lui lầm bầm mãi như tụng thần chú thành cái câu
được anh Việt hóa: “Đơ chích chịe… Đơ chích chịe”…
Người gây ấn tượng rất mạnh với học viên chính là nhà văn Nguyễn Tuân. Dù đã được nghe bao giai thoại về nhà
tùy bút đầy cá tính một cách “khó chịu” này, mọi người vẫn bất ngờ khi tiếp xúc với ông. Vừa bước vào cái nhà kho
đã được cải tạo để biến thành giảng đường bất đắc dĩ cho các nhà văn, bác Tuân đã khiến mọi người bật cười bằng
câu nói: “Điện rồi tắt cho mà xem”. Và ngay sau đó, đúng là điện tắt thật. Với vẻ hồng hào khỏe mạnh, bác cởi tất
cả khăn mũ ra trước khi bắt đầu bài nói, trong khi hầu hết bọc viên vẫn mang khăn mũ vì trời rất lạnh. Ln mang
theo một chai rượu nhỏ cất trong áo, thỉnh thoảng bác lại rút ra thưởng thức vài ngụm, đôi khi bác còn ngồi hẳn
xuống bục để nhấm nháp chút bánh mang theo, một cách rất thoải mái. Cũng có khi bác nhắp mơi ly trà nóng đặc
sánh mà học viên luôn pha để sẵn trên bàn thầy. Bác Tuân kể chuyện nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã lấy tài liệu ở
bệnh viện bằng cách đăng ký là người bệnh, kể chuyện đi lao động ở Điện Biên Phủ ... Vui là thế nhưng khi nhắc đến
cái lớn nhất để chứng tỏ giá trị của nhà văn: tác phẩm, bác bỗng chớp chớp mắt, lặng thinh hồi lâu rồi mới nói tiếp.
Bác khơng giấu rằng mình đã rơi lệ. Có vẻ như khơng phải bác đến để giảng bài mà chính là cơ hội để hai thế hệ
cầm bút làm quen và cùng đứng cạnh nhau.
Người có giọng nói “lợi hại” nhất trong các giảng viên chính là Giáo sư Trần Quốc Vượng. Không lớn tuổi hơn bao
nhiêu so với một số học viên, vị giáo sư vui tính này hết sức hòa đồng, sẵn sàng nhập chung vào những đám vui vẻ
trẻ trung của lớp. Trên bục giảng, không chỉ cách tiếp cận lịch sử hay lời lẽ đanh thép của ơng khiến mọi người thích
thú, mà giọng nói lồng lộng của ơng cũng rất có tác dụng. “Xin lỗi các đồng chí nữ 101 lần, xin lỗi các đồng chí bộ
đội 1001 lần…” là câu cửa miệng sau khi nói ra một điều mà ơng nghĩ khơng dễ để mọi người chấp nhận. Giáo sư
hay lặng thinh đi lại giữa các dãy bàn suốt từ đầu đến cuối lớp, và rồi bất ngờ, giọng nói mười hai thành cơng lực
của ông bỗng vang lên, khiến vài học viên đang gà gật ngủ kinh hoàng bật dậy, như bị bỏ bom.


3. Tuổi hai mươi độ lượng

Có sáu nữ học viên trong khóa I. Đỗ Thị Hiền Hịa, một cây bút công nhân đến từ Hải Hưng;
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, giải nhất báo Văn Nghệ với truyện ngắn Cây hoàng liên rễ đắng, đi bộ
đội về và trở thành cô giáo; và ba người từng sống trên đất lửa Quảng Bình những năm chiến
tranh: Lê Thị Mây, Lâm Thị Mỹ Dạ và Dương Thu Hương. Chị Mây và chị Dạ đều đã được biết
tới nhiều, đi học khi đang làm việc ở Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Và tơi, cơ gái miền Nam duy

nhất lọt vào ngôi trường đặc biệt này.
Ba năm sống trong những điều kiện khơng thể hình dung nổi và qua những thử thách lớn cho cả
ngôi trường, tôi đã hiểu một cách khá thấu đáo về rất nhiều điều.
Tuổi trẻ đã cho ngưòi ta sự hồn nhiên và sức chịu đựng tốt, và tôi cám ơn tuổi trẻ của mình vì
điều đó. Hà Nội năm 1979 vẫn q xa với rất nhiều người, vì khơng phải cứ muốn là đi như bây
giờ. Chỉ mới bốn năm sau 1975, và hai cuộc chiến tranh biên giới cộng với cấm vận khiến cả
dân tộc đang phải quặn mình chịu đựng.
Tôi đã chần chừ khá lâu sau khi nhận được thư từ Hội Nhà văn về việc đi học: cha mẹ tơi đã già
và đều có bệnh, và cả bốn em tôi đều đang đi học. Khi nghe tôi quyết định đi học, mẹ tơi đã nói
một câu tơi khơng bao giờ qn được: “Con đi thì cịn đủ cha mẹ nhưng khi con về thì biết có
cịn khơng”. Đúng là cha tôi đã không đợi được tới ngày tôi ra trường, cha tôi đã mất vào ngày
mồng 2 tết, đầu năm 1982, năm học cuối của tôi.
Người dân Hà Nội năm 1979 vẫn rất ưu ái với những đồng bào từ miền Nam. Vào chợ Đồng
Xuân, tôi được các bác tiểu thương nhắc nhở: “Cô cẩn thận túi xách nhé!” Xếp hàng mua nhu
yếu phẩm, tôi nghe mọi người bảo nhau:“Cho cô ấy đứng trước đi. Cô ấy người miền Nam chưa
quen xếp hàng”…
Thế nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có những điều êm dịu.
Chỉ hai tuần sau khai giảng, tôi đã bị mất xe đạp. Khi đi từ căn hộ trên lầu hai của họa sĩ Thế
Vinh xuống, tơi và người bạn Sài Gịn vẫn loanh quanh chạy tìm chiếc xe, cứ nghĩ có ai đã dẹp
tạm vào đâu đó. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã nói đùa về việc này:“Vậy là cô đã làm cho Hà
Nội mang tiếng đấy nhé”.
Vào ở nội trú, tôi đỡ được một việc cực nhọc là đạp xe đường xa và hít bụi trong cái thành phố
mù mịt bụi này. Hà Nội đang thiếu điện trầm trọng, về đêm đường phố tối đen tối mịt, cứ như
đang tình trạng phịng thủ thời chiến. Có những đêm, đạp xe từ nhà chú tôi ở Hàng Bạc về lại
trường trên đường Đê La Thành, tơi cứ mong có một chiếc ơ tơ trên đường, để có được chút ánh
sáng.
Bọn trẻ con thường mai phục trên một số đoạn phố, giăng dây bẫy người với ná và sỏi chờ sẵn.
Nhiều hơn một lần tôi đã ngã chổng vó và ăn đạn vỡ cả mắt kính.
Thời gian đầu, Trường Đại học Văn Hóa buộc tất cả học viên viết văn phải ăn ở bếp tập thể.
Thức ăn thường chỉ là rau, su hào… nấu rặt với muối, nên dù lạt nhưng vẫn chát, không sao nuốt

nổi. Thỉnh thoảng cũng có hơm ăn cơm khơng độn, nhưng nhiều hơm chỉ tồn mì, và có khi liên


tiếp suốt mấy bữa là bánh mì chấm với dưa cải chua nấu muối (!) Nuốt xuống, dạ dày chẳng
muốn tiếp nhận, cứ đau quặn lên, đẩy lên lại, rất khó chịu.
Cho đến khi học viên Trường Nguyễn Du được phép tự nấu ăn, với lý do họ vẫn đang viết lách,
phải thức khuya làm việc, thì chúng tơi mới được quyền chăm sóc cái dạ dày khốn khổ đang bị
đày ải của mình. Với gạo hay mì mua được từ tem phiếu, chúng tôi mang ra chợ, đổi lấy gạo quê.
Người dân quê làm ra hạt gạo nhưng không bao giờ dám ăn những hạt cơm dẻo mềm lúa mới vì
chúng nở ít q, hao gạo. Họ mang ra đổi lấy thứ gạo mậu dịch, cũ và có khi đã hơi mốc, nhưng
điều quan trọng là nó nở bung nồi, cho người ta có thể no bụng hơn.
Bổ sung thêm màu sắc cho lớp, là một nữ học viên rất đặc biệt, rất trẻ, chỉ mới ba tuổi. Đó là Bê
Lim, con gái thứ hai của chị Mỹ Dạ, mà chị mang theo, để lại ở Huế đứa lớn hơn cho anh Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Một đứa bé đang thời kỳ học nói, ngày nào cũng vào ngồi nghe cùng mẹ
những bài giảng rất nặng đô, với biết bao từ ngữ và khái niệm, chẳng rõ Bê Lim có tiêu hóa được
gì khơng, nhưng ngơn ngữ của Lim thì đúng là rất “khẩu khí”. Khơng hiểu từ đâu mà Lim chỉ
tồn gọi cha là Ơng Tường và mẹ là Mụ Dạ, khi nói chuyện với người khác. Lim trịn trĩnh, rất
xinh với đơi mắt to trịn, hai má căng mịn, lúc mới ra Hà Nội tối nào cũng khóc đòi chuối. Về
sau, trở thành bạn của tất cả học viên, Lim trở nên vui vẻ, nói nhiều hơn và với riêng tơi, Lim
cịn là “người bảo vệ”.
Căn phịng cuối dãy của tơi nhìn sang bên làng, có đơn vị bộ đội đang đóng qn. Những chàng
lính trẻ rảnh rỗi, cứ thấy con gái ló mặt ra ở bờ ao là ó lên trêu chọc. Chỉ có Lim mới dám phản
ứng theo kiểu của mình.
Lim nhảy cẫng lên khỏi mặt đất, tay thì xỉa, mồm thì hét vói sang bên làng bằng cái giọng ngọng
líu của mình: “Ê cái xằng (thằng) kia, chại (tại) sao mày dại (lại) dám chêu (trêu) cô Cúc của
chao (tao)?”. Cho đến khi chị Dạ kêu lên từ phịng mình: “Lim ơi, hét to rứa coi chừng viêm
họng đó con” đến lần thứ mấy thì Lim mới chịu im.
Có lần, bên nhà chị Dạ có khách, Lim trốn biệt sang phịng tơi, mẹ kêu cách gì cũng khơng chịu
về. Tơi bảo “Lim về đi kẻo mẹ la”. Lim xụ mặt xuống: “ Dim (Lim) không về đâu. Về Mụ Dạ
bắt dàm (làm) xơ (thơ) đó”.

Nếu Bê Lim hiên ngang bao nhiêu thì chị Mây lại lép vế bấy nhiêu. Cửa sổ phịng chị trơng ra
một cây táo xanh của nhà dân. Không rõ ai đã vặt hết táo trên cây nhưng với bà chủ nhà thì thủ
phạm chỉ có thể là chị Mây. Vậy là, hễ nữ thi sĩ Mây đi học về, mở cửa sổ ra, là lập tức một bài
chửi có vần có điệu, mơ tả đúng hình dáng, tuổi tác chị Mây, kèm với vũ đạo phụ họa rất dữ dội
lại cất lên, suốt một thời gian dài. Chúng tơi chỉ có thể cười cợt, xem đó là một tiết mục văn nghệ
quần chúng rất đặc biệt, đáng thưởng thức, mà không phải ai cũng may mắn được phục vụ mỗi
ngày.

4. Dù bão có nổi…

Ba năm của Khóa I (1979- 1982) đúng vào thời gian có rất nhiều xáo động ở Hội Nhà văn.


Từ khi khai giảng cho đến lúc bế giảng, không biết bao nhiêu lần chúng tơi nghe rằng trường có
thể bị giải tán bất cứ lúc nào. Vì thế, suốt trong thời gian học, chúng tôi theo dõi rất sát tin tức
thời sự nóng hổi mỗi ngày từ phía Hội Nhà văn: những thơng tin rị rỉ nào đang được loan truyền,
những quả bóng thăm dị nào đang được ném ra, những bài báo nào mới được lên trang, do ai
viết, nội dung nói về điều gì, liên quan thế nào đến các nhân vật chủ chốt của Trường, và sẽ tác
động như thế nào đến sự tồn tại của Trường Viết văn.
Rất nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động của Trường, mà khó nhất là kinh phí. Có thời
gian ngay đến tiền thù lao cho giảng viên cũng khơng có đủ để trả, một vấn đề vượt quá khả
năng giải quyết của những người đã thực sự đánh cuộc sự nghiệp của cả đời mình cùng với ngôi
trường đặc biệt này.
Từ một việc nhỏ cũng đã cho thấy mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng không thuận lợi.
Sau kỳ nghỉ tết của năm thứ nhất, khi trở lại trường, tơi kinh hồng nhìn thấy cả sân trường tan
hoang xơ xác. Rất nhiều bạch đàn, bạc hà, xà cừ trồng từ ngoài đường Đê La Thành vào, dọc
theo chiều sâu của trường Đại học Văn Hóa đã trốc gốc, ngã đổ chỏng trơ. Những cây khơng đổ
thì nghiêng ngả, giơ các cành trơ ra khắp hướng, nom thật dữ tợn.
Trường Viết văn Nguyễn Du càng tiêu điều hơn, mà tệ nhất là phịng ở của tơi, ngay cuối dãy.
Bão đã thổi trốc hết một phần tư mái nhà lợp tranh. Vậy là hễ trời nắng thì tơi có thể vui vẻ thêm

được chút ánh sáng cho bàn viết, cịn hễ trời mưa thì trong nhà dột nát, y như ngồi sân.
Hiệu phó phụ trách hành chánh, Tiến sĩ Huỳnh Khái Vinh đã nhiều lần làm thủ tục xin cấp kinhphí-sửa-chữa, nhưng để có được những tấm tranh lợp nhà ấy không phải chuyện giản đơn. Phải
đến một năm rưỡi sau, “kinh phí” để mua mấy tấm tranh lợp nhà ấy mới được phê duyệt.
Và tôi đã được hưởng nhiều hơn một mùa gió đơng bắc rét buốt xộc thẳng xuống giấc ngủ của
mình. Ngày mưa, tơi chẳng cịn cách nào khác hơn là lấy áo măng-tơ phủ lên đỉnh mùng, để mưa
không làm ướt hết chỗ nằm. Rất may là Hội Nhà văn đã lo cho mỗi học viên nội trú một tấm
chăn bông nặng đến 5 ký, cứu cho tôi một bàn thua trông thấy: tối mùa đơng, tơi cứ việc chui hết
cả đầu mình chân tay vào cái kén kín mít sực nức mùi bơng vải ấy, mặc kệ cái mái tranh te tua
xơ mướp tha hồ rên rỉ cùng với gió mùa đơng bắc bên ngồi.
Thế nhưng những người vơ can thì hình như lại đau khổ vì nó hơn tơi. Chủ tịch tỉnh Phú Khánh
Hồ Ngọc Nhường và nhiều cán bộ chủ chốt các tỉnh phía Nam ra ghé thăm “Trường Quốc tử
giám thời nay”, mục sở thị mọi chuyện, đã phải kinh ngạc kêu lên “Sao lại đối xử với anh em
nhà văn kiểu này. Trại cải tạo chỗ chúng tôi nhà cửa còn tươm tất hơn.”
Chàng kiến trúc sư người Hà Nội có mái tóc bồng bềnh và đơi mắt mênh mang, người mà chị H.
định gả tôi, khi đến thăm căn phịng thê thảm của tơi, đã lập tức đề nghị để anh làm cho tôi một
mái che phụ bên dưới mái tranh, nhưng tôi không đồng ý. Một vài học viên nam trong khu nội
trú cũng đề nghị đổi phịng nhưng tơi trả lời khơng: tơi khơng thể đẩy cái khó sang cho bạn mình
như thế.
Khó thì khó, khổ thì khổ, những ngày đi học vẫn có biết bao niểm vui mà khơng ai có thể lấy đi
được của chúng tơi, dù với bất cứ lý do nào. Ngồi nhiều giờ lên lớp thực sự thú vị, hấp dẫn, hầu
như mỗi tuần chúng tơi đều có mấy buổi xem phim, cộng với một vài buổi nghe hòa nhạc, đi
xem kịch. Đó là chưa kể bè bạn từ Hà Nội và từ khắp các địa phương kéo về.
Khu nội trú trở thành một điểm đón khách vui vẻ, mở rộng thêm mối giao tiếp giữa những người
cùng chia sẻ tình yêu đối với văn chương, mà cuộc sống muôn vàn thiếu thốn của thời hậu chiến


chưa thể làm biến dạng. Khi đến, khách có thể mới chỉ là bạn của một người, nhưng khi ra về,
anh đã có thể là bạn của tất cả.
Ngày ấy, vở kịch Kẻ đốt đền đang gây cơn sốt giữa thủ đơ Hà Nội. Eroxtrat- Đồn Dũng đang
làm bùng nổ khán giả qua cách diễn xuất thần, cân bằng giữa sự tiết chế cần thiết với sự bộc phát

tối đa cảm hứng nghệ sĩ, đáp ứng đúng cái mà người xem Việt Nam đang mong đợi. Những chi
tiết kịch, những câu thoại kiểu như, của Eroxtrat: “Ở thành Efrét này có ai sống nổi bằng sáng
tác, thời buổi này người ta ăn nhiều mà đọc ít…”, của chàng ngun sối ít học, mê vợ, luôn
ngúng nguẩy một cách thái quá: “Ta là một người đánh cá, ta yêu cá và cá yêu ta… Ta chỉ muốn
sống những ngày cuối cùng cho riêng mình chứ đâu phải cho lịch sử… Anh cứ nói những gì anh
nghĩ nhưng hãy nghĩ những gì anh nói…” khiến người xem khối chí đến tối đa, bộc lộ bằng
những tràng pháo tay không dứt.
Kịch bản Liên xô, đạo diễn Bulgaria, và diễn viên Việt Nam đã cùng hợp lại để đưa ra câu trả lời
cần thiết và đúng lúc cho sân khấu đang đầy trăn trở của Việt Nam.
Tiến sĩ Đình Quang, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã đến trường với những chuyên đề về kịch,
còn kịch tác gia Tào Mạt là một trong những khách quý của khu nội trú, người mà bộ ba Bài ca
giữ nước của ông giờ đây đã trở thành một tài sản quý giá, một bài bản gần như cổ điển, với lời
thoại trau chuốt, cổ kính, sang trọng, những tình huống kịch sắc lẻm mà vẫn tràn trề tính văn
hóa, đề cao vẻ đẹp truyền thống của một thời kỳ Việt Nam hội đủ tất cả những tự hào chính đáng
về mọi phương diện.
Xem nhiều, đọc nhiều, tiếp xúc nhiều, nhu cầu phải viết hay ngày càng mạnh lên trong chúng tôi,
bất kể mọi thứ trong sinh hoạt hằng ngày có đánh đố mình đến đâu.
Một đoạn trong nhật ký của tôi, ngày 11.6.1981: “Đài báo bão mấy hôm nay. Nóng hầm hập một
cách khơng chịu được. Đêm nay gió đùng đùng nổi to, điện cúp…
Thế là phim dừng lại. Rồi có điện, máy lại nổ, lại chiếu tiếp tục, và lại tắt máy, lại dừng, ba bốn
lần như thế… Chuyện phim đã căng thẳng, cộng thêm những chờ đợi căng thẳng giữa buổi
chiếu nên đến cuối buổi thì đúng là ai nấy đều ở trong trạng thái thần kinh rã rời.
Trời vẫn mưa, mà đã gần 12 giờ đêm. Thế là hầu hết lao ra giữa màn mưa, đội mưa mà về.
Đường ngập lênh láng, lút cả bánh xe đạp. Phải dắt xe lội bộ suốt từ Lý Thường Kiệt đến hết
đoạn Nam Bộ, ướt đến tận vế non và chân thì mỏi rục. Người mình mấy hơm nay đã rất mệt mà
vẫn liều dầm mưa, để xem rồi sẽ ra sao…”
5. Ngọt như cà phê – đắng như đường
Nếu có một cuộc bầu chọn người sống chết nhất với Trường Viết văn Nguyễn Du, thì 200% học
viên khóa I sẽ bầu cho Tiến sĩ Hồng Ngọc Hiến.
Khơng chỉ là người lên nội dung chương trình học và chọn giảng viên cho trường, ơng cịn lặng

lẽ ngồi nghe khơng sót buổi giảng nào, như một học trị chăm chỉ nhất, bởi ơng đã nhận về mình


phần công việc rất khiêm tốn: giảng bổ sung cho học viên những gì ơng cho là cịn có thể triển
khai thêm trong các bài giảng của giảng viên.
Trong ký ức của mọi người, chân dung vị hiệu trưởng đầu tiên là hình ảnh một người trí thức
kiên định đã dám chọn và đi đến cùng con đường khó của mình.
Một số giai thoại về ơng chỉ khiến người ta yêu quý ông hơn, về sự lơ đãng của một người đã
dành hết thảy tâm trí cho chỉ một việc duy nhất. Có lần, người vợ xinh đẹp của ơng trên đường đi
đến tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã quay lại nhà, gọi cửa vì cịn bỏ qn gì đó. Ơng ra mở cửa
cho bà nhưng khơng hề nhận ra đó là vợ mình, rất lễ phép nhỏ nhẹ hỏi rằng bà cần gặp ai, có việc
gì khơng. Lần khác, sau một hội nghị, ông ra chỗ gởi xe, thản nhiên mở khóa một chiếc Diamont
và ngồi lên, tính đạp đi thì bị một người giữ lại. Rất may là người này đã tin rằng ông chỉ lấy
nhầm xe, cũng một chiếc Diamont, mà khơng làm gì phiền tối cho ơng.
Bên cạnh sự đãng trí hết mức của Tiến sĩ Hoàng Ngọc Hiến là sự kiên nhẫn, nhân hậu, chịu
thương chịu khó, nhận hết phần cơng việc chẳng có gì thi vị và sang trọng về mình: cơm áo gạo
tiền trong sinh hoạt hằng ngày và trong những chuyến đi thực tế cho học viên, của hiệu phóTiến sĩ Huỳnh Khái Vinh, trở về từ Cộng hòa Dân chủ Đức. Hai tính cách của hai con người này
đã bổ sung cho nhau một cách tuyệt diệu, để đứng cạnh và hỗ trợ nhau, duy trì hoạt động và sự
tồn tại của trường, qua bao nhiêu thử thách.
Người thứ ba, thuộc thế hệ trẻ và từ Liên Xô về Trường Viết văn Nguyễn Du trễ hơn chút ít, là
Tiến sĩ Phạm Vĩnh Cư. Còn trẻ hơn cả số học viên lớn tuổi của lớp, cộng với gương mặt rất baby
và tật nói lắp, ơng tiến sĩ văn học này ban đầu đã bị học viên chiếu tướng bằng những cái nhìn
chẳng mấy thân thiện và tin cậy. Thế nhưng cùng với thời gian và những bài giảng, sự uyên bác,
sắc sảo và thành quả nghiên cứu đầy tính khả tín khoa học của ơng đã chinh phục tất cả học viên,
đưa ông vào danh sách những người được yêu q nhất.
Tiến sĩ Huỳnh Khái Vinh ln có cung cách của một người anh gần gụi thân ái đối với học viên
hơn là một cán bộ quản lý, lúc nào cũng tìm cách cải thiện tối đa đời sống và việc học cho lớp,
chẳng quản ngại chuyện phải tốn bao nhiêu thời gian tới lui bao chốn công đường, để đạt cho kỳ
được mục đích. Kỷ niệm ba mươi lăm năm ngày khai sinh ngơi trường, ơng đã khơng có mặt, đã
ra đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng trong tâm tưởng của mọi người, ông không hề xa cách.

Ngày ấy, ông rất hay mời các học viên nữ đến chơi với vợ mình, thực ra có lẽ chỉ để có cớ để đãi
mọi người một bữa ăn tử tế. Vợ ông, chị Nghiêm, con gái một gia đình Việt kiều Thái Lan, đã
hồi hương theo lời kêu gọi trở về xây dựng đất nước. Mỗi khi chúng tôi đến, vợ chồng ông
xuống đường vác xe đạp của chúng tôi lên gác, trong một căn hộ nhỏ ở phố Chân Cầm. Và bao
giờ cuộc viếng thăm cũng kết thúc bằng một bữa cơm khá thịnh soạn so với cuộc sống nội trú
ăn-như-tu của chúng tôi.
Con gái ông Vinh, Diệu Hương, cũng rất thân thiết với các học viên. Cô gái trắng trẻo ngây thơ,
mắt mí lót, xinh xắn, rất giống một búp bê Nhật Bản. Diệu Hương đang theo học lớp ngoại ngữ
để chuẩn bị đi du học thì bị tai nạn giao thông. Từ trên xe đạp, cô đã ngã vào chiếc xe ca chạy
cùng chiều, không hề bị sây sát hay chảy máu, nhưng đã chết ngay tại chỗ, trong khi cơ bạn chở
cơ lại chẳng hề hấn gì. Đám tang cô gái mười tám tuổi với rất nhiều sinh viên cầm hoa đưa tiễn,
rất nhiều người quen của gia đình trong giới văn hóa văn nghệ, cùng một đồn ơ-tơ rất dài chở
tồn vịng hoa trắng đã làm xao xuyến bao nhiêu trái tim người Hà Nội.
Nhìn thấy ông Vinh khóc không ra tiếng và chị Nghiêm ngất đi không biết bao lần, chúng tôi
phái cố nuốt nước mắt để an ủi hai người. Nhưng đến lúc hạ huyệt thì đúng là khơng thể nào chịu


đựng nổi. Diệu Hương gương mặt vẫn tươi rói, lại được bè bạn trang điểm cho, nên trông như
đang ngủ trong chiếc áo quan vẫn để ngỏ cho đến trước lúc di quan.
Nhưng Hà Nội đang mùa mưa, huyệt đầy nước, cả khu nghĩa trang cũng ứ đầy nước, không cách
gì làm khơ đi được. Lúc hạ huyệt, quan tài bị nước đẩy nổi lên, và người ta phải lấy những cây
tre dài cố đè xuống để có thể lấp đất lên. Tiếng những xẻng đất to tới tấp rơi trên chiếc áo quan
bị dìm trong nước bùn đen sánh, và gương mặt tươi rói như đang ngủ của Diệu Hương vẫn cứ
hiển hiện trước mắt tôi khiến suốt một thời gian dài, tơi khơng cách gì dỗ mình ngủ được.
Nhưng nỗi đau, nỗi mất mát to lớn ấy đã khơng quật ngã được Tiến sĩ Huỳnh Khái Vinh. Ơng
vẫn tiếp tục gánh vác những công việc không dễ chịu chút nào ở trường. Và về sau, chính nhờ
cơng khó nhiều năm đi lại, vận động, thuyết phục của ông, Thủy Điện Hịa Bình đã tài trợ cho
truờng xây lại dãy nhà tranh vách đất thành một dãy nhà mái fibro xi măng, vách tường, với
phịng ở 9 mét vng cho mỗi học viên, được trang bị cả giường-tủ-bàn tươm tất, có cả điệnnước-nhà vệ sinh riêng cho cả khu, giống như một giấc mơ hoàn hảo cho tất cả những sinh viên
đang trọ học ở thủ đô.

Nhưng, cái chuyện đẹp đẽ này chỉ có thể xảy ra vào 10 năm sau, là chuyện sẽ thuộc về khóa 4,
khóa 1989- 1992.
Cịn chúng tơi ngày ấy, sau những giờ lên lớp, vẫn ngày hai bữa đứng ngồi sắp hàng dọc theo
mái tranh, đứa lặt rau đứa vo gạo, mỗi phòng lỉnh kỉnh một xô nước, cùng với thau chậu, nồi
niêu soong chảo… Tiếng ro ro thuốc lào từ các phòng nam, tiếng hát nhạc Trịnh Cơng Sơn từ
các phịng nữ, đơi khi có cả tiếng ghi-ta bập bùng, tiếng harmonica réo rắt của những kẻ lười
biếng không nấu ăn, hay tiếng đọc thơ véo von của một khách đến chơi nào đó…
Cứ sau mỗi kỳ mua được lương thực, cả đám lại đèo nhau ra Ô Chợ Dừa đổi gạo, mỗi khi nghe
đâu đó có bán vải, bán thịt cá lại réo nhau đi xếp hàng mua, và mỗi khi ra phố lượn lờ bách hóa
lại rủ nhau đi thành nhóm. Chẳng có ai đơn độc trong cái tập thể đã được gắn kết một cách tình
cờ nhưng rất chặt vào nhau này.
Mỗi người trước khi ra đến trường đều đã cắt tất cả những tiêu chuẩn sinh tử của mình ở địa
phương: hộ khẩu, lương hướng, và cả tem phiếu để mua mọi thứ: lương thực, thực phẩm, vải,
chất đốt…
Giờ đây, chúng tơi chỉ cịn có ngơi trường này là mái nhà chung duy nhất, tập thể này là gia đình
thứ hai, và số phận của ngơi trường cũng chính là số phận của mỗi chúng tơi.

6. Cứ đi thì sẽ đến
Tháng 11 năm 1982, lễ bế giảng khóa I đã được tổ chức một cách trọng thể. Mỗi học viên nhận
được cùng lúc hai tấm bằng: một của Đại học Văn Hóa (có giá trị thực tế) và một của Trường
Viết văn Nguyễn Du (với giá trị tình cảm).
Các ngơi sao lại sáng lóe trên cổ áo các học viên sĩ quan quân đội, các nữ học viên lại tha thướt
áo dài, quan khách có mặt đơng đảo hơn, và nỗi hân hoan cũng lớn hơn hẳn so với ngay khai
giảng. Đài Truyền hình Việt Nam làm riêng một chương trình để giới thiệu về ngày tốt nghiệp
của Khóa I Trường Viết văn Nguyễn Du…


Mơ hình về một ngơi trường đặc biệt dành cho các nhà văn đã được khẳng định là cần thiết và
đúng hướng. Trưởng ban Văn hóa- Văn nghệ Trần Độ, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam
Nguyên Ngọc, các Tiến sĩ Hoàng ngọc Hiến, Huỳnh Khái Vinh, Phạm Vĩnh Cư… đã mừng vui

thấy rằng thành quả ban đầu của ngơi trường sẽ góp phần khẳng định chỗ đứng vững hơn của nó
trong xã hội, trước hết là với những đơn vị có liên quan: Ban Văn hóa- Văn nghệ Trung ương,
Bộ Văn hóa- Thơng tin, và Hội Nhà văn Việt Nam.
Tất cả học viên đã vui mừng ra khỏi một giai đoạn khó khăn nhưng chưa hình dung hết những
thay đổi lớn mà mình là một thành tố liên quan, trong quan niệm đã thay đổi về nhà văn. Mỗi học
viên đã già thêm ba tuổi và có thêm rất nhiều trải nghiệm, kể cả những trải nghiệm khơng mong
muốn sau ba năm xa rời gia đình, cắt đứt với môi trường và công việc quen thuộc để đi học.
Cái giá phải trả cho ba năm ấy không hề là giá thấp, đối với mỗi người. Một số cảm thấy tự tin
hơn khi trở về môi trường làm việc cũ, nhưng cũng có một số trở nên hoang mang: họ chưa biết
phải huy động chính mình thế nào sau ba năm đèn sách.
Tất nhiên khơng ai có thể thô thiển nghĩ rằng “đào tạo” nhà văn cũng giống như đào tạo kỹ sư
hay bác sĩ, cứ đúng quy cách, quy trình ở đầu vào và rồi đâu sẽ vào đấy, sẽ xuất hiện ở đầu ra
những nhà-văn-chất-lượng-theo-đơn-đặt-hàng.
Nhưng, nếu một người cầm bút mà lại không hề quan tâm đến sự tồn tại của triết học, tâm lý học,
phân tâm học, tôn giáo, lịch sử… , không cần biết đến tâm linh con người và cả phần tiềm thức,
vô thức… , không hề băn khoăn với những vấn nạn, những câu hỏi đặt ra từ cuộc sống, hay gạt
đi những thơi thúc từ chính lương tâm cầm bút của mình, nhìn mọi vật một cách đầy cơng thức
và máy móc, thì liệu nhà văn ấy có thể “mơ tả” xác thực bản chất của con người- xã hội, có thể
tìm được sự chia sẻ và thừa nhận nơi người đọc?
Những chuyên đề mà chương trình học đã khơi gợi sự suy tưởng hoặc giới thiệu kiến thức tổng
quan, nhập mơn cho học viên chỉ có thể trở thành giọt nước tràn ly đối với một số chứ không
phải với tất cả. Nhưng có lẽ những người đã dành hết khả năng và tâm nguyện cho sự ra đời và
tồn tại của ngơi trường cũng chỉ mong có thế.
Nhà văn cần phải học, và được quyền khám phá mọi thứ thuộc về con người chứ không thể chỉ
cắm cúi viết qua một ít năng khiếu trời cho rồi tự tán thưởng một cách viễn vơng bởi một khao
khát hồn tồn duy ý chí.
Một số học viên quân đội đã được phân cơng về tạp chí Văn nghệ Qn đội, Xưởng Phim Quân
đội, Nhà xuất bản Quân đội… Đa số học viên dân sự trở về địa phương, nắm giữ những vai trỏ
chủ chốt. Hữu Thỉnh sau thành công của trường ca Đường tới thành phố viết trong thời gian đi
học hẳn chưa hình dung đến một ngày sẽ trở thành Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Trí

Huân cũng khơng nghĩ rồi mình sẽ là Tổng biên tập Báo Văn Nghệ, Trung Trung Đỉnh và
Nguyễn Khắc Trường cũng không tin rằng mình lại là Giám đốc, Phó Giám đốc Nhà xuất bản
Hội Nhà văn…
Điều quan trọng hơn là nhiều tác phẩm của một số học viên công bố về sau đã cho thấy một đổi
thay thấy được trong cách nhìn con người, sự vật, tìm đến những giá trị cao hơn và sâu hơn, thật
hơn, nhân văn nhân bản hơn, vượt qua sự phiến diện chủ quan của những kẻ điếc không sợ
súng...
Từ tháng 11 năm 1979- ngày khai giảng khóa I, cho đến tháng 11 năm 2014- kỷ niệm 35 năm
Trường Viết văn Nguyễn Du, bao nhiêu dâu bể đã đi qua trên đất nước Việt Nam, trong văn hóa


và văn chương người Việt, trong mỗi trái tim, tâm hồn của từng nhà văn Việt Nam. Rất nhiều
người từng đến với Trường bằng tất cả tình cảm và tâm huyết đã khơng thể có mặt trong ngày
vui, đã ra đi vĩnh viễn: Trần Độ, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn
Thành Long, Nguyễn Văn Bổng, Từ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình
Nghi, Huỳnh Khái Vinh…
Ngày kỷ niệm, học viên các khóa đều có mặt nhưng khơng đơng đủ. Những người có mặt thì vui
sướng gặp lại nhau sau bao năm xa cách, vui sướng nhìn thấy dãy nhà tranh vách đất giờ đã được
xây mới thành một dãy nhà bốn tầng khá đẹp. Cịn những người khơng có mặt, họ đang làm gì, ở
đâu? Phải chăng họ đã xả bỏ quá khứ, trong đó có cả quá khứ của ba năm học ở Trường Viết văn
Nguyễn Du? Có thể họ đã hoặc đang có những điều khơng vui với cuộc đời này nhưng có lẽ họ
sẽ khơng thể nào qn những tháng ngày sinh viên thật lạ lùng, thật quý giá ấy.



×