Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

TIẾP CẬN BÀI ĐÂY THÔN VĨ DẠ TRÊN TINH THẦN TRIẾT LÍ ÂM DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.77 KB, 4 trang )

TIẾP CẬN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN
MẶC TỬ TRÊN TINH THẦN TRIẾT LÝ ÂM
DƯƠNG
NGUYỄN THANH TÂM
---------------------------------------------------------------------
1. Triết lý âm dương chi phối sâu rộng đến đời sống tinh thần của con người phương
Đông nói chung và con người Việt Nam nói riêng. Ứng xử với môi trường tự nhiên và xã
hội theo tinh thần của triết lý âm dương, con người nơi đây luôn hướng tới sự cân bằng,
hoà hợp. Xu hướng ấy làm nên nét riêng, mang tính bản địa của văn hoá khu vực này. Từ
"cơ tầng" của văn hoá khu vực, suy nghĩ về cá tính văn hóa của người nghệ sĩ, chúng ta
thấy rằng cá tính đó là sự hoà quyện của những yếu tố nội sinh nằm trong khí chất con
người cá nhân với những yếu tố ngoại lai thuộc về văn hoá cộng đồng, nhân loại... Cá tính
văn hoá bao trùm và chi phối cá tính sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ, biểu hiện trong các
cấp độ của tác phẩm nghệ thuật. Với tinh thần đó, tiếp cận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử trên tinh thần triết lý âm dương là một hướng đi có cơ sở.

2. Lấy triết lý âm dương làm nguyên tắc tổ chức đời sống, con người phương Đông nói
chung và con người Việt Nam nói riêng luôn hướng tới sự hoà hợp, cân bằng âm dương.
Biến thông của vũ trụ trong triết lý âm dương cho thấy tinh thần biện chứng cổ sơ của con
người nơi đây. Âm dương vừa đối lập lại vừa dung chứa nhau, vận động, chuyển hoá,
tương khắc, tương sinh, tan hợp, tụ tán...làm nên lẽ huyền vi của đất trời. Con người cũng
không nằm ngoài cơ chế huyền nhiệm ấy. Có lẽ vì thế mà ở khổ thơ đầu tiên của bài Đây
thôn Vĩ Dạ sự hoà hợp diệu kì của thiên nhiên khiến xui lòng người khát khao tìm đến với
nhau: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thời khắc của cảnh là một sự hoà
hợp, lúc nắng mới lên, nghĩa là một bình minh trong lành, nắng chưa chói gắt đến mức
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Không gian tổng thể cũng là một sự hoà hợp. Vẻ
mướt xanh như ngọc của Vườn ai kia là sự ánh chiếu nhiệm màu của nắng mới lên (dương)
trên vòm lá lóng lánh sương mai (âm). Ở câu thơ hai, hai từ nắng (dương), ba thanh trắc
gợi sự rạng rỡ của ban mai. Nắng mới lên là tính chất, trạng thái của nắng trong thời khắc
của sự hoà hợp. Nắng linh lung, rạng rỡ, trẻ trung tinh nghịch. Nắng dậy thì rón rén mơn


man trên khu vườn ướt đẫm sương đêm. Rồi tất cả oà ra, bao trùm kín lấp trong sự hoà hợp
của thiên nhiên một buổi mai nhiệm màu.

Ở câu ba, âm điệu, thanh điệu (vườn, mướt quá, xanh, ngọc) gợi lên hình ảnh của cây cối,
của nước, của màu xanh (âm). Tất cả hoà quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt
diệu, say đắm, mời gọi lòng người. Bức tranh thôn Vĩ hoàn tất bằng một nét vẽ sắc sảo: Lá
trúc che ngang mặt chữ điền. Ta liên tưởng đến nét vẽ như một đường kiếm của danh hoạ,
danh kiếm Niten (1582-1642) người Nhật Bản - bức vẽ Chim bách thanh [1, 97]. Âm điệu
của cụm từ Lá trúc che ngang cao, sắc (dương), âm điệu của cụm từ mặt chữ điền trầm,
thấp (âm). Sự hoà hợp hai sắc thái ấy đem lại cảm giác gần gũi, đôn hậu, duyên dáng của
người của cảnh. Khổ thơ thứ nhất có một cặp vần lên - điền, theo cách nói của R. Jakobson
và Claude Lévi Strauss đó là vần âm[2, 181], kết thúc bằng phụ âm mũi (n) có tính chất
khép. Cặp vần này ôm giữ mệnh đề: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Chủ ngữ của mệnh
đề này là một thực thể hữu sinh: Vườn ai. Lí giải từ triết lí âm dương điều này hết sức có ý
nghĩa. Cặp vần âm kia bao bọc lấy chủ thể (Vườn ai) như một sự phong kín, gìn giữ. Vườn
ai là một biểu tượng nhiều ám gợi, vì thế tính hữu sinh của thực thể đó lại càng được mở
rộng trong một trường liên tưởng vô cùng phong phú. Vườn ai là vườn em chăng? Hàn
Mặc Tử chẳng phải đã có lần ví von Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm/ Bởi thơ anh tô
điểm đẹp trăm chiều, trường liên tưởng của thi nhân thống nhất, biện chứng là ở chỗ ấy.
Mùa xuân em hay chính là tuổi trẻ, là xuân sắc tình tứ của em? Từ cách lí giải như trên ta
mới hiểu câu đầu của bài thơ là một tín hiệu khao khát được hoà hợp: Sao anh không về
chơi thôn Vĩ?. Em nhiệm màu, tình tứ khao khát vẫy gọi xen chút dỗi hờn trinh nữ, Anh xa
xôi, cô quạnh nên ước ao trở về đoàn tụ, hoà hợp. Trong quan niệm âm dương, anh thuộc
tính dương, và như thế thôn Vĩ, Vườn ai kia là đối cực mang tính âm, là em chứ sao nữa!
Tinh thần biện chứng của triết lý âm dương biểu hiện rất rõ ở đây. Trong âm có dương,
trong dương có âm. Đó là một quy luật thuộc về bản chất của các thành tố âm dương. Và
trong chính sự hoà hợp lại tiềm ẩn những biến hoá khôn lường. Câu bốn của khổ một là sự
hoà hợp mang dự cảm bất trắc...

Dự cảm bất trắc ở câu cuối khổ một đến khổ hai đã hiện hữu thành sự chia lìa, li tán:

Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Quy luật âm dương
không chỉ vận hành trong những đối cực cụ thể. Tuỳ vào đối tượng so sánh, cơ sở so sánh
mà sự vật được định tính âm dương khác nhau. Sự hoà hợp bị phá vỡ, bị chia cắt bởi bàn
tay của định mệnh. Xét về tính linh hoạt, gió luôn vận động nên là dương, mây phải theo
gió (âm), sao giờ đây gió mây đôi ngả! Dòng nước thiếu sự lưu chuyển nên buồn bã quạnh
hiu. Hình ảnh hoa bắp lay miên man vào lòng người một nỗi sắt se khôn tả. Ai đã một lần
lặng nhìn hoa bắp lay bên cồn Hến hay cồn Giã Viên ven bờ Hương Giang trong một chiều
thu muộn mới thật thấm thía cảm giác này. Là hoa đấy mà thiếu đi sinh khí (dương), vô
sắc, vô hương đến vô duyên. Thiên nhiên ngơ ngác trong sự li tán, có lay mà sao thấy bơ
vơ, xơ xác quá! Mọi sự gắn kết hoà hợp dường như không còn. Vần chính (mây, lay, nay)
kết thúc bằng bán nguyên âm có tính chất nửa mở (y) như tâm trạng thấp thỏm âu lo của kẻ
khao khát tựa nương, thèm thuồng hơi ấm của sự hoà hợp nhưng lại phải chứng kiến sự li
tán trong từng hơi thở. Ở hai câu đầu, câu thơ bị bẻ gãy, bứt lìa, các thực thể bị đẩy dạt về
hai cực chơi vơi và buồn bã.

Nhịp thơ không dấu được sự phũ phàng. Hai câu sau nhịp thơ khá gấp gáp nhưng rụt rè,
một lời ướm hỏi đầy lo lắng. Trong hoang mang tuyệt vọng, câu hỏi của thi nhân nuối níu
buông giữa mênh mang: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?.
So với mặt trời thì trăng là âm, nhưng so với đêm đen thì trăng lại là dương. Ánh trăng -
ánh sáng của niềm cứu rỗi có kịp đến để thắp lên niềm hy vọng hoà hợp, đoàn tụ hay tất cả
mãi chìm trong bóng tối miên viễn (âm)? Và vì thế, sự thấp thỏm cứ hiện hữu đầy ám ảnh.

Sang đến khổ ba, cảnh và tình trượt vào vùng bảng lảng nhoè mờ của giấc mơ. Nếu
không gian của khổ hai là phi hiện thực thì không gian ở khổ ba là siêu thực. Các sắc thái
của cặp đôi âm dương vì thế cũng trở nên nhạt nhoà bất định: Mơ khách đường xa, khách
đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai
có đậm đà? Khổ một hướng đến em (âm), chiều định vị ở khổ ba lại hướng đến anh
(dương). Và như thế khổ hai được dựng nên như một bức tường, một sự ngăn trở. Gió,
mây, trăng, nước chia lìa xoáy hất, xô dạt anh và em về hai cực đối lập. Nơi em ấm áp, tươi
vui, còn anh bị đầy vào lãnh cung của định mệnh, cô độc và đau khổ. Sự trỗi dậy của

những ám ảnh, những ẩn ức, dồn đẩy vây bủa anh trong giấc mơ vừa nhiệm màu vừa khổ
ải. So với hữu thức, giấc mơ thuộc về thành tố âm.

Khách đã xa, đã đi khỏi giấc mơ đoàn tụ của thi nhân. Nhìn không ra, mờ nhân ảnh là hệ
quả của sương khói, của màu sắc cực âm (trắng quá). Đó là cái nhìn ảo mờ, khắc khoải của
anh từ thế giới Đau thương, từ địa ngục trần giới. Áo trắng ấy là em, thanh khiết và trinh
nguyên (âm). Nếu ngoái lại chẳng phải ta sẽ bắt gặp cái nhìn đau đáu tuyệt vọng của thi
nhân sao (dương)! Một điều đặc biệt nữa, vần chính (xa, ra, đà) kết thúc bằng nguyên âm,
là vần dương (R.Jakobson, C.l. Strauss) (chúng ta lưu ý ở khổ một là vần âm). Khách đã
xa, diệu vợi quá cả trong giấc mơ. Còn lại ở đây anh lẻ loi, cô độc, chìm lấp trong giấc mơ
của chính mình. Các đối cực ở khổ thơ thứ ba rất khó nắm bắt, bởi quy luật âm dương ở
đây vận hành trong chiều sâu của vô thức. Giữa anh và em, giữa những đối cực của cuộc
đời là khói sương, li cách. Giữa những chia lìa đành đoạn, giữa biết bao ngăn trở, ngay cả
trong mơ người ta cũng rụt rè. Câu hỏi cuối bài thơ cứ gieo vào lòng người đọc một nỗi
khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà?

3. Kẻ đã đau nỗi đau trần thế, đã mơ giấc mơ trần thế hẳn không bao giờ muốn rời xa trần
thế. Hàn Mặc Tử dẫu có siêu thoát lên thượng tầng thanh khí, hay rượt nà theo thượng đế,
thánh thần cũng vẫn không đi ra khỏi những biến thông của đạo trời và lòng người. Căn cứ
vào một trong những quan niệm cơ bản nhất của đời sống tinh thần con người phương
Đông nói chung, Việt Nam nói riêng - triết lý âm dương - chúng ta có trong tay một công
cụ nữa để tiếp cận thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, để thấu cảm nỗi hoài niệm
về sự hoà hợp đã phôi pha và những khát khao đoàn tụ trong niềm thấp thỏm âu lo của thi
nhân.
Thanh Hoá 18/4/2009


Hoàng Thúy Hoa @ 23:09 06/07/2009
Số lượt xem: 13


×