1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán là một bước phát triển tất
yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường cũng đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán để làm cầu nối giữa một bên là các
nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân chúng) với bên kia là các
doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và nhà nước cần tiền để thỏa mãn các nhu cầu chung
của đất nước.
Nhưng để các hoạt động trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra suôn sẻ thì
mọi hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường chứng khoán tập trung đều phải thông
qua tổ chức tài chính trung gian đó là các công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian nhằm thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán như cung cấp các dịch vụ môi giới, tư vấn, bảo
lãnh cho các nhà đầu tư và các tổ chức. Bên cạnh đó, công ty cũng thực hiện kinh
doanh chứng khoán cho chính mình thông qua hoạt động tự doanh. Hàng năm, hoạt
động tự doanh chứng khoán đã mang lại cho công ty những khoản lợi nhuận lớn song
nó cũng tiềm ẩn những rủi ro như các hoạt động kinh doanh khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này nên em đã chọn đề tài: “Phát
triển hoạt động tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agriseco)” làm luận văn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số lý luận cơ bản về công ty chứng khoán và hoạt động tự
doanh chứng khoán.
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển hoạt động tự doanh chứng khoán tại
Công ty chứng khoán Agriseco, từ đó đánh giá những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của chúng.
Đề ra các giải pháp phát triển hoạt động tự doanh chứng khoán của Công ty cổ
phần chứng khoán Agriseco trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu sự phát triển của hoạt động tự doanh chứng
khoán của Công ty cổ phần chứng khoán Agriseco.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động tự doanh chứng khoán của Công ty
cổ phàn chứng khoán Agriseco từ năm 20012 đến 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích và tổng hợp dữ liệu để khái
quát hóa lên bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ giúp Công ty cổ phần chứng khoán Agriseco đánh
giá được thực trạng phát triển hoạt động tự doanh chứng khoán tại công ty và là cơ sở
để các nhà quản lý tham khảo những giải pháp được đưa ra nhằm góp phần phát triển
hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty trên thị trường.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, bảng viết
tắt, luận văn được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tự doanh của Công ty cổ phần chứng khoán
NHNo&PTNT Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động tự doanh chứng khoán của Công ty cổ
phần NHNo&PTNT Việt Nam.
CHƯƠNG I
3
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Nguyên tắc trung gian là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của
thị trường chứng khoán. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động diễn ra trên thị trường
chứng khoán tập trung đều phải thông qua tổ chức trung gian, đó là công ty chứng
khoán. Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian chuyên kinh doanh
chứng khoán, là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập.
Tại Việt Nam, theo qui chế về tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán ở
quyết định 27/2007/QĐ-BTC ban hành ngày 24/4/2007 công ty chứng khoán được
định nghĩa là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao
gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Theo điều 60 của Luật chứng khoán Việt Nam ban hành năm 2006, công ty
chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây:
a) Môi giới chứng khoán;
b) Tự doanh chứng khoán;
c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
d) Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Trong đó công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán và ngoài các nghiệp
vụ kinh doanh quy định tại trên, công ty chứng khoán được cung cấp dịch vụ tư vấn tài
chính và các dịch vụ tài chính khác.
1.1.2.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải
chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. [7, tr. 260]
4
1.1.2.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các
chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể
được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung (Trung tâm giao dịch chứng
khoán, Sở giao dịch chứng khoán), hoặc trên thị trường OTC, .v.v Trên thị trường
giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống
và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các
hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông
qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các công ty
chứng khoán còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (Ví dụ như ở
Mỹ). Trong hoạt động này, công ty chứng khoán đóng vai nhà tạo lập thị trường, nắm
giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các
khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá. [7, tr. 263]
1.1.2.3. Hoạt động bão lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng
khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được
phân phối hết.
Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỉ lệ hoa hồng nhất định
trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
Bảo lãnh cam kết chắc chắn
Bảo lãnh cố gắng tối đa
Bảo lãnh tất cả hoặc không
Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hính thức bảo lãnh với cam kết chắc
chắn nhằm mục đích bảo vệ của nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các công ty
chứng khoán trong việc triển khai nghiệp vụ này cho khách hàng trong lĩnh vực tư vấn
đầu tư chứng khoán; tư vấn tái cơ cấu tài chính; chia tách, sáp nhập; hợp nhất doanh
nghiệp; tư vấn cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán.
5
Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm
nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của công ty chứng khoán. [7, tr. 267]
1.1.2.4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Hoạt động tư vấn là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả
phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán. Nội
dung tư vấn: tư vấn chiến lược và kỹ thuật giao dịch, cung cấp kết quả phân tích chứng
khoán và TTCK.
Do đặc điểm chung trong ngành là giá cả luôn biến động nên tư vấn giá trị
chứng khoán là việc rất khó khăn, đôi khi dẫn đến những mâu thuẫn về lợi ích. Đặc
biệt là đối với hoạt động này, người tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về
giá trị và xu huớng giá cả của các loại chứng khoán, việc này có thể do khả năng của
họ hoặc do họ cố ý để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó nghiệp vụ này cần được quản lý chặt
chẽ và phải có những hạn định trong công việc. [7, tr. 285]
1.1.2.5. Hoạt động lưu ký chứng khoán
Là công việc đầu tiên để các chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tập
trung. Đây là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng
thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán và được thực hiện thông qua các
thành viên lưu ký của thị trường giao dịch chứng khoán.
Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên
TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại SGDCK. Vì vậy, lưu ký
chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại SGDCK được diễn ra thuận lợi,
nhanh chóng dễ dàng. Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán
như rủi ro bị rách, hỏng, thất lạc chứng chỉ chứng khoán …. [7, tr. 290]
1.1.3. Chức năng và vai trò của các công ty chứng khoán
1.1.3.1. Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán
Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến những
người sử dụng vốn ( thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh )
Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp
lệnh)
6
Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền
mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán một cách dễ dàng)
Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai
trò tạo lập thị trường)
1.1.3.2. Vai trò của công ty chứng khoán
∗ Vai trò trung gian huy động vốn
Cũng như các ngân hàng hay quỹ đầu tư, công ty chứng khoán là trung gian có
vai trò huy động vốn. Các tổ chức này đóng vai trò làm cầu nối đồng thời là kênh dẫn
vốn từ một hay một số bộ phận của nền kinh tế có vốn dư thừa (vốn nhàn rỗi) đến các
bộ phận khác của nền kinh tế có nhu cầu về vốn (thiếu vốn, cần huy động vốn).
Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua chứng khoán trực
tiếp của tổ chức phát hành, họ thường mua qua các tổ chức bảo lãnh phát hành, và tổ
chức phát hành thường chọn một tổ chức đứng ra bảo lãnh phát hành cho đợt phát hành
để đảm bảo huy động vốn thành công, đáp ứng nhu cầu hoạt động của công ty. Tổ chức
bảo lãnh phát hành ở đây chính là các công ty chứng khoán.
Trên thị trường thứ cấp, với chức năng trung gian, các công ty chứng khoán
giúp cho nhà đầu tư tìm đến với nhau, để thỏa mãn nhu cầu đầu tư hoặc nhu cầu về
vốn, tạo sự luân chuyển vốn giữa các nhà đầu tư.
∗ Vai trò tạo ra cơ chế xác định giá trị
Thông qua các Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, công ty chứng
khoán có vai trò cung cấp một cơ chế xác định giá trị chứng khoán nhằm giúp nhà đầu
tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác giá trị khoản đầu tư của mình.
Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị
trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của một số nước, công ty
chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua
chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá
chứng khoán cao.
∗ Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển chứng khoán thành tiền
7
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền thành chứng khoán
có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán
đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại
nhất khi tiến hành đầu tư. Hàng ngày nhà đầu tư có thể chuyển đổi tiền thành chứng
khoán và ngược lại mà không phải chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư
của mình (ít nhất thì cũng không chịu thiệt hại do cơ chế giao dịch chứng khoán gây
nên). Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư,
chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị khoản đầu
tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
Ngoài ba vai trò chính trên, công ty chứng khoán còn có vai trò tư vấn đầu tư,
tạo ra các sản phẩm mới như chứng quyền, trái quyền, hợp đồng tương lai và các sản
phẩm khác. [7, tr.245-247]
1.2. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
Theo điều 6 luật chứng khoán quy định “Tự doanh chứng khoán là việc công ty
chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”.
Thông thường chức năng chính của công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà
đầu tư với Sở giao dịch chứng khoán, người chơi chứng khoán sẽ phải đến các công ty
chứng khoán để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng
khoán. Song, với nghiệp vụ tự doanh, công ty chứng khoán sẽ tham gia mua bán chứng
khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải
bằng tài khoản của khách hàng và tự gánh chịu rủi ro. Hoạt động này là một hoạt động
khó khăn phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, do đó, nó đòi hỏi vốn điều lệ khá lớn là
100 tỷ đồng và theo quy định hoạt động tự doanh yêu cầu vốn điều lệ lớn thứ hai chỉ
sau hoạt động bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng. Song hoạt động này có thể mang về
những khoản lợi nhuận rất lớn cho công ty.
Theo quy chế tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán, được bộ tài
chính ban hành theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC, các công ty chứng khoán phải
đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình.
Khi tiến hành hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán không được:
8
Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty
chứng khoán.
Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết.
Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết.
Hoạt động tự doanh được thực hiện trên thị trường tập trung như sở giao dịch
chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán hay có thể ở trên thị trường OTC. Trên
thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các công ty chứng khoán đưa vào hệ
thống và được thực hiện như lệnh của khách hàng. Trên thị trường phi tập trung, công
ty chứng khoán có thể thực hiện giao dịch trực tiếp với đối tác hoặc thông qua hệ thống
mạng thông tin. Ở một số nước, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán còn được
thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong hoạt động này, với vai trò là
nhà tạo lập thị trường, công ty chứng khoán nắm giữ một số lượng nhất định của một
số loại chứng khoán và thực hiện giao dịch với khách hàng nhằm hưởng phí và chênh
lệch giá.
1.2.2. Phân loại hoạt động tự doanh chứng khoán
1.2.2.1. Hoạt động đầu tư ngân quỹ
Đầu tư ngân quỹ là hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng khả năng thanh toán và tăng
tính sinh lời của doanh nghiệp. Nghĩa là, khi công ty chứng khoán có dư thừa ngân
quỹ, công ty đầu tư vào những chứng khoán có tính thanh khoản cao tạo một khoản dự
trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán và dự phòng. Hoạt động đầu tư này có ít rủi ro do
khi công ty có nhu cầu cấp bách về vốn thì có thể dễ dàng bán đi với chi phí thấp. Đây
là những khoản đầu tư thường diễn ra trong khoảng thời gian ngắn của công ty chứng
khoán nhưng lại là khoản đầu tư có mức sinh lời không nhỏ, do đó, công ty chứng
khoán cần quan tâm hơn vào hoạt động này.
1.2.2.2. Hoạt động đầu tư chênh lệch giá
Kinh doanh chênh lệch giá là hoạt động khi nhà đầu tư mua tài sản ở một mức
giá thấp và bán chúng ở một mức giá cao hơn nhằm hưởng lợi, và phần lợi nhuận thu
về là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây là hoạt động chủ yếu của các công
ty chứng khoán hiện nay do nó có thể kiếm được những khoản lợi nhuận lớn và có
vòng quay vốn nhanh nhưng lại có mức độ rủi ro lớn. Với mục đích đầu tư của loại
9
hình chỉ quan tâm tới sự chênh lệch giá cả, do đó, chính sách đầu tư của công ty chứng
khoán thiên về đầu tư trong ngắn hạn và đầu tư dài hạn là rất hạn chế.
1.2.2.3. Hoạt động đầu cơ
Các công ty chứng khoán tiến hành đầu cơ với hy vọng kiếm được lợi nhuận
thông qua hành vi chấp nhận rủi ro về giá chứng khoán. Trong lĩnh vực chứng khoán,
đầu cơ là việc mua, bán, nắm giữ, bán khống các loại chứng khoán nhằm thu lợi từ sự
biến động giá mạnh của chúng. Cơ sở đầu cơ của họ là: tại một ngày nhất định trong
tương lai giá chứng khoán sẽ tăng hơn ở thời điểm hiện tại. Do đó, khi đầu cơ, công ty
chứng khoán sẽ mua vào tại thời điểm giá chứng khoán thấp để bán số chứng khoán đó
với giá cao hơn trong tương lai. Những công ty chứng khoán này sẵn sàng chấp nhận
thua lỗ cao nếu gặp rủi ro nhưng lại có thể đạt được những khoản lợi khổng lồ. Hoạt
động đầu cơ thường chỉ được thực hiện trong ngắn hạn và chỉ những công ty chứng
khoán cần tích tụ nhiều vốn, đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, có chính sách đầu tư
mạo hiểm mới thực hiện hoạt động này.
1.2.2.4. Hoạt động đầu tư phòng vệ
Khi tham gia vào thị trường chứng khoán, để bảo vệ mình trước những biến
động bất thường của thị trường, các công ty chứng khoán cũng như nhà đầu tư có thể
sử dụng các công cụ phòng vệ để tự bảo vệ mình. Các công cụ đó có là: Các hợp đồng
tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn Các công cụ này sẽ góp phần bảo
vệ nhà đầu tư trước những biến động theo hướng không thuận lợi của giá chứng khoán.
1.2.2.5. Hoạt động tạo lập thị trường
Tạo lập thị trường là hoạt động của công ty chứng khoán trong đó công ty chấp
nhận rủi ro nắm giữ một khối lượng nhất định của một loại chứng khoán nhất định để
hỗ trợ, thúc đẩy giao dịch đối với loại chứng khoán đó. Khi đã đóng vai trò nhà tạo lập
thị trường, công ty chứng khoán thường xuyên niêm yết lên các mức giá chào mua,
chào bán và thực hiện mua bán theo các mức giá đó.
1.2.2.6. Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát
10
Ngoài việc đầu tư hưởng lợi, công ty chứng khoán cũng có thể thực hiện giao
dịch chứng khoán nhằm nắm giữ cổ phiếu và trở thành cổ đông của tổ chức phát hành.
Mục đích đầu tư ở đây là thao túng và nắm quyền kiểm soát công ty phát hành. Vì vậy,
công ty chứng khoán chấp nhận một chi phí lớn để nắm quyền kiểm soát, từ đó có thể
điều tiết hoạt động của tổ chức phát hành và thu được những nguồn lợi cao như mong
muốn trong tương lai. Với các tổ chức phát hành làm ăn không hiệu quả, công ty chứng
khoán có thể mua lại một phần hoặc toàn bộ để đủ quyền tham gia quản lý hoặc chi
phối công ty, sau đó tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và hệ thống
quản lý của tổ chức phát hành để có thể khôi phục vị thế của công ty trên thị trường
chứng khoán hoặc bán lại công ty đó cho các đối tác với giá trị cao hơn.
1.2.3. Các hình thức đầu tư chứng khoán
1.2.3.1. Phân loại theo thời gian đầu tư
∗ Đầu tư ngắn hạn
Là hình thức đầu tư diễn ra trong một thời gian ngắn. Nghĩa là họ tiến hành hoạt
động đầu tư chứng khoán thông qua việc giao dịch đặt lệnh trong 5 phiên, 10 phiên, 20
phiên hay 1 tháng.
Đó là hình thức đầu tư mà người đầu tư chứng khoán thường phải thường xuyên
bám sát diễn biến, sự vận động của các cổ phiếu Blue-chip đóng vai trò chi phối thị
trường. Họ thường thông qua các xu hướng biến động giá cũng như khối lượng giao
dịch hàng ngày để đưa ra các giao dịch mua, bán hay giữ cổ phiếu.
Trong hình thức đầu tư chứng khoán ngắn hạn người ta thường nhắc đến một
khái niệm đó là hình thức đầu tư chứng khoán theo kiểu “lướt sóng”. Đó là hình thức
đầu tư giao dịch mua bán chứng khoán liên tục, tạo ra sự lên, xuống nhanh chóng của
một hay nhiều mã chứng khoán với mục tiêu là thu được lợi nhuân tối đa.
Đầu tư theo kiểu “lướt sóng” phải mất nhiều công sức theo dõi cập nhật thông
tin không chỉ chung của cả thị trường mà của từng mã chứng khoán, phân tích, dự đoán
về triển vọng đầu tư, khi có dấu hiệu chững lại thì kịp bán ra để chuyển sang mã chứng
khoán khác đang có triển vọng tăng giá… Cứ như thế, nhà đầu tư sẽ tìm cách thu được
lợi nhuận cao nhất.
∗ Đầu tư dài hạn
11
Đó là hình thức đầu tư và nắm giữ chứng khoán trong một thời gian tương đối
dài từ 6 tháng, 1 năm, 2 năm và có thể lâu hơn nữa. Vì xuất phát từ quan điểm của nhà
đầu tư nhìn về xu hướng phát triển của thị trường trong một thời gian dài, cũng như sự
phát triển của các công ty.
Những nhà đầu tư kiểu này thường quan tâm đến tình hình phát triển của nền
kinh tế thế giới, của nền kinh tế trong nước, của chiến lược phát triển của thị trường
chứng khoán, cũng như tình hình phát triển của ngành và công ty mà họ đang chuẩn bị
tiến hành hoạt động đầu tư. Họ thường xác định rõ mức độ rủi ro và mức sinh lời dự
kiến trong một khoảng thời gian nhất định.
Đầu tư dài hạn thì kỳ vọng ở sự phát triển của thị trường nói chung và đặc biệt
là của công ty niêm yết mà mình đã đầu tư nói riêng. Đầu tư theo kiểu này đỡ phải đầu
tư thời gian công sức hơn. Tuy nhiên, rất khó thu được lợi nhuận lớn, thường chỉ đạt lợi
nhuận bình quân, bởi tốc độ tăng giá của các loại chứng khoán cao, thấp rất khác nhau,
trong khi loại này tăng thì loại kia bị giảm.
1.2.3.2. Phân loại theo trường phái đầu tư
∗ Trường phái đầu tư (Investor)
Người đầu tư cơ bản là người mua chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận
sau một thời gian dài từ 1-2 đến 10-15 năm. Những người này xem xét rất kỹ bản báo
cáo tài chính của công ty mà họ muốn bỏ tiền vào. Theo Philip Fisher, một trong những
“thuyết giáo gia” của lĩnh vực đầu tư thì có đến…15 câu hỏi cần thiết mà người đầu tư
muốn quyết định mua cổ phần hay không phải trả lời. nào là sản phẩm, dịch vụ, ban
quản lý, sự nghiên cứu sự phát triển, lợi nhuận, chiến lược phát triển, nhân sự, kế
toán… Sau khi xem xét từ mọi khía cạnh, người đầu tư nhận thấy phần ưu điểm có
vượt trội hơn phần yếu điểm của công ty hay không rồi mới quyết định. Một trong
những nhà đầu tư kiểu này được biết nhiều nhất là tỷ phú Warrant Buffet. Đầu tư kiểu
này trùng khớp với mục đích của thị trường chứng khoán lẫn những công ty muốn
được niêm yết để có vốn được gọi là kiểu phân tích căn bản (Fundamental Analysis).
∗ Trường phái đầu cơ (Speculator)
Đây là trường phái mua bán chứng khoán trong một thời gian rất ngắn từ vài
ngày đến vài giây.
12
Ngày nay thì Internet đã, đang và sẽ làm những cuộc cách mạng lớn. riêng đối
với chứng khoán Internet đã tạo ra những “triệu phú tại gia”. Từ bất kì nơi đâu trên thế
giới, từ thợ thuyền đến tri thức, từ hưu trí đến thất nghiệp, học sinh đến công nhân…
Không nhân viên, không văn phòng, không lệ thuộc vào bất cứ ai, vừa tự do về thời
gian, vừa tự do về không gian. Thông qua Inernet họ có thể giao dịch, mua bán chứng
khoán một cách nhanh chóng và trực tuyến.
1.2.3.3. Phân loại theo hình thức đầu tư
∗ Hình thức đầu tư chứng khoán trực tiếp
Là quá trình nhà đầu tư mua cổ phiếu của một hay nhiều công ty cổ phần đơn lẻ,
tự tạo cho mình danh mục đầu tư cá nhân.
Đầu tư trực tiếp được ví như việc nhà đầu tư tự nắm lấy số phận trong tay mình,
tự lựa chọn và đưa ra quyết định của riêng mình. Việc này đòi hỏi nhà đầu tư phải có
thời gian và kinh nghiệm. Lợi điểm của nó thể hiện ở chỗ nhìn chung các khoản phí
thấp hơn.
∗ Hình thức đầu tư chứng khoán gián tiếp
Là nhà đầu tư mua một hay nhiều gói hàng hỗn hợp của một hay nhiều quỹ đầu
tư. Tùy theo mức độ rủi ro của các gói hàng hỗn hợp có thể bao gồm cổ phiếu các công
ty, trái phiếu các loại, chứng chỉ quỹ, tiền mặt, ngoại tệ… theo tỷ lệ thay đổi linh hoạt
vào từng thời kỳ.
Đầu tư gián tiếp kể như phó thác số phận vào tay các chuyên gia làm việc cho
ngân hàng hay công ty đầu tư nào đó, thích hợp cho những ai ít có điều kiện bám sát
thị trường. Cái giá phải trả cho các “quản trị viên tiền tệ” này chắc chắn sẽ cao hơn,
nhưng mức độ rủi ro lại được giảm xuống.
1.2.4. Vai trò của hoạt động tự doanh công ty chứng khoán
1.2.4.1. Đối với công ty chứng khoán
∗ Mang lại lợi nhuận cho công ty chứng khoán
Đây là một vai trò quan trọng của hoạt động tự doanh đối với công ty chứng
khoán. Thông qua tài khoản của họ, các công ty chứng khoán thực hiện việc mua bán
chứng khoán nhằm thu lợi cho chính mình. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng
khoán thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của công ty chứng khoán. Trong
các hoạt động còn lại của công ty chứng khoán hầu như là cung cấp các dịch vụ từ đó
13
nhận phí hoặc hoa hồng từ khách hàng, chỉ riêng hoạt động tự doanh là sử dụng nguồn
vốn của công ty để kinh doanh và tạo ra lợi nhuận.
∗ Hỗ trợ các hoạt động khác của công ty phát triển
Trên thị trường chứng khoán, mỗi công ty chứng khoán có một thế mạnh khác
nhau, tuy nhiên rất khó có một công ty nào có thể phát triển tốt được các mảng dịch vụ
mà mảng tự doanh của công ty lại không đạt kết quả cao. Do đó, một công ty chứng
khoán có hoạt động tự doanh phát triển thường thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ phát
triển. Bên cạnh đó, nó còn là một hình thức quảng cáo tốt cho tính chuyên nghiệp và
khả năng phân tích của công ty.
1.2.4.2. Đối với thị trường chứng khoán
∗ Tăng quy mô vốn trên thị trường
Tuỳ thuộc vào quy mô và chiến lược đầu tư mà mỗi công ty chứng khoán có
một hạn mức đầu tư và kinh doanh chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, lượng vốn mà
các công ty chứng khoán đổ vào thị trường là con số không nhỏ so với các nhà đầu tư
riêng lẻ. Điều đó giúp tăng quy mô giao dịch và nâng cao giá trị vốn hoá trên thị trường
chứng khoán.
∗ Nâng cao chất lượng đầu tư trên thị trường
Công ty chứng khoán là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, đầu
tư theo quy trình và phân tích có bài bản. Do đó, trên thị trường càng nhiều công ty
chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh thì lối đầu tư theo số đông sẽ dần được thay
thế bởi một cách thức đầu tư có sự phân tích và chuyên nghiệp hơn. Có như vậy thị
trường mới có thể phát triển bền vững và ổn định được.
∗ Bình ổn giá trị thị trường
Với vai trò kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán là một thành viên
quan trọng của thị trường chứng khoán, có tác dụng làm cho hoạt động của thị trường
chứng khoán đều đặn, không bị gián đoạn và sôi động đồng thời góp phần bình ổn giá
cả thị trường. Theo luật định, các công ty chứng khoán đều phải dành một tỷ lệ % nhất
định trong các giao dịch của mình cho hoạt động tự doanh nhằm bình ổn thị trường.
1.2.5. Mục đích tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán
Đối với công ty chứng khoán, mục đích của hoạt động tự doanh là thu chênh
14
lệch giá chứng khoán cho chính mình.
∗ Dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán
Các công ty chứng khoán, ngân hàng đều là các tổ chức kinh doanh trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Do đó, phạm vi kinh doanh bị phụ thuộc vào nguồn
vốn và mức dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán. Chứng khoán là một công cụ tài
chính có chức năng thanh khoản cao và khả năng tạo lợi nhuận lớn.
∗ Đối với công ty chứng khoán
Vay vốn từ các trung tâm thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán, ngân hàng
hoặc của các công ty chứng khoán khác để mở rộng kinh doanh.
Nguồn vốn trên tài khoản thanh toán sẽ tạo được hạn mức giao dịch lớn phục vụ
các hợp đồng giao dịch với khối lượng lớn.
Là cơ sở để công ty thực hiện các giao dịch tự doanh; triển khai chiến lược
khách hàng ủy thác giao dịch (bằng mức phí giao dịch thấp, dịch vụ nhanh và khách
hàng có thể có ngay chứng khoán hay quyền sở hữu chứng khoán v.v ).
∗ Đối với các ngân hàng
Ngoài những ưu thế nêu trên, các ngân hàng còn có thêm khả năng sử dụng
nguồn dự trữ chứng khoán phục vụ các giao dịch tạo vốn hay giải tỏa vốn thông qua
nghiệp vụ tín dụng cầm cố, thị trường mở của ngân hàng trung ương hay nghiệp vụ
chiết khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại.
∗ Kinh doanh đầu tư
Việc đầu tư chứng khoán đem lại cho các công ty chứng khoán các khoản lợi
nhuận từ lợi tức chứng khoán (cổ tức, trái tức, lợi tức cổ phần quỹ đầu tư v.v…) và
chênh lệch giá. Ngược lại, khi thị giá bị tụt giảm thì các khoản lãi khó có thể bù đắp
được phần mất giá. Vì vậy, các công ty hay các ngân hàng rất thận trọng trong việc
hoạch định chiến lược đầu tư và đầu cơ chứng khoán.
∗ Kinh doanh góp vốn
Bằng việc mua cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi hay kèm quyền chuyển đổi, các
công ty chứng khoán đầu tư vào các công ty cổ phần và trở thành cổ đông.
Vì vậy, các công ty chứng khoán phải tuân thủ các quy định pháp lý đối với các
15
cổ đông lớn và hạn mức được phép đầu tư hùn vốn vào một công ty cổ phần. Tuy vậy,
để mở rộng phạm vi kinh doanh cho các công ty chứng khoán, pháp luật có thể quy
định về thời hạn tối thiểu đối với người sở hữu cổ phiếu được quyền là cổ đông (từ 6
tháng trở lên).
∗ Can thiệp bảo vệ giá
Khi giá chứng khoán bị biến động bất lợi do tình hình hoạt động chung của thị
trường, các công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch mua bán nhằm ổn định lại thị
trường theo yêu cầu can thiệp của cơ quan quản lý và tự bảo vệ mình hay khách hàng
của mình khi thực hiện các đợt phát hành hay bảo lãnh phát hành. Tuy nhiên, để làm
được việc này, các công ty chứng khoán phải hợp lực với nhau để tự phát hành dưới
hình thức “tổ chức bảo trợ thị giá” tức là lập một tập đoàn tài chính (consortium).
∗ Thu lợi
Về bản chất, mục đích hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty
chứng khoán là nhằm thu lợi tức và chênh lệch giá mua vào và bán ra. Với lợi thế về
thông tin và sở trường phân tích, ngoài mục đích tích lũy chứng khoán phục vụ khách
hàng, hoạt động đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán thường là đầu cơ chờ
chênh lệch giá (ngay cả trong tình trạng thị trường suy thoái- giá xuống), hoặc nhằm
thực hiện các giao dịch khi có chênh lệch giá tại các thị trường khu vực. Tuy nhiên,
trong luật định về chức năng và quyền hạn của công ty chứng khoán thì họ phải có một
số điều kiện cơ bản để hành nghề. Đó là điều kiện về vốn hoạt động, người quản lý và
nhân viên tác nghiệp, cơ sở vật chất phục vụ cho nghiệp vụ tự doanh.
1.2.6. Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh chứng khoán
Hoạt động tự doanh chứng khoán được thực hiện dưới hai mô hình tổ chức sau:
∗ Mô hình hai cấp
Đây là mô hình trong đó trưởng phòng đầu tư hay trưởng phòng tự doanh sẽ là
người trực tiếp điều hành hoạt động đầu tư, quyết định danh mục đầu tư và các chính
sách đầu tư. Hoạt động tự doanh của công ty được chia thành hoạt động tự doanh về cổ
phiếu trên thị trường niêm yết và chưa niêm yết, tự doanh trái phiếu, nghiệp vụ repo
chứng khoán. Mỗi mảng đó sẽ do một nhóm các cán bộ tự doanh phụ trách dưới sự
quản lý chung của trưởng phòng tự doanh. Từng nhóm sẽ phải có trách nhiệm phân
16
tích, nghiên cứu và đề xuất ra các phương án đầu tư. Các phương án sẽ được trưởng
phòng xem xét, đưa ra ý kiến và quyết định có thực hiện hay không. Giám đốc của
công ty là người quản lý chung và thẩm định kết quả đầu tư của phòng tự doanh. Ngoài
ra, khi thực hiện hoạt động đầu tư còn chịu sự giám sát của ban kiểm soát nhằm bảo
đảm an toàn cho hoạt động của công ty.
Đặc điểm của mô hình này là gọn nhẹ, nâng cao tính độc lập và trách nhiệm của
các cán bộ tự doanh trong hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, với
mô hình này, tính chủ quan của trưởng phòng đầu tư ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết
định cũng như hiệu quả đầu tư, vì vậy đòi hỏi một cơ chế giám sát chặt chẽ của công ty
chứng khoán.
Hình 1.1: Sơ đồ mô hình tự doanh hai cấp
TD cổ phiếu niêm yết (SGD)
Tự doanh cổ phiếu chưa niêm yết
Tự doanh trái phiếu
Phòng đầu tư (tự doanh)
Ban kiểm soát
∗ Mô hình ba cấp
Theo mô hình này hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được phân chia
thành hoạt động tự doanh cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết, tự doanh trái phiếu, repo
chứng khoán. Tuy nhiên, trưởng phòng đầu tư không phải là người quyết đinh hoàn
toàn chiến lược cũng như danh mục đầu tư của công ty chứng khoán. Với mô hình tổ
chức này, trưởng phòng chỉ quản lý hoạt động đầu tư của các nhóm cán bộ tự doanh
cấp dưới và đóng góp các ý kiến giúp hội đồng đầu tư đưa ra các chiến lược đầu tư và
các chính sách quản lý danh mục đầu tư. Hội đồng đầu tư bao gồm giám đốc công ty,
trưởng phòng đầu tư và các thành viên khác theo quy định. Hội đồng đầu tư sẽ là người
ra quyết định cuối cùng về việc đầu tư hay không thay vì quyết định của cá nhân
trưởng phòng đầu tư như mô hình hai cấp. Ban kiểm soát vẫn giữ vai trò giám sát mọi
hoạt động đầu tư mà phòng tự doanh thực hiện.
17
Hình 1.2: Sơ đồ mô hình tự doanh ba cấp
Trưởng phòng đầu tư (tự doanh)
Hội đồng đầu tư
Tự doanh trái phiếu
Tự doanh cổ phiếu niêm yết (SGD)
Tự doanh cổ phiếu chưa niêm yết
Ban kiểm soát
Đặc điểm của mô hình ba cấp là độ an toàn cao trong hoạt động đầu tư của công
ty chứng khoán sẽ được nâng cao hơn so với mô hình hai cấp. Tuy nhiên, với mô hình
này, tính tự chủ, độc lập và trách nhiệm của các cán bộ tự doanh trong hoạt động đầu tư
sẽ bị giảm. Ngoài ra, do mọi phương án đầu tư đều phải có ý kiến của hội đồng đầu tư
mới có thể được thực hiện, do đó có thể dẫn đến mất cơ hội đầu tư do chậm trễ trong
việc đưa ra quyết định.
1.2.7. Những điều kiện và yêu cầu đối với công ty chứng khoán khi tiến hành hoạt
động tự doanh chứng khoán
1.2.7.1. Điều kiện để thực hiện hoạt động tự doanh
∗ Điều kiện về vốn và con người
Vốn và con người là hai điều kiện cơ bản để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
trong kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện hoạt động tự doanh, các công ty chứng
khoán phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Việc quy định mức
vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các công ty chứng khoán thực sự có vốn và
dùng vốn của họ để kinh doanh.
∗ Điều kiện về con người
Con người cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của hoạt động tự doanh.
Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối rất lớn của nhân tố con
người và thông tin. Nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một
18
trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm
trong công việc. Tại một số nước trên thế giới, nhân viên tự doanh của công ty chứng
khoán phải đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm
trong ngành, phải có bằng thạc sỹ trở lên và phải có một số chứng chỉ chuyên môn nhất
định
1.2.7.2. Các yêu cầu đối với công ty chứng khoán
∗ Tách biệt quản lý
Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và
nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách bạch
này bao gồm cả yếu tố con người & các quy trình nghiệp vụ.
Các công ty chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện
nghiệp vụ tự doanh. Các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới.
Tại một số nước trên thế giới, các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh
phải tuân thủ nguyên tắc phân chia ranh giới một cách rõ ràng. Các nhân viên của bộ
phận này không được trao đổi hay sang khu vực làm việc của bộ phận khác.
Bên cạnh đó các công ty chứng khoán phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của
khách hàng với các tài sản của chính công ty.
∗ Ưu tiên khách hàng
Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu công ty chứng khoán phải tuân thủ
nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa
là lệnh của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc
này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do
có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công
ty chứng khoán có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc
bán tranh của khách hàng nào không có nguyên tắc trên.
∗ Bình ổn thị trường
Do tính đặc thù của thị trường chứng khoán, đặc biệt là các thị trường chứng
khoán mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên
nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất
19
thường trên thị trường. Vì vậy các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm
tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư
chứng khoán, các công ty chứng khoán có khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của
mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung
cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Thông thường, chức năng
bình ổn giá cả không phải là một quy định bắt buộc trong hệ thống pháp luật và nhà
nước, tuy nhiên đây thường là nguyên tắc nghề nghiệp do các hiệp hội chứng khoán đặt
ra trên thị trường và các công ty chứng khoán phải tuân thủ theo trong qúa trình hoạt
động.
Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán còn phải tuân thủ một số quy định khác
như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư.v.v Mục đích của các quy định này là
nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các công ty chứng khoán trong quá trình
hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường.
1.3. Các nhán tố ảnh hưởng tới hoạt động tự doanh chứng khoán của công
ty chứng khoán
1.3.1. Nhân tố chủ quan
∗ Chính sách phát triển của công ty
Chính sách phát triển của công ty chứng khoán luôn thay đổi nhằm phù hợp với
mục tiêu phát triển của công ty trong từng giai đoạn hoạt động. Do đó, nó ảnh hưởng
đến toàn bộ hoạt động của công ty chứng khoán nói chung và của hoạt động tự doanh
chứng khoán nói riêng. Chính sách phát triển đưa ra những chỉ tiêu cần đạt được trong
giai đoạn tiếp theo với những chiến lược đầu tư nới lỏng hoặc thắt chặt. Đồng thời
chính sách này cũng đưa ra những thay đổi về tổng lượng vốn cho hoạt động đầu tư
như trong giai đoạn thị trường phát triển thì nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư cổ
phiếu sẽ cao hơn giai đoạn thị trường ảm đạm. Ngoài ra, với những mục tiêu trong
chính sách đề ra khác nhau sẽ có những quyết định khác nhau về loại hình đầu tư ví dụ
như khi công ty đặt ra chiến lược phát triển ổn định, bảo đảm an toàn trong đầu tư thì
loại hình đầu tư xuống giá hay đầu cơ sẽ là không phù hợp. Chính vì vậy, chính sách
phát triển là một yếu tố cần xem xét đầu tiên khi nói đến hoạt động tự doanh của công
ty chứng khoán.
∗ Quy mô vốn đầu tư
20
Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán. Vốn là nhân tố quyết định tới tình hình tự doanh không chỉ là quy mô vốn mà
còn cả cơ cấu vốn, thời hạn vốn và quan trọng hơn đó là cơ chế quản lý vốn. Đầu tư
chứng khoán đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn và dài nên một công ty chứng khoán
không chủ động được về vốn sẽ gặp rất nhiều rủi ro và đầu tư không hiệu quả. Mặc dù
quy mô vốn đầu tư không tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận đầu tư song rõ ràng khi vốn
đầu tư càng lớn thì càng có nhiều cơ hội để công ty lựa chọn các phương án đầu tư.
Ngoài ra, khi lượng vốn đầu tư lớn cũng góp phần giúp công ty chiếm được ưu thế trên
thị trường, ví dụ như với cùng một loại chứng khoán, nhà đầu tư nào nắm giữ với tỷ lệ
lớn hơn sẽ có tác động chi phối tới giá chứng khoán đó nhiều hơn, tránh bị rơi vào thế
bị động khi có nhà đầu tư khác muốn làm biến động giá để hưởng lợi.
∗ Quy trình tự doanh
Quy trình tự doanh là một quy trình trong đó có phân bổ trách nhiệm, công việc,
quyền hạn và lợi ích của từng cán bộ thực hiện kinh doanh, đầu tư chứng khoán và
những đối tượng khác có liên quan, đồng thời quy định chính sách giám sát kiểm tra
hoạt động đầu tư của công ty. Quy trình tự doanh có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
hoạt động đầu tư của công ty chứng khoán. Thật vậy, nếu quy trình tự doanh không
chặt chẽ, logic, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn tới sự lãng phí nguồn nhân lực, thời gian và
tiền bạc. Đặc biệt trong quy trình tự doanh không quy định rõ ràng những loại cổ phiếu
thuộc thẩm quyền giao dịch của cán bộ tự doanh nào thì có thể sẽ dẫn đến việc một
người thực hiện mua chứng khoán và người kia lại mua chứng khoán, và gây khó khăn
trong công tác kiểm soát rủi ro. Do đó, khi công ty xây dựng được một quy trình đầu tư
chứng khoán chặt chẽ, khoa học thì từng cán bộ tự doanh cũng như các cấp ra quyết
định mới nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình, từ đó mới có thể nâng cao
được hiệu quả của hoạt động tự doanh.
∗ Yếu tố nhân lực
Đây là một nhân tố không thể thiếu và được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn
của các công ty chứng khoán nói chung và hoạt động tự doanh nói riêng. Đối với mảng
tự doanh của công ty chứng khoán, yếu tố nhân lực được nói đến ở đây bao gồm khả
năng, trình độ chuyên môn của các nhân viên thực hiện tự doanh và cơ cấu tổ chức
21
hoạt động, phân bổ công việc tại phòng tự doanh của công ty chứng khoán. Người cán
bộ tự doanh không chỉ có những kiến thức về tài chính, có khả năng phân tích và có
kinh nghiệm thực tế trên thị trường mà còn phải là người có khả năng chịu được áp lực
trong công việc và có đạo đức nghề nghiệp. Nếu một nhân viên tự doanh không có khả
năng tìm kiếm những cơ hội đầu tư, không có khả năng quyết định thời điểm giao dịch
thì khó có thể mang về lợi nhuận cho công ty thậm chí có thể gây thua lỗ. Tuy nhiên,
nếu có khả năng song cán bộ tự doanh không chịu đựng được những áp lực trong công
việc thì sẽ rất khó khăn để họ có thể hoàn thành tốt công việc.
∗ Cơ sở vật chất kỹ thuật, thông tin
Trong thời đại thông tin cao như hiện nay thì hoạt động tự doanh chứng khoán
rất cần có môi trường làm việc tốt với phương tiện và công cụ có tính kỹ thuật cao. Ở
Việt Nam hiện nay, trong khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhất là những phương tiện
có kỹ thuật cao, thì đây là vấn đề cần được quan tâm và đầu tư không những đối với
công ty chứng khoán mà còn đối với cả thị trường chứng khoán. Việc thiếu phương
tiện kỹ thuật có thể sẽ làm cho thông tin đến chậm, quản lý rủi ro khó khăn do đó sẽ
làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty trong quá trình kinh doanh chứng khoán.
∗ Sự phát triển của các hoạt động khác
Trong công ty chứng khoán, các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
Khi công ty chứng khoán có hoạt động môi giới phát triển được sự tín nhiệm của khách
hàng sẽ dễ dàng hơn cho cán bộ tự doanh thu thập thông tin để phân tích, đánh giá thị
trường. Cũng theo số liệu thống kê ở Việt Nam cho thấy, các công ty chứng khoán có
mảng tự doanh đạt tỷ suất lợi nhuận cao thì đó là những công ty có hoạt động tư vấn cổ
phần hóa phát triển. Điều này hoàn toàn đúng bởi vì khi thực hiện tư vấn cổ phần hóa
cho các doanh nghiệp thì chính các công ty chứng khoán là những người đầu tiên đánh
giá được tiềm năng phát triển và những thách thức mà doanh nghiệp đó phải đối mặt.
Từ đó công ty chứng khoán sẽ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp có tiềm năng.
1.4.2. Nhân tố khách quan
∗ Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là các điều kiện, các yếu tố về kinh tế, xã hội, pháp lý, tài
chính, hạ tầng cơ sở và các yếu tố liên quan khác mà trong đó các quá trình hoạt động
22
đầu tư được tiến hành. Đây là một số trong những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tác
động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán. Một trong những yếu tố hàng đầu của môi
trường đầu tư liên quan đến thị trường chứng khoán là môi trường kinh tế. Chúng ta
xem xét môi trường kinh tế qua các mặt: các chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân
GDP, GNP, , lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại
hối
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng sâu rộng đến hiệu quả hoạt động của thị
trường chứng khoán. Ngày 5/3/1953 chỉ số TOPIX của Nhật Bản giảm đến 8.75% và
nguyên nhân là do Stalin ốm nặng. Khi Bill Clinton thú nhận trong việc bê bối với
người tình Lewisky, thì chỉ số DowJones đã giảm 200 điểm. Điều đó có nghĩa là thị
trường chứng khoán rất nhạy cảm đối với các sự kiện chính trị.
Môi trường pháp lý cũng là điều kiện rất cơ bản để thị trường chứng khoán hoạt
động an toàn, hiệu quả. Xu hướng phát triển chung, truyền thống từ trước đến nay là cứ
cho thị trường hoạt động và phát triển trước và từ đó đúc rút kinh nghiệm và xây dựng
hệ thống pháp lý phù hợp sau ở các nước có thị trường chứng khoán truyền thống. Xu
hướng thứ hai là thiết lập khung pháp lý cho thị trường chứng khoán trước. Việt Nam
đang đi theo xu thế thứ hai vì chúng ta đi sau nên có thể thừa hưởng kinh nghiệm của
các nước đi trước và rút ngắn được bước đi. Vả lại, môi trường pháp lý cũng là yếu tố
rất quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như Singapo, nhờ môi trường
pháp lý thông thoáng và hiệu quả đã trở thành điểm đến của các tâp đoàn tài chính cỡ
lớn trong khu vực và toàn thế giới.
∗ Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Đây là một nhân tố rất quan trọng, nó không chỉ tác động đến hoạt động tự
doanh của công ty chứng khoán mà còn tác động rất lớn đến sự phát triển của các chủ
thể tham gia thị trường chứng khoán. Sự tác động đó gồm:
Số lượng và chất lượng hàng hóa trên thị trường
23
Một thị trường chứng khoán phát triển với lượng hàng hóa phong phú sẽ tạo ra
rất nhiều cơ hội đầu tư cho các công ty chứng khoán. Khi thị trường có nhiều loại
chứng khoán của các công ty thuộc nhiều lĩnh vực thì cơ hội đầu tư của các công ty sẽ
được mở rộng, đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngược lại, một thị trường với một lượng
hàng hóa ít ỏi sẽ dẫn đến tình trạng cung không đủ đáp ứng cầu, sẽ gây ra những cơn
sốt giá chứng khoán, sự đồng loạt tăng giá của các chứng khoán mà không có sự phân
biệt giữa cổ phiếu tốt và xấu. Do đó, các công ty chứng khoán cũng không tránh được
tổn thất khi tham gia vào thị trường.
Tâm lý của nhà đầu tư
Tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường phụ thuộc vào trình độ dân trí của
người dân. Với những thị trường mới phát triển như Việt Nam, sự hiểu biết của dân
chúng về thị trường chứng khoán vẫn còn hạn chế. Nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ lớn
trên thị trường và tâm lý đầu tư theo số đông vẫn còn phổ biến.
Rủi ro chính sách
Rủi ro chính sách là khả năng xảy ra những tổn thất mà nhà đầu tư, công ty
chứng khoán phải chịu do những chính sách thay đổi không thể dự đoán được. Rủi ro
chính sách cao được thể hiện ở sự can thiệp của nhà nước vào thị trường và những quy
định về hoạt động tự doanh. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam rủi ro chính sách là
rất cao.
Rủi ro thị trường lớn
Trên thị trường chứng khoán, rủi ro thị trường phát sinh từ những thay đổi giá
cả bất thường trên toàn bộ thị trường, một lĩnh vực hay ngành nghề hoặc một loại
chứng khoán đặc thù nào đó. Cho dù doanh nghiệp phát hành chứng khoán có khả năng
tạo ra lợi nhuận cao hay đủ khả năng chi trả nhưng rủi ro thị trường cũng có thể làm
cho thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp này giảm. Thậm chí, nhà đầu tư chọn mua một
loại cổ phiếu có chất lượng cao với kỳ vọng tăng trưởng tốt và rủi ro tài chính thấp, giá
cổ phiếu vẫn đi xuống nếu thị trường có xu hướng đi xuống hoặc nếu kỳ vọng của thị
trường đi ngược với thực tế. Những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thị trường có thể là sự
kiện chính trị, những thay đổi kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô, hoặc tâm trạng của nhà đầu
tư nói chung.
24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về công ty
chứng khoán và các nghiệp vụ của một công ty chứng khoán. Trong đó, chương 1 đi
sâu vào hoạt động tự doanh chứng khoán. Đặc biệt một số nhân tố ảnh hưởng tới hoạt
động tự doanh chứng khoán của một công ty chứng khoán và những nguyên nhân ảnh
hưởng đến sự phát triển của hoạt động này đã được đề cập trong chương 1. Đây sẽ là
cơ sở lý luận giúp cho việc đánh giá thực trạng phát triển hoạt động tự doanh chứng
khoán của Công ty cổ phần chứng khoán Agriseco ở chương tiếp theo.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM (AGRISECO)
2.1. Sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến
năm 2014
Như đã trình bày ở phần chương 1, thị trường chứng khoán là môi trường hoạt
động của các công ty chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng khoán có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tạo cơ hội cho các công ty chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Trải qua chặng đường hơn 14 năm phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam
đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm.
Ngày 20/7/2000 là mốc son quan trọng với thị trường tài chính Việt Nam, đó là
khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM và ngày 8/3/2005 khai trương