Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: việc khai thác cát trái phép

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.44 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Đặt vấn đề 2
I. Mô tả hình huống 4
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống 8
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 11
1. Nguyên nhân 11
2. Hậu quả 11
IV. Phân tích lựa chọn phương án xử lý vụ việc 13
V. Kế hoạch thực hiện phương án xử lý 16
VI. Kết luận và kiến nghị 18
Tài liệu tham khảo 20
Từ những kinh nghiệm nhiều năm làm công tác quản lý nhà nước trong
lĩnh vực ngành tài nguyên và môi trường kết hợp với kiến thức đã học qua lớp
bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên trong thời gian qua đã giúp tôi
mạnh dạn nghiên cứu chọn đề tài “Xử lý vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi
trường ở xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ”xảy ra trong hoạt động khai thác cát xây
dựng, liên quan đến việc quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tài nguyên và môi
trường. Nhằm phân tích tình huống, tìm ra và lựa chọn phương án xứ lý tối ưu
nhất đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng đồng thời hợp tình, hợp
lý trong điều kiện tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước là bài kiểm tra cuối khoá nhằm đánh giá
khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn của hoạt động quản lý Nhà
nước hiện hành. Thông qua đó, các học viên có vai trò như là người cán bộ,
công chức có chức năng, thẩm quyền đưa ra phương hướng xử lý thực sự phù
hợp với điều kiện thể chế; phong tục tập quán Việt Nam, phong tục từng vùng,
miền. Song, những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước không
đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy đủ khả
năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của từng
vấn đề… làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung.
Do bài viết được thực hiện trong một thời gian có hạn, tính phức tạp của tình
huống có liên quan đến nhiều vấn đề trong xã hội và bài viết còn mang tính chủ


quan của người viết nên có thể không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô và những người có
quan tâm đến công tác Quản lý nhà nước về Tài nguyên và môi trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cấp lãnh đạo, Ban Giám hiệu Trường chính trị
tỉnh Bình Định, quý thầy cô đã quan tâm truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích từ
khoá học và giúp đỡ tôi hoàn thành tiểu luận này.
Một lần nữa tôi xin cảm ơn Thầy giáo chủ nhiệm, Ban cán sự lớp và các
anh chị học viên lớp chuyên viên 2-2010 đã quan tâm giúp đỡ và chia sẻ kinh
nhgiệm trong quá trình học tập./.
Quy Nhơn, ngày 25 tháng 12 năm 2010
Học viên
Đặng Minh Tấn
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Tình huống là một câu chuyện kể về một sự kiện, một vụ việc xảy ra trong
hoạt động quản lý nhà nước. Sự kiện ấy, vụ việc ấy đã và đang xảy ra trong hoạt
động quản lý Nhà nước, đặt ra những vấn đề trước cán bộ công chức nhà nước;
đòi hỏi cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền và những cán bộ có liên
quan đến vụ việc, sự kiện đó phân tích, tìm ra phương án giải quyết.
Để giải quyết vấn đề cần thực hiện các yêu cầu xác định được thời gian, không
gian, lĩnh vực vụ việc xảy ra tiến hành phân tích và giải quyết vấn đề một cách
thấu đáo. Tình huống xảy ra là một câu chuyện có thật ở hai dạng: tình huống
đóng và tình huống mở. Tình huống đóng là tình huống đã xảy ra và đã xử lý.
Tình huống mở là tình huống đã và đang xảy ra nhưng chưa xử lý.
Tình huống và xử lý tình huống ở đây là tình huống mở. Tình huống xảy ra
trong quan hệ trên lĩnh vực quản lý nhà nước về khoáng sản. Cơ quan quản lý
nhà nước khoáng sản của tỉnh là ngành tài nguyên và môi trường và vấn đề cần
đem ra giải quyết sao cho đúng luật, bảo vệ quyền lợi các bên, thấu tình đạt lý
nhưng cũng phải tăng cường kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Tình huống như sau:
Ngày 06/12/2010 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Định có

văn bản số 1990/SNN-TL kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Định,
UBND huyện Phù Mỹ xem xét kiểm tra, đình chỉ việc khai thác cát trên sông
Latinh, tại địa bàn thôn Bình Long, xã Mỹ Hiệp của huyện Phù Mỹ do lo sợ việc
khai thác cát sẽ ảnh hưởng đến hệ thống Đê Latinh hiện nay đang thi công do
UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ đầu tư, nguồn
vốn vay của Ngân hàng thế giới WB.
Qua nghiên cứu công tác quản lý tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Bình Định, Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Định xác định trên địa bàn xã
Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ chưa được cấp phép khai thác khoáng sản cho tổ chức
cá nhân nào và khu vực này do chính quyền địa phương quản lý. Vì vậy, rất có
thể đây là việc khai thác cát trái phép hoặc có sự đồng ý của chính quyền địa
phương, việc này là làm trái với quy định của Luật Khoáng sản ngày 20/3/1996
(sửa đổi, bổ sung năm 14/6/2005) và Luật đê điều ngày 29/11/2006.
Ngày 13/12/2010, đoàn kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Định
đã phối hợp với đại diện của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông nghiệp, UBND
huyện Phù Mỹ tiến hành kiểm tra khu vực khai thác cát của hộ ông Nguyễn Văn
An và làm việc với UBND xã Mỹ Hiệp để xác minh vụ việc.
Qua kiểm tra, đoàn kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường đã phát hiện
như sau:
- Ngày 02/01/2006, UBND xã Mỹ Hiệp ký hợp đồng số 01/HĐ-TĐ cho
thuê bến bãi bồi sông để cho hộ ông Nguyễn Văn An là người dân tại địa
phương xã Mỹ Hiệp được khai thác cát lòng sông trên sông Latinh, thuộc địa
phận thôn Bình Long của xã Mỹ Hiệp. Diện tích khai thác cát là 02ha, rộng
40m, dài 500m dọc theo bờ sông Latinh.
- Hộ ông Nguyễn Văn An có trách nhiệm hằng năm nộp cho ngân sách
UBND xã Mỹ Hiệp với số tiền 10.000.000 đồng/ha/năm để UBND xã sử dụng
vào mục đích xây dựng các công trình phúc lợi tại địa phương và hỗ trợ một số
gia đình chính sách của thôn Bình Long.
- Trong các năm qua, hộ ông Nguyễn Văn An vẫn khai thác cát tại khu vực
trên và hộ ông Nguyễn Văn An đã thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký

với UBND xã Mỹ Hiệp. Cụ thể, trong các năm 2006 đến năm 2009, hộ ông
Nguyễn Văn An đã nộp cho ngân sách UBND xã Mỹ Hiệp với số tiền là
80.000.000 đồng, riêng năm 2010 hộ ông Nguyễn Văn An mới nộp 10.000.000
đồng.
- Hiện tại, Nguyễn Văn An đang khai thác cát bằng máy đào tại sông
Latinh thuộc thôn Bình Long, xã Mỹ Hiệp, tuy nhiên ông Nguyễn Văn An
không có giấy phép khai thác khoáng sản do cơ quan có thẩm quyền cấp phép,
ông Nguyễn Văn An chỉ đưa ra hợp đồng thuê bến bãi do UBND xã Mỹ Hiệp ký
cho phép, đồng thời việc khai thác cát của hộ ông Nguyễn Văn An cũng gây sạt
lở, ảnh hường môi trường tại khu vực khai thác. Đoàn kiểm tra đã lập biên bản
vụ việc và ông Nguyễn Văn An đã ký xác nhận.
- Làm việc với UBND xã Mỹ Hiệp, Chủ tịch UBND xã Mỹ Hiệp đã xác
nhận có hợp đồng cho hộ ông Nguyễn Văn An khai thác 02ha trên sông Latinh,
thuộc thôn Bình Long và nhiệm vụ ông Nguyễn Văn An phải nộp cho ngân sách
xã 10.000.000 đồng/ha/năm để xây dựng các công trình phúc lợi tại địa phương
và hỗ trợ các gia đình chính sách. Việc này đã được HĐND xã Mỹ Hiệp thông
qua bằng Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 25/12/2005.
Qua trao đổi thông tin với UBND xã Mỹ Hiệp, đại diện đoàn kiểm tra đã
khẳng định, việc xã cho hộ ông Nguyễn Văn An khai thác cát là trái quy định
của Luật Khoáng sản, đồng thời việc thu vào ngân sách xã từ hợp đồng cho khai
thác cát với số tiền là 10.000.000đ/ha/năm là trái quy định của Luật Ngân sách.
Tại điểm b, khoản 1, Điều 56 của Luật Khoáng sản ngày 20/3/1996 (sửa đổi, bổ
sung năm 14/6/2005) có quy định: Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương cấp giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; giấy phép khảo sát, giấy
phép thăm dò, giấy phép khai thác, giấy phép chế biến khoáng sản làm vật liệu
xây dựng thông thường và than bùn; giấy phép khai thác, giấy phép chế biến
khoáng sản đối với khu vực đã được điều tra, đánh giá hoặc thăm dò, phê duyệt
trữ lượng khoáng sản mà không nằm trong quy hoạch khai thác, chế biến
khoáng sản của cả nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
hoặc không thuộc diện dự trữ tài nguyên khoáng sản quốc gia. Đồng thời tại

điểm a, khoản 1, Điều 56 của Luật Khoáng sản có quy định Bộ Tài nguyên và
Môi trường cấp phép các loại giấy phép hoạt động khoáng sản còn lại.
Tại điều 7 của Luật Khoáng sản quy định: căn cứ vào nguồn thu từ hoạt động
khai thác và chế biến khoáng sản, Nhà nước hàng năm dành một khoản từ ngân
sách để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nơi có khoáng sản được khai
thác, chế biến; tạo điều kiện ổn định sản xuất và đời sống cho bộ phận nhân dân
nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến phải thay đổi nơi cư trú, nơi sản
xuất; Tổ chức, cá nhân được phép khai thác, chế biến khoáng sản có trách nhiệm
kết hợp yêu cầu của hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản với việc xây dựng
cơ sở hạ tầng, bảo vệ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai tại địa phương
theo báo cáo nghiên cứu khả thi đã được chấp thuận; ưu tiên thu hút lao động tại
địa phương vào hoạt động khoáng sản và các dịch vụ liên quan.
Đồng thời, hiện nay UBND tỉnh Bình Định đã quy định mức đóng góp để xây
dựng cơ sở hạ tầng trong khai thác cát của các tổ chức, cá nhân là 3.100
đồng/m3cát, giao cho UBND cấp huyện thu và điều tiết khoản quỹ này. Vì vậy,
UBND xã Mỹ Hiệp thu tiền trong khai thác cát là trái các quy định trên.
Qua đó cho thấy đã có một số tổ chức, cá nhân vi phạm như sau:
- Việc Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp đã thông qua Nghị quyết 20/NQ-
HĐND ngày 25/12/2005 và UBND xã Mỹ Hiệp đã ký hợp đồng số 01/HĐ-TĐ
ngày 02/01/2006 cho hộ ông Nguyễn Văn An khai thác thác cát là trái quy định
của Luật Khoáng sản.
- Ông Nguyễn Văn An khai thác cát tại sông Latinh, thuộc thôn Bình Long,
xã Mỹ Hiệp không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp là vi phạm quy
định của Luật Khoáng sản, trong quá trình khai thác cát đã gây sạt lở, ảnh hưởng
đến môi trường là vi phạm các quy định của Luật Bảo vệ môi trường.
Trong thời gian qua, một số doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Bình Định đã hoạt động không đúng quy định của pháp luật về khoáng sản, đặc
biệt là vi phạm các quy định về môi trường đã gây nhiều bức xúc cho nhân dân
tại một số địa phương của tỉnh, trở thành điểm nóng.
Trên các con sông trên địa bàn tỉnh Bình Định hầu hết xảy ra nạn khai thác

cát trái phép, nhiều đoạn sông đã bị sạt lở, ảnh hưởng đến đê điều, phá hủy đất
canh tác của dân. Việc này cũng do nhu cầu bức xúc về vật liệu xây dựng trong
giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, phần do thiếu hiểu biết về pháp luật của
một số người dân, đồng thời có sự buông lỏng quản lý, tiếp tay của chính quyền
địa phương.
Trở lại vụ việc khai thác cát của hộ ông Nguyễn Văn An tại sông Latinh,
được Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp ra nghị quyết cho phép khai thác cát và
UBND xã Mỹ Hiệp ký hợp đồng cho khai thác cát trái quy định. Vì vậy cần phải
xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật,
đồng thời tuyên truyền các quy định pháp luật xuống cơ sở, đến người dân.
II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Đây là sự việc diễn ra ở hầu hết các huyện trong tỉnh, mục đích khai thác
cát để phục vụ xây dựng, tận thu nguồn tài nguyên có sẵn tại địa phương để khai
thác tạo nguồn thu cho xã. Tuy nhiên về góc độ quản lý nhà nước thì việc làm
trên đã vi phạm các quy định về quản lý hoạt động khoáng sản, vi phạm thẩm
quyền, đặc biệt là việc khai thác cát trái phép không đúng quy hoạch, không
đúng quy trình sẽ gây nguy cơ sạt lở bờ sông, các công trình thủy lợi, đất canh
tác sản xuất của dân, nguy hiểm hơn là ảnh hưởng đến tài sản, tính mạng của
người dân ở hai bờ sông khi mùa mưa lũ đến.
Có thể xác định mục tiêu chung để giải quyết tình huống này là:
- Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý và khai thác tài
nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và bảo vệ đê điều: Đây là mục tiêu cơ
bản nhất, bao trùm nhất để đoàn kiểm tra xử lý tình huống này. Nếu không đảm
bảo được mục tiêu này thì việc việc chấp hành pháp luật của các cơ quan thực
thi pháp luật ở cơ sở và các tổ chức, cá nhân khác không nghiêm minh.
Để thực hiện được mục tiêu này, các cơ quan hành chính Nhà nước và cán bộ,
công chức hành chính có thẩm quyền giải quyết vụ việc phải thực sự am hiểu
chính sách, pháp luật về lĩnh vực tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường,
bảo vệ đê điều của Đảng và Nhà nước ta, nắm chắc các lý do thực tế của tình
huống để phân tích, lựa chọn quy phạm pháp luật và ra văn bản áp dụng quy

phạm pháp luật đúng đắn, đồng thời phải có biện pháp tổ chức thi hành nghiêm
chỉnh quyết định xử lý vi phạm.
Tại Khoản 3, Điều 6 Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản có quy định như sau:
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn có thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản
theo quy định sau đây:
- Thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, môi
trường, an toàn lao động trong hoạt động khoáng sản; bảo đảm an ninh, trật tự
xã hội tại các khu vực có khoáng sản;
- Giải quyết theo thẩm quyền các thủ tục giao đất, cho thuê đất, sử dụng cơ
sở hạ tầng và các vấn đề lác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được pháp thăm
dò, khai thác, chế biến khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; xử lý vi phạm theo
quy định của pháp luật.
Tại khoản 5, điều 8 của Luật Khoáng sản quy định: nghiêm cấm lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về khoáng sản.
Vì vậy, với việc cho phép khai thác cát trái phép, vượt thẩm quyền thì cần phải
xử lý để đảm bảo trật tự trong hệ thống pháp luật. Việc khai thác cát gây sạt lở,
ô nhiễm môi trường thì phải xử lý vi phạm hành chính và bắt buộc khắc phục
môi trường.
- Đảm bảo lợi ích của người dân: đây là mục tiêu được xác định nhằm đảm
bảo cho việc giải quyết vụ việc được hợp tình, hợp lý, giảm bớt nguy cơ người
dân có thể khiếu kiện vượt cấp, dẫn đến xảy ra các điểm nóng như tương tự các
vụ việc tranh chấp về đất đai ở Lộ Diêu, huyện Hoài Nhơn hay các vụ titan ở
Nhơn Lý, Quy Nhơn, ở Vĩnh Lợi, Mỹ Thành, Phù Mỹ.
Để thực hiện được mục tiêu này, các cơ quan và cán bộ, công chức hành
chính có thẩm quyền cần phải nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đối với
người dân và địa phương nơi có mỏ khoáng sản; các quy định phân cấp quản lý

nhà nước về tài nguyên khoáng sản cho địa phương các cấp, nhằm tuyên truyền
các quy định pháp luật về địa phương và nhân dân trong khu vực cùng phối hợp
với cơ quan nhà nước các cấp trong trong tác quản lý nhà nước về khoáng sản.
- Đảm bảo tính khả thi của quyết định xử lý hành chính, các yêu cầu của cơ
quan cấp trên: Đây là yêu cầu đặt ra nhằm đảm bảo hiệu lực thực tế của quyết
định giải quyết, đảm bảo thi hành được quyết định trong thực tế. Điều này đỏi
hỏi cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết phải điều tra, nghiên cứu toàn
diện các quy định của pháp luật liên quan đế hoạt động khoáng sản, cũng như
tìm ra các nguyên nhân khách quan, chủ quan để từ đó đưa ra được giải pháp
vừa hợp pháp, vừa hợp tình, hợp lý, có đầy đủ các phương tiện thực hiện và điều
kiện để thực thi quyết định và phải đảm đúng nguyên tắc, đúng thẩm quyền pháp
luật.
Các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, không thể
vì đạt được mục tiêu này mà loại trừ mục tiêu khác. Trong đó, mục tiêu thứ nhất
phải là mục tiêu hàng đầu, bắt buộc phải thực hiện được.
II. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1. Về nguyên nhân của vụ việc:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc khai thác cát trái phép trên sông
Latinh, gây sạt lở, ảnh hưởng môi trường, trong đó có thể xác định một số
nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản sau:
Thứ nhất: Do nhu cầu vật liệu xây dựng lớn, tài nguyên sẵn có, thêm vào
đó người dân chưa nhận thức pháp luật về khoáng sản, chưa được chính quyền
địa phương hướng dẫn cụ thể để lập hồ sơ khai thác theo quy định, nghĩ rằng
việc khai thác đã được UBND xã Mỹ Hiệp cho phép là đủ.
Thứ hai: Do UBND xã Mỹ Hiệp chưa nắm rõ các quy định của pháp luật
về khoáng sản. Trong đó cũng phải kể đến năng lực chuyên môn, tham mưu của
cán bộ, công chức cấp xã dẫn đến việc cho phép khai thác cát vượt thẩm quyền.
Thứ ba: Do sự thiếu quản lý, kiểm tra giám sát của UBND huyện Phù Mỹ.
Thứ tư: Do công tác tuyên truyền pháp luật về tài nguyên và môi trường
chưa được sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân.

2. Về hậu quả của vụ việc khai thác cát trái phép:
Việc khai thác cát trái phép trên đã gây ra một số hậu quả như sau:
- Ông Nguyễn Văn An đã khai thác cát trên sông Latinh không có giấy
phép là vi phạm pháp luật, khai thác cát đã gây sạt lở bờ sông, ảnh hưởng đến
môi trường gây bất bình trong nhân dân.
- Việc UBND xã Mỹ Hiệp ký hợp đồng cho hộ ông Nguyễn Văn An khai
thác cát sẽ tạo tiền lệ cho một số người dân khác có thể làm theo hộ ông Nguyễn
Văn An chỉ xin phép với Ủy ban nhân dân xã, không lập hồ sơ xin phép khai
thác cát trình cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo quy định. Điều này sẽ rất
nguy hiểm, bởi việc khai thác cát trái phép tràn lan, không đúng quy hoạch,
đúng quy trình khai thác cát sẽ gây các hiện xâm thực bờ sông, ảnh hưởng trực
tiếp đến người dân sống hai bờ sông.
- Niềm tin của nhân dân địa phương đối với chính sách pháp luật về
khoáng sản có thể bị ảnh hưởng, cho rằng các cơ quan nhà nước đã cấp phép
khai thác cát cho hộ ông Nguyễn Văn An đã gây sạt lở bờ sông và việc đó đã
được các cơ quan nhà nước bao che, dung túng ông Nguyễn Văn An.
Tóm lại, có thể thấy rằng sự việc khai thác cát của ông Nguyễn Văn An tuy đơn
giản nhưng đã để lại những người tham gia trong công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản nhiều suy nghĩ. Việc quản lý tài nguyên khoáng sản ở cấp cơ sở
chưa được chú trọng nhưng có sự vượt thẩm quyền để việc khai thác cát xảy ra
trái luật và ảnh hưởng môi trường. Tuy nhiên có những nguyên nhân chủ quan
và khách quan. Do vậy, cần thiết phải có biện pháp giải quyết kịp thời, đúng
đắn, đảm bảo đúng pháp luật, nhưng cũng phải vừa có tính tuyên truyền, phổ
biến pháp luật vừa hợp tình hợp lý để giải quyết vụ việc trên.
VI. PHÂN TÍCH LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ VỤ VIỆC
Sau vụ việc xảy ra, đoàn kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường tổ
chức thảo luận, xem xét giải trình của UBND xã Mỹ Hiệp và báo cáo của hộ ông
Nguyễn Văn An và căn cứ trên cơ sở quy định của pháp luật đề ra các phương
án xử lý là:
1. Đình chỉ việc khai thác cát, tịch thu tang vật là xe đào và xử lý vi phạm

hành chính đối với hộ ông Nguyễn Văn An.
2. Đình chỉ việc khai thác cát, buộc khắc phục vi phạm.
3. Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác cát số 01/HĐTĐ ngày 02/01/2006
của UBND xã Mỹ Hiệp đã ký với hộ ông Nguyễn Văn An, đề nghị UBND
huyện Phù Mỹ kiểm điểm UBND xã Mỹ Hiệp cho khai thác cát trái thẩm quyền,
đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Phù Mỹ hủy bỏ Nghị quyết số 20/NĐ-HĐND
ngày 26/12/2005 của Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp.
4. Áp dụng cả 2 phương pháp xử lý 2 và 3 nêu trên.
Riêng việc UBND xã Mỹ Hiệp thu tiền từ khai thác cát của hộ ông Nguyễn
Văn An không đúng quy định, tuy nhiên UBND xã Mỹ Hiệp đã sử dụng các
khoản tiền trên là đúng mục đích, đúng tinh thần của Nghị quyết số 20/NQ-
HĐND ngày 25/12/2005 của Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp. Vì vậy, qua xem
xét đoàn kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường đã nhắc nhở, đề nghị
UBND xã Mỹ Hiệp rút kinh nghiệm và không yêu cầu UBND xã Mỹ Hiệp nộp
lại số tiền đã thu được vào ngân sách Nhà nước.
Phân tích các phương án trên:
- Một là: Đình chỉ việc khai thác cát, tịch thu tang vật là xe đào và xử lý vi
phạm hành chính đối với hộ ông Nguyễn Văn An. Việc đình chỉ việc khai thác
cát của hộ ông Nguyễn Văn An là cần thiết. Tuy nhiên việc tịch thu phương tiện
vi phạm cần phải xem xét lại tình huống thực tế tại địa phương. Việc khai thác
cát của hộ ông Nguyễn Văn An mặc dù không có giấy phép của cơ quan có thẩm
quyền cấp phép nhưng đã được UBND xã Mỹ Hiệp ký hợp đồng cho khai thác
và hộ ông Nguyễn Văn An vẫn thực hiện đúng hợp đồng với UBND xã Mỹ
Hiệp, cụ thể từ các năm 2006 đến năm 2010 hộ ông Nguyễn Văn An đã nộp vào
ngân sách xã với số tiền là 90.000.000 đồng.
Việc khai thác khoáng sản không có giất phép của cơ quan có thẩm quyền
cấp phép sẽ bị xử lý theo tại điểm a, khoản 5 điều 11 Nghị định số 77/2007/NĐ-
CP ngày 10/5/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 150/2004/NĐ-CP
ngày 29/7/2004 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực khoáng sản (với số tiền là 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng). Đồng

thời với địa phương thuần nông, hộ ông Nguyễn Văn An đã đầu tư thiết bị xe
đào rất tốn kém, bản thân ông không sai chỉ chưa nhận thức được pháp luật về
khoáng sản (mà trách nhiệm thuộc về UBND xã Mỹ Hiệp), nếu xử lý vi phạm
hành chính và tịch thu thiết bị vi phạm là xe đào là không hợp lý, chưa thấu tình
đạt lý và không khả thi. Vậy là phương án 1 không khả thi.
Hai là: đình chỉ việc khai thác cát, buộc khắc phục vi phạm. Phương pháp
này là đúng với pháp luật, tuy nhiên về trách nhiệm của các cơ quan liên quan
như UBND xã Mỹ Hiệp, Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp không làm rõ trong
quá trình vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường.
Phương pháp này chưa làm sáng tỏ trách nhiệm của chính quyền địa
phương, cũng như đảm bảo việc thực thi pháp luật của Nhà nước ở cấp cơ sở. Vì
vậy phương pháp này chưa hợp lý.
Ba là: Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác cát số 01/HĐ-TĐ ngày
02/01/2006 của UBND xã Mỹ Hiệp đã ký với hộ ông Nguyễn Văn A, đề nghị
UBND huyện Phù Mỹ kiểm điểm UBND xã Mỹ Hiệp cho khai thác cát trái
thẩm quyền, đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Phù Mỹ hủy bỏ Nghị quyết số
20/NĐ-HĐND ngày 26/12/2005 của Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp.
Phương pháp này cần thiết, đúng Luật Khoáng sản, đúng quy định của, Luật Tổ
chức HĐND và UBND (khoản 4, Điều 25). Tuy nhiên, đối với phương pháp này
thì việc khai thác cát của Hộ ông Nguyễn Văn An đã gây sạt lở, ảnh hưởng môi
trường nhưng không xử lý, sẽ gây bất bình trong nhân dân, không đảm bảo kỷ
cương của pháp luật.
Thứ tư: Kết hợp hai phương pháp 2 và 3 trên là có cở pháp lý, hội đủ điều
kiện đáp ứng được nhiều các mục tiêu, có tính khả thi cao, giải quyết thấu lý đạt
tình, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Theo tôi chọn phương án xử lý
này.
- Đình chỉ việc khai thác cát: điều này là cần thiết, đảm bảo đúng quy định
của pháp luật. Theo quy định của Luật khoáng sản thì mọi tổ chức cá nhân khai
thác khoáng sản phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, hộ ông Nguyễn
Văn An được UBND xã Mỹ Hiệp cho phép khai thác cát là trái luật.

- Buộc khắc phục vi phạm: yêu cầu hộ ông Nguyễn Văn An khắc phục sạt
lở, tu bổ đê điều là đảm bảo theo đúng quy định của Luật Khoáng sản, Luật Bảo
vệ môi trường và Luật đê điều.
- Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác cát số 01/HĐTĐ ngày 02/01/2006 của
UBND xã Mỹ Hiệp đã ký với hộ ông Nguyễn Văn An. Luật Khoáng sản đã quy
định thẩm quyền cấp phép khai thác vật liệu xây dựng thông thường (cát lòng
sông) là thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh, UBND cấp xã đã ra hợp đồng
cho khai thác cát là vượt thẩm quyền, cần phải thu hồi, hủy hợp đồng cho khai
thác cát của UBND xã Mỹ Hiệp.
- Đề nghị UBND huyện Phù Mỹ kiểm điểm UBND xã Mỹ Hiệp cho khai
thác cát trái thẩm quyền là đúng quy định về Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân.
- Đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Phù Mỹ hủy bỏ Nghị quyết số 20/NĐ-
HĐND ngày 26/12/2005 của Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp: do Hội đồng nhân
dân xã Mỹ Hiệp ra nghị quyết số 20/NQ-HDNĐ ngày 25/12/2005 cho hộ ông
Nguyễn Văn An khai thác cát là vi phạm Luật Khoáng sản và Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Vì vậy, theo tôi là chọn phương án 4 là thích hợp nhất, đảm bảo đúng luật
V. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ:
Căn cứ buổi làm việc của đoàn kiểm tra Sở Tài nguyên và Môi trường
ngày 13/12/2010 và từ những nhận xét, đề xuất biện pháp xứ lý tình huống nêu
trên, cần triển khai thực hiện như sau:
1. Yêu cầu hộ ông Nguyễn Văn An chấm dứt ngay việc khai thác cát trên
sông Latinh thuộc địa phận thôn Bình Long, xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ.
2. Trong thời hạn 15 ngày, hộ ông Nguyễn Văn An phải khắc phục các sự
cố sạt lở, ảnh hưởng môi trường. Giao UBND xã Mỹ Hiệp giám sát việc thực
hiện khắc phục vi phạm của hộ ông Nguyễn Văn An và có báo cáo kết quả cho
UBND huyện Phù Mỹ, Sở Tài nguyên và Môi trường và Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
3. Đoàn kiểm tra Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ báo cáo Giám đốc Sở

Tài nguyên và Môi trường để có văn bản kiến nghị UBND tỉnh Bình Định chỉ
đạo một số vụ việc như sau:
- Yêu cầu UBND huyện Phù Mỹ chỉ đạo tổ chức kiểm điểm UBND xã Mỹ
Hiệp và các cá nhân sai phạm trong việc cho phép hộ ông Nguyễn Văn An khai
thác cát trái thẩm quyền, chậm nhất trong vòng 30 ngày kể từ ngày UBND tỉnh
ra văn bản.
- Đề nghị hội đồng nhân dân huyện Phù Mỹ tổ chức hủy bỏ Nghị quyết số
20/NQ-HĐND ngày 25/12/2005 của Hội đồng nhân dân xã Mỹ Hiệp.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Phù Mỹ; Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp thực
hiện các quy định được quy định tại Khoản 3, điều 6 Căn cứ Nghị định số:
160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Khoáng sản như sau:
+ Thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, môi
trường; bảo đảm an ninh, trật tự xã hội tại các khu vực có khoáng sản.
+ Giải quyết theo thẩm quyền các thủ tục giao đất, cho thuê đất, sử dụng cơ
sở hạ tầng và các vấn đề lác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được pháp thăm
dò, khai thác, chế biến khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật.
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tình huống đã nêu trên đây là tình huống có thật, đang được các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Việc giải quyết theo phương án đã được
cho sẽ chuyển biến tích cực nhận thức pháp luật về tài nguyên và môi trường ở
cấp cơ sở, cụ thể là trên địa bàn xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ.
Đồng thời, qua nghiên cứu vụ việc trên và tình hình tại địa phương, để
quản lý nhà nước tốt về tài nguyên và môi trường, tôi xin nêu một số vấn đề kiến
nghị như sau:
Về mặt thể chế: đề nghị đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác
cấp phép khai thác khoáng sản, đặc biệt là loại cát xây dựng lòng sông. Đơn giản

hóa để người dân có điều kiện khai thác cát lập đúng thủ tục cấp phép theo quy
định, tránh trình trạng người dân ngại thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản từ
cơ quan quản lý nhà nước, mà chuyển sang lách luật, né tránh dẫn đến vi phạm
quy định pháp luật về tài nguyên khoáng sản.
Về việc giải quyết yếu tố con người: hiện nay cán bộ phục trách tài nguyên
và môi trường ở cấp xã hầu như rất mỏng, chỉ có cán bộ địa chính, thậm chí
kiêm nhiệm về quản lý xây dựng, giao thông, thủy lợi Nên trong việc tham
mưu cho UBND cấp xã đôi lúc còn thiếu sót, không kịp thời. Với tình hình phát
triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, vấn đề tài nguyên và môi trường là rất
bức xúc, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì
vậy, cần thể chế hóa Nghị quyết này thành các văn bản pháp luật, trong đó mục
tiêu tăng cường nhân lực về quản lý tài nguyên và môi trường phải được chú
trọng, nâng cao, đảm bảo thực hiện hiệu quả từ trung ương đến cơ sở.
Về công tác quản lý nhà nước tài nguyên và môi trường của các cấp: Cần phải
tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên và môi trường;
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về tài nguyên và môi
trường của cấp dưới và các tổ chức, cá nhân; hướng dẫn, chỉ đạo xử lý kịp thời
các vụ việc vi phạm về tài nguyên và môi trường, tránh trình trạng xảy ra các
điểm nóng về tài nguyên và môi trường trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua.
Trên đây là những nội dung về tình huống và phương pháp xứ lý tình hướng xảy
ra trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước mà tác giả rút ra được
trong quá trình công tác và học tập chương trình Bồi dưỡng kiến thức Quản lý
nhà nước ngạch chuyên viên năm 2010 do Trường Chính trị tỉnh Bình Định tổ
chức. Do kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn có hạn, nên tiểu luận này không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong quý thầy, cô giáo Trường Chính trị tỉnh
Bình Định góp ý để tôi rút kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước (chương trình chuyên viên)
do Học viện hành chính phát hành.

2. Luật Khoáng sản, số hiệu 2/1996/QHIX ngày 20/3/1996.
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng sản, số hiệu
46/2005/QH11 ngày 27/6/2005.
3. Luật Bảo vệ môi trường, số hiệu 52/2005/QH11 ngày 12/12/2005.
4. Luật đê điều, số hiệu 79/2006/QH11 ngảy 29/11/2006.
5. Nghị định số: 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khoáng sản
6. Nghị định số 07/2009/NĐ-CP ngày 22/01/2009 của Chính phủ Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005.

×