Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.03 KB, 91 trang )

1
1
MỤC LỤC
2
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TMCP : Thương mại cổ phần
KHCN : Khách hàng cá nhân
VIB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam
NHTM : Ngân hàng thương mại
NQH : Nợ quá hạn
PB : Khối khách hàng cá nhân.
CB : Khối khách hàng doanh nghiệp.
1
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế và gia nhập WTO, các doanh
nghiệp Việt Nam có thuận lợi để tiếp cận những quan điểm, mô hình kinh
doanh mới từ các nước phát triển, từ các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam.
Là một phần của nền kinh tế thế giới, xu hướng phát triển tất yếu của
ngành ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới sẽ phát triển theo mô hình
ngân hàng bán lẻ. Hoạt động cho vay cá nhân là một phần trong hoạt động
bán lẻ của ngân hàng, nó tạo ra khoản thu nhập lớn và ổn định dựa trên số
đông người sử dụng, đồng thời tăng hình ảnh của ngân hàng trong con mắt
người dân, góp phần vào sự phát triển bền vững, lâu dài của ngân hàng.
Hiện nay đó là định hướng lâu dài của đa số các ngân hàng cổ phần Việt
Nam. Thể hiện rõ nhất là các Ngân hàng ACB, Ngân hàng Đông Á. Các ngân
hàng nước ngoài như ANZ, HSBC sau khi thành lập ngân hàng 100% vốn
nước ngoài cũng muốn tham gia thị trường còn sơ khai này. Hoạt động cho


vay đối với khách hàng cá nhân tại Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé so với tiềm
năng của nó và chưa được các ngân hàng thương mại khai thác triệt để, chỉ
tính con số hơn 85 triệu dân, trong đó 2/3 là dân số trẻ và chỉ mới khoảng
10% dân số có tài khoản và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Trước đây, hoạt động cho vay khách hàng cá nhân còn hạn chế xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, như công nghệ kém không đáp ứng các yêu cầu của
sản phẩm; nhận thức của ngân hàng đối với các khoản vay cá nhân còn hạn
chế được nhìn dưới góc độ rủi ro…dẫn đến các sản phẩm chưa đa dạng. Các
Ngân hàng thương mại Nhà nước có nguồn vốn dồi dào, mạng lưới hoạt động
rộng khắp lại chủ yếu tập trung cho vay các Doanh nghiệp lớn, thị phần cho
2
2
vay cá nhân không được coi trọng. Đây là cơ hội cho các ngân hàng thương
mại cổ phần, khi đối tượng phục vụ của họ là các khách hàng vay vốn có
khoản vay nhỏ và vừa, trong đó có khách hàng cá nhân.
Nhận thức được lợi ích phát triển cho vay khách hàng cá nhân, và qua
quá trình công tác tại Ngân hàng Thương mại cổ plhần Quốc tế, em chọn đề
tài: “Phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Quốc tế Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cho vay khách hàng cá nhân tại
các ngân hàng thương mại.
- Thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại Cổ
phần Quốc tế (VIB) trong các năm 2006, 2007, nửa đầu năm 2008.
- Đưa ra các giải pháp phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại VIB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại VIB.
- Phạm vi: Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (Ngân hàng Quốc tế) trong khoảng

thời gian năm 2006 đến nửa năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic,
phương pháp so sánh thống kê, toán học, phân tích kinh tế… khi nghiên cứu
đề tài này.
5. Những đóng góp của luận văn.
Khẳng định xu hướng tiếp cận khách hàng cá nhân, trong đó có cho vay
tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Dựa trên phân tích số liệu qua
3
3
các năm và nền tảng công nghệ hiện có đưa ra một số chính sách nhằm phát
triển đa dạng sản phẩm cho vay đáp ứng nhu cầu khách hàng cá nhân tại VIB.
6. Bố cục luận văn.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, kết cấu chính của luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về cho vay đối với KHCN của NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với KHCN của VIB.
Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay đối với KHCN tại VIB.
4
4
Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN CHO VAY ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Các ngân
hàng có thể được định nghĩa qua chức năng hay các dịch vụ mà chúng thực
hiện trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày càng có
nhiều các tổ chức tài chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như
cho vay, uỷ thác đầu tư, nhận tiền gửi, ngược lại các NHTM cũng đang mở

rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình. Do đó, rất dễ có sự nhầm
lẫn giữa loại hình NHTM và các trung gian tài chính khác. Peter Rose đã định
nghĩa về NHTM như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Như vậy, có thể phân biệt NHTM với các trung gian tài chính khác ở chỗ
NHTM là tổ chức kinh tế duy nhất được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán
và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với rất nhiều hoạt động đa dạng
trong đó có ba hoạt động chính đó là: nhận tiền gửi, cho vay và hoạt động đầu
tư.
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn của ngân hàng từ những nguồn
tiền chưa được sử dụng trong nền kinh tế với cam kết hoàn trả và trả lãi đúng
hạn. Tiền gửi tồn tại ở các dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của
dân cư, tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp. Đây chính là nguồn tài nguyên
5
5
quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở
các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hoạt
động này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh
hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Cho vay bao gồm: cho vay thương mại,
cho vay tiêu dùng và tài trợ cho dự án. Cho vay thường được định lượng theo
2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay
trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì, dư nợ cuối kì là
số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì.
Hoạt động đầu tư được thể hiện thông qua việc ngân hàng nắm giữ các

chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài sản. Ngân hàng giữ
nhiều loại chứng khoán, có thể xếp loại theo nhiều tiêu thức, ví dụ như theo
tính thanh khoản, theo chủ thể phát hành, theo mục tiêu nắm giữ,…Theo chủ
thể phát hành có thể chia thành: chứng khoán của Chính phủ Trung ương
hoặc địa phương (do kho bạc Nhà nước phát hành); chứng khoán của các
ngân hàng khác, các công ty tài chính (bao gồm các cổ phiếu và các giấy nợ
khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp nhận thanh
toán); chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì
chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ
khi cần thiết.
Các hoạt động khác bao gồm một số hoạt động như: mua bán ngoại tệ,
bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán,
quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê
thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp
6
6
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung
cấp các dịch vụ đại lý.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Như đã trình bày ở phần trên, Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng vay với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong
khoảng thời gian xác định. Phân tích khách hàng trong quan hệ cho vay này
chính là phân tích cho vay. Bởi vì cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song
rủi ro cao nhất cho NHTM nên để có một món cho vay đạt chất lượng thì các
NHTM thường đưa ra một qui trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ
cho vay có rất nhiều nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu
nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần
lớn vốn của chủ, đẩy n gân hàng đến phá sản. Do vậy các ngân hàng thường
cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho
vay. Đó chính là quá trình phân tích trước và trong khi cho vay.

Mục tiêu của phân tích cho vay là xác định rủi ro và các biện pháp hạn
chế rủi ro. Nội dung của phân tích cho vay là thu thập và phân tích thông tin
nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh
toán của người vay,… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự
án,…
Có nhiều cách phân loại cho vay, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi
xin đưa ra cách phân loại khách hàng theo đối tượng khách hàng. Theo cách
phân loại này thì cho vay bao gồm cho vay khách hàng doanh nghiệp, cho vay
tổ chức tài chính và cho vay khách hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác
xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, Công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng
7
7
doanh nghiệp rất đa dạng như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức
tín dụng dự phòng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp
tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Hình thức cho
vay đối với các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thường cho vay
NHTM nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các
giao dịch thường diễn ra trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật
dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của
pháp luật. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm những khách hàng có nhu cầu
vốn để mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà, mua ô tô, mua các thiết bị gia
dụng, thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh và đáp ứng một số yêu
cầu khác. Các phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay
trả góp, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, cho vay theo hạn mức,…Thời hạn
cho vay linh hoạt tuỳ vào mục đích vay của khách hàng và kết quả thẩm định
của cán bộ tín dụng. Lãi suất cho vay được xác định dựa trên biểu lãi suất cho

vay của ngân hàng, hoặc cũng có thể phụ thuộc vào sự thoả thuận của khách
hàng và ngân hàng. Về tài sản đảm bảo cho khoản vay bao gồm bất động sản
(nhà, đất,…), động sản (hàng hoá, máy móc thiết bị,…), số dư tài khoản tiền
gửi, các chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác, tài sản có giá trị khác.
1.2 Cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
Nếu phân loại hoạt động cho vay theo đối tượng khách hàng thì hoạt
động này bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức tài chính và
cho vay khách hàng cá nhân như đã trình bày ở trên. Do đối tượng nghiên cứu
của đề tài là hoạt động cho vay KHCN của NHTM nên ta sẽ xem xét về hoạt
động này. Cho vay KHCN là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho các
8
8
khách hàng là cá nhân: “Đó là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng
chuyển cho các cá nhân quyền sử dụng một khoản tiền với những điều
kiện nhất định được thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích
của khách hàng.”
Đặc điểm cho vay KHCN: Cho vay KHCN có những đặc điểm riêng
thể hiện sự khác biệt với các loại hình cho vay khác như sau:
Đối tượng cho vay là cá nhân và các hộ gia đình.
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản cho vay KHCN có quy mô nhỏ
nhưng số lượng khoản vay lớn, do cho vay KHCN đáp ứng nhu cầu của cá
nhân và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh
nhỏ, nên quy mô của một khoản vay tương đối nhỏ so với tài sản của ngân
hàng, số lượng các khoản vay lại rất lớn do đối tượng của cho vay là các cá
nhân và các hộ gia đình với số lượng nhiều và nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng.
Mục đích vay: nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất kinh
doanh nhỏ của cá nhân, hộ gia đình. Do đó, nhu cầu vay vốn phụ thuộc vào
tâm lý khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. Khi nền kinh tế có sự
tăng trưởng cao và ổn định, KHCN sẽ có thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ

kỳ vọng sẽ có khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai và do vậy sẽ thúc đẩy
sự chi tiêu cho tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại, khi
nền kinh tế suy thoái người dân thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm
đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thay vào đó là sẽ tăng cường tiết kiệm và hạn
chế vay mượn từ Ngân hàng.
Nhu cầu vay của khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi suất, thông
thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ
phải chịu. Mức thu nhập và trình độ dân trí là hai nhân tố tác động rất lớn đến
nhu cầu vay của khách hàng.
9
9
Rủi ro đối với cho vay KHCN: cho vay KHCN có mức độ rủi ro lớn và
được coi là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất
phát từ bản thân khách hàng vay vốn có thể có sự biến động về tình hình tài
chính dẫn đến mất khả năng chi trả hay khi khách hàng cố tình không chịu trả
nợ, hoặc do sự biến động về tình trạng sức khoẻ, công việc… Việc thẩm định
khả năng trả nợ của các cá nhân hoặc hộ gia đình cũng hết sức khó khăn.
Ngoài ra, để có được khoản vay có nhiều khách hàng giấu các thông tin về
tình hình sức khoẻ và công việc trong tương lai của mình nên các ngân hàng
dễ gặp phải rủi ro đạo đức khi cho vay. Do khoản cho vay khách hàng cá
nhân có rủi ro cao nhất nên các ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm
bảo khi vay và yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm cho hàng hoá đã mua.
Lãi suất cho vay: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ (trừ những
khoản cho vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho vay (về thời
gian, nhân lực đi thẩm định, quản lý các khoản cho vay này) cao đồng thời rủi
ro của các khoản vay này cũng rất cao. Do vậy, lãi suất cho vay KHCN
thường cao hơn lãi suất các khoản cho vay khác của NHTM.
Từ trước đến nay, cho vay KHCN vẫn được các ngân hàng coi là khoản
mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là

nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các
khoản cho vay khác hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường,
như vậy với cho vay KHCN ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí
huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá
rất cao (vì đã bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi
suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể
thì hầu hết các khoản cho vay KHCN mới không mang lại lợi nhuận. Nguồn
10
10
thu nhập càng ổn định, ngân hàng có khả năng kiểm soát thì lãi suất áp dụng
cho khách hàng sẽ giảm đi, do rủi ro từ việc cho vay đã được hạn chế.
Hạn mức cho vay KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho khách hàng
vay. hạn mức cho vay KHCN được xác định dựa trên các yếu tố như: nhu cầu
vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá trị của tài sản đảm bảo.
Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn mức
khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý. Thông
thường, cho vay cầm cố có hạn mức cao nhất, chẳng hạn như nếu khách hàng
cầm cố sổ tiết kiệm, trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi có thể được cấp một
hạn mức bằng 90% giá trị tài sản cầm cố. Để có thể xác định được hạn mức
tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo của khách hàng, các ngân hàng cần phải
định giá chính xác tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm giảm số tiền vay
của khách hàng, nếu định giá quá cao sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý (Nhu cầu vay hợp
lý của khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý - vốn tự có của khách hàng - vốn
khách hàng vay mượn từ nguồn khác) và hạn mức tín dụng, từ đó xác định số
tiền cho vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ
cho khách hàng vay theo hạn mức tín dụng, nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn
mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay
hợp lý của khách hàng. Như vậy, sẽ vừa thoả mãn nhu cầu vay của khách
hàng vừa để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.

1.2.2 Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
Để có thể quản lý tốt cho vay KHCN cần thiết phải phân loại cho vay
KHCN. Có nhiều tiêu thức để phân loại một khoản cho vay, dưới đây tôi xin
đề cập phân loại các khoản cho vay KHCN theo một số tiêu chí sau:
• Căn cứ vào mục đích vay.
Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại cho vay KHCN thành ba loại:
11
11
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích cư trú.
Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc
cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của khoản vay này là thời
gian dài và quy mô vay là lớn.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng
Đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua
sắm phương tiện, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành, giải trí,… Đặc điểm
của khoản vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn, rủi ro thấp hơn cho vay
phục vụ mục đích cư trú.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh
Đó là các khoản cho vay để thực hiện các phương án sản xuất kinh
doanh nhỏ ở từng hộ gia đình, vay để buôn bán, thuê cửa hàng,… Đặc điểm
của các khoản cho vay này là thời hạn vay ngắn phụ thuộc vào mặt hàng kinh
doanh, qui mô khoản vay tuỳ thuộc vào phương án kinh doanh của khách
hàng, rủi ro của khoản cho vay này rất cao, và có khả năng xảy ra rủi ro đạo
đức. Tuy nhiêu nếu ngân hàng quản lý thường xuyên hoạt động kinh doanh
của khách hàng thì rủi ro sẽ hạn chế.
• Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Cho vay KHCN trả một lần khi đáo hạn
Là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu
cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui
mô của món vay là tương đối nhỏ, các khoản vay trả một lần thường ngắn hạn

và được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, mua các dụng cụ gia đình
hoặc sửa chữa ô tô, nhà ở… Rủi ro các món vay này là không lớn lắm.
Nếu quy mô khoản vay lớn sẽ có rủi ro cao, do đặc điểm của khoản vay
này là trả cuối kỳ, nguồn trả chủ yếu từ việc bán tài sản khác hoặc nguồn trả
nợ khác gặp khó khăn khi đó kế hoạch trả nợ thay đổi, điển hình khi thị
12
12
trương bất động sản biến động, hoặc nền kinh tế gặp khó khăn. Có thể thấy
điều này qua khủng hoảng thị trường tài chính của Mỹ xuất phát từ việc cho
vay dưới tiêu chuẩn.
Cho vay trả góp
Là khoản cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh toán làm hai hoặc
nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý). Khoản cho vay được trả làm
nhiều lần theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng, phương thức này
được dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, nhà,…
hoặc để tài trợ cho các phương án sản xuất kinh doanh, thuê cửa hàng, mua
sắm các tài sản lưu động khác,… Nhìn chung, các khoản cho vay trả góp này
mang lãi suất cố định, tuy nhiên loại mang lãi suất thả nổi cũng đang dần trở
nên phổ biến. Thường thì trong tổng khối lượng cho vay tiêu dùng do các
NHTM cung cấp thì hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này
xuất phát từ việc khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả
khoản vay một lần duy nhất thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng
hay đến kỳ lương là thuận lợi hơn. Hình thức cho vay này lại được chia nhỏ
thành: cho vay trả gốc và lãi hàng tháng đều nhau (niên kim cố định), trả gốc
hàng tháng bằng nhau, lãi trả theo số dư gốc (niên kim không cố định), hoặc
trả lãi hàng kì còn gốc trả cuối kì.
Cho vay theo thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ngân hàng cũng như các loại thẻ thanh toán khác đã nhanh
chóng được chấp nhận sử dụng, thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng
thường xuyên và quay vòng mà khách hàng có thể sử dụng bất cứ khi nào họ

có nhu cầu. Những người sử dụng thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc trả một
lần vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình.
Trong tương lai thẻ tín dụng sẽ rất phát triển bởi công nghệ tiên tiến sẽ giúp
cho những người sở hữu thẻ tín dụng có thể tiếp cận đến một số lượng lớn các
13
13
dịch vụ tài chính, bao gồm cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh toán cũng
như hạn mức tín dụng.
• Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay gián tiếp:
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh
của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho
KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh
nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng.
Hình thức cho vay này có những ưu điểm sau:
- Các NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay.
- Các NHTM sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay.
- Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động khác của ngân hàng.
- Nếu NHTM quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho
vay KHCN gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay KHCN trực tiếp.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những hạn chế:
- Các ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ,
nhất là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của doanh nghiệp và
ngân hàng không giống nhau.
- Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng cả trước, trong và sau khi vay vốn,
khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá và dịch vụ.
- Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này rất phức

tạp.
Cho vay trực tiếp
14
14
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để
tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Hình thức này có những ưu điểm sau:
Việc cho vay tiến hành trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng do vậy
ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, và kĩ năng
của cán bộ tín dụng, do đó các khoản vay này thường có chất lượng cao hơn
so với cho vay gián tiếp thông qua các doanh nghiệp bán lẻ.
Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản
vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến
việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các
doanh nghiệp thường đưa ra quyết định cho vay một cách nhanh chóng, nên
dẫn đến tình trạng có những khoản cho vay cấp ra không chính đáng, ngược
lại có thể từ chối khách hàng tốt của mình, như vậy hình thức này đã khắc
phục nhược điểm này nếu cho vay gián tiếp.
Hình thức cho vay trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì
khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ xử lý tốt các phát
sinh, hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách
hàng.
Cho vay trực tiếp với đối tượng khách hàng là rất rộng do đó việc đưa ra
các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường
và quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những mặt hạn chế:
Việc mở rộng và tăng doanh số cho vay không thuận lợi bằng hình thức
cho vay KHCN gián tiếp.
Do cán bộ ngân hàng phải làm việc trực tiếp với khách hàng nên Ngân
hàng tốn nhiều thời gian và chi phí so với hình thức cho vay gián tiếp, nhất là

15
15
khi lượng khách hàng đến đông cùng một thời gian sẽ gây khó khăn cho Ngân
hàng.
• Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay:
Cho vay có tài sản bảo đảm
Là cho vay với tài sản bảo đảm là bất động sản, động sản… hình thành
từ vốn vay hoặc tài sản thuộc sở hữu của khách hàng trước khi vay vốn của
Ngân hàng. Tài sản bảo đảm làm tăng tính an toàn cho khoản vay do Ngân
hàng có thể tạo áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống
xấu nhất khách hàng không trả được nợ thì việc phát mại tài sản bảo đảm
cũng giúp giảm bớt tổn thất cho Ngân hàng. Cho vay có tài sản đảm bảo lại
được chia thành hai loại:
Loại 1 bao gồm các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của
chính khách hàng. Có thể chia các hình thức đảm bảo của loại này thành hai
loại nhỏ sau:
Cho vay cầm cố là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền với
điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang
cho ngân hàng trong thời gian đã cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản
cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và
chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố thường là các tài
sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng
thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của
khách hàng chẳng hạn như: các giấy tờ có giá, ngoại tệ mạnh, kim loại quý,…
Cho vay thế chấp là hình thức mà người vay phải chuyển toàn bộ các
giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho ngân
hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Đối với thế chấp bằng tài sản thì những
tài sản mang thế chấp thường là bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất,
…hoặc là những động sản mà người vay vẫn cần sử dụng như ô tô, xe máy,…
16

16
Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng
tài sản trong thời gian vay.
Loại 2 Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay. Khi
khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản
đó không đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu
cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của
ngân hàng làm vật đảm bảo. Để đảm bảo khách hàng không bán tài sản hoặc
sử dụng không cẩn thận làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu
cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ
hưởng là ngân hàng, đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho ngân hàng.
Cho vay không có tài sản bảo đảm
Là cho vay dựa trên uy tín (tín chấp) hoặc bảo lãnh của bên thứ ba,
không có tài sản bảo đảm. Ngân hàng lựa chọn các khách hàng có uy tín và
khả năng trả nợ tốt để cho vay. Ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tín chấp lương, chủ yếu được áp dụng
đối với khách hàng có thu nhập ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi
tiêu thường xuyên còn có một phần tích luỹ để trả nợ vay (công chức, viên
chức trong biên chế nhà nước, nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn,…),
ngoài ra thu nhập hình thành từ sản xuất kinh doanh cũng có thể được xem
xét dùng làm nguồn trả nợ. Hình thức này phù hợp với những khoản vay giá
trị không lớn, thời hạn vay ngắn.
1.2.3 Quy trình cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại
Thực tế cho thấy việc đánh giá một khoản cho vay KHCN là không hề
đơn giản, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Thông tin về khách hàng là không đầy đủ, khách hàng thường có hiện
tượng che giấu tình trạng tài chính, sức khỏe của họ… Thêm vào đó, các cá
17
17

nhân và hộ gia đình không dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài chính. Thực
tế cho thấy, tỷ lệ các khoản cho vay KHCN không được thanh toán thường
gấp nhiều lần so với tỷ lệ các khoản cho vay đối với doanh nghiệp hay tổ
chức tài chính khác không được thanh toán. Một đặc điểm chính giúp ngân
hàng giảm bớt thua lỗ từ các khoản cho vay này là giá trị của chúng thường
nhỏ và được đảm bảo bằng các tài sản thế chấp dễ bán trên thị trường. Các
cán bộ tín dụng đã tổng kết rằng trong hầu hết các loại cho vay, cho vay
KHCN có số lượng không được thanh toán lớn nhất, điều này làm tăng các
khoản nợ có vấn đề của các ngân hàng thương mại do đó làm ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Quy trình cho vay được các cán bộ tín dụng áp dụng giúp cho quá trình
cho vay diễn ra một cách khoa học, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro và nâng cao
chất lượng tín dụng.
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ xin vay của KHCN.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, họ đến gặp nhân viên của ngân
hàng và ghi những thông tin cần thiết vào hồ sơ xin vay. Cán bộ tín dụng sẽ
hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ cho vay đầy đủ và đúng quy định theo mẫu
của ngân hàng bao gồm: đơn xin vay vốn, phương án vay vốn và kế hoạch trả
nợ, danh mục các tài sản cầm cố, thế chấp và giấy tờ liên quan, các giấy tờ
chứng minh nguồn thu nhập (nếu có), hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân và
các giấy tờ liên quan khác.
Bước 2: Thẩm định tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất trong quy
trình cho vay KHCN, quyết định chất lượng của món vay, thường bao gồm
các nội dung sau:
Thẩm định tư cách đạo đức và mục đích vay của khách hàng: Cán bộ
tín dụng phải đảm bảo khách hàng vay vốn có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự, đủ tư cách pháp lý vay vốn ngân hàng. Nếu một khách
18
18
hàng muốn vay từ ngân hàng, họ phải trả lời đầy đủ những câu hỏi của cán bộ

tín dụng về lý do xin vay hay nhu cầu tín dụng xuất phát từ đâu. Cuộc trò
chuyện giữa cán bộ tín dụng và khách hàng là rất quan trọng bởi vì qua đó
cán bộ tín dụng có điều kiện để nhận biết tính cách cũng như mục đích xin
vay của khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng phát hiện ra sự không trung thực
của khách hàng đối với nhu cầu vay vốn thì có nhiều khả năng hồ sơ xin vay
của khách hàng sẽ bị từ chối.
Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay được bộc lộ
thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng phải hỏi xem khách
hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào mục đích gì và liệu mục đích đó có phù hợp
với chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Những cán bộ có kinh
nghiệm đặt câu hỏi cho khách hàng rồi tự tay điền vào trong đơn chứ không
để khách hàng tự điền.
Thẩm định tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng: Bao
gồm các công việc: xác định mức thu nhập của khách hàng, việc làm, số dư
các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Nhân viên tín dụng phải được đảm bảo
rằng những khách hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm hoàn trả đầy đủ
và đúng hạn các khoản nợ. Việc xác định nguồn thu nhập ổn định hàng tháng
của khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là nguồn trả nợ cho ngân
hàng. Những khách hàng có thu nhập ổn định và thu nhập còn lại sau khi trừ
các khoản chi phí sinh hoạt cần thiết cao thì khả năng vay sẽ cao.
Đối với những khách hàng có chất lượng tín dụng thấp thì ngân hàng yêu
cầu phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả các khoản vay. Nếu
người đi vay không thanh toán cho các khoản nợ được bảo lãnh thì người
đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng
chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một
19
19
nguồn đảm bảo thực sự. Người đi vay sẽ thấy có trách nhiệm hơn trong việc
hoàn trả khoản vay vì uy tín của người bảo lãnh.
Bước 3: Thẩm định tài sản đảm bảo.

Cán bộ tín dụng cần kiểm tra quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các
tài sản dùng làm vật đảm bảo của khách hàng. Khả năng chuyển tài sản thành
tiền trong những trường hợp cần thiết và sự ổn định về giá cả của tài sản.
Định giá tài sản đảm bảo cũng là một công đoạn rất quan trọng trong khâu
thẩm định. Cuối cùng, ngân hàng cần xem xét khả năng bảo quản tài sản của
người đi vay.
Lập báo cáo thẩm định. Sau khi thẩm định xong, cán bộ tín dụng sẽ lập
báo cáo thẩm định trong đó ghi vắn tắt nhưng tổng quát về tình hình của
khách hàng: tên, tuổi, mục đích vay, số tiền vay, phương án trả nợ, tài sản
đảm bảo và đưa ra ý kiến cho vay hay không cho vay đối với khách hàng.
Nếu cho vay thì phải ghi rõ số tiền, thời hạn, lãi suất, phương án trả nợ và các
điều kiện kèm theo rồi trình lên trưởng phòng tín dụng xem xét. Nếu không
cho vay thì phải ghi rõ lý do vì sao.
Bước 4: Xét duyệt và ký kết hợp đồng tín dụng.
Sau khi nhận báo cáo thẩm định kèm theo hồ sơ vay vốn liên quan,
trưởng phòng tín dụng hoặc cấp phê duyệt xem xét lại và yêu cầu cán bộ tín
dụng giải thích bổ sung hoặc chỉnh sửa nếu có thiếu sót. Sau đó báo cáo sẽ
được trình lên Hội đồng tín dụng xét duyệt, quyết định cho vay hay không
cho vay. Trong trường hợp cần thiết (ví dụ như đối với các khoản vay lớn),
Hội đồng tín dụng có thể yêu cầu một bộ phận khác tái thẩm định hồ sơ vay.
Sau khi hồ sơ vay vốn được chấp thuận, ngân hàng và khách hàng sẽ tiến
hành kí kết hợp đồng tín dụng.
20
20
Bước 5: Gíải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Hợp đồng tín dụng đã được ký kết và được giám đốc ký duyệt, ngân
hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng tương ứng với số tiền đã được ký
kết trong hợp đồng.
Trong quá trình giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát quá
trình sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích, đúng tiến độ hay

không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu
lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không, tài sản thế chấp có được giữ đảm bảo
hay không,… Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thông tin về khách
hàng, nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín
dụng đang được đảm bảo, ngược lại,thì chất lượng khoản cho vay bị đe dọa.
Bước 6: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Đây là bước cuối cùng của quy trình cho vay KHCN. Cán bộ tín dụng
theo dõi, đôn đốc việc trả nợ của khách hàng. Quá trình này giúp ngân hàng
thu hồi gốc và lãi đồng thời xác định các nhu cầu mới của khách hàng. Nói
chung, các khoản tín dụng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng
an toàn. Nhưng trong một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không được
hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng
hạn cho thấy các trục trặc trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét tìm
nguyên nhân là rất quan trọng giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định
mới để đảm bảo thu hồi khoản cho vay.
Khi phát hiện các khoản nợ có dấu hiệu xấu song khách hàng vẫn kiên
quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, cán bộ tín dụng xem xét việc gia hạn nợ,
bổ sung các điều kiện như giảm lãi hoặc cho vay thêm.
Trong trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần
dây dưa hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp
dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi
21
21
nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền
gửi,…
1.2.4 Phát triển cho vay đối với khách hàng cá nhân.
1.2.4.1 Khái niệm phát triển cho vay khách hàng cá nhân.
Phát triển cho vay đối với một đối tượng khách hàng cụ thể là việc ngân
hàng tăng cường sử dụng nguồn lực của mình vào việc gia tăng hoạt động cho
vay đối với đối tượng khách hàng đó, cả về doanh số và chất lượng cho vay

(chất lượng cho vay ở đây được hiểu là khả năng thu hồi nợ của ngân hàng
đối với khách hàng). Theo đó, việc mở rộng cho vay với một đối tượng khách
hàng nào đó không chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận từ hoạt động cho vay
với đối tượng khách hàng đó mà còn nhằm nâng cao uy tín, hình ảnh của ngân
hàng trong tâm trí đối tượng khách hàng đó.
Tuỳ vào từng loại hình ngân hàng, nguồn lực, vị thế của ngân hàng mà
họ sẽ ưu tiên phát triển cho vay với một đối tượng khách hàng khác nhau. Tuy
nhiên, vào thời điểm hiện nay khi nền kinh tế Việt Nam đang phát triển với
một tốc độ rất nhanh, thì thị trường cho vay KHCN là một thị trường rất “màu
mỡ”, nhưng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa được khai thác nhiều. Do vậy,
hiện nay rất nhiều ngân hàng đang tập trung nguồn lực của mình nhằm mở
rộng cho vay với đối tượng KHCN.
1.2.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh việc phát triển cho vay khách hàng
cá nhân.
Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh việc phát triển cho vay KHCN. Các chỉ
tiêu này bao gồm: số lượng các khoản cho vay KHCN, dư nợ cho vay KHCN,
cơ cấu dư nợ cho vay KHCN, chất lượng cho vay KHCN, lợi nhuận từ cho
vay KHCN, số lượng các sản phẩm cho vay KHCN.
22
22
* Các chỉ tiêu phán ánh quy mô cho vay:
Số lượng các khoản cho vay KHCN
Đây là chỉ tiêu thực tế để đánh giá phát triển cho vay đạt được kết quả
như thế nào. Số lượng các khoản cho vay tăng chứng tỏ ngân hàng đang gia
tăng số lượng KHCN, từ đó cho thấy ngân hàng đang gia tăng thị phần
KHCN trên địa bàn hoạt động của mình và cũng phán ánh các sản phẩm đưa
ra có tính thực tế cao, thu hút được sự quan tâm của thị trường.
Dư nợ cho vay KHCN
Đây là chỉ tiêu hiện thực nhất để đánh giá kết quả mở rộng cho vay
KHCN. Dư nợ cho vay KHCN tăng chứng tỏ cho vay KHCN của ngân hàng

đã đạt kết quả tốt. Tuy vậy, kết quả phát triển cho vay KHCN chỉ thực sự đạt
hiệu quả nếu dư nợ cho vay KHCN tăng cả về số lượng tuyệt đối, lẫn số
lượng tương đối (tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN so với tổng dư nợ).
Dư nợ
CVTD năm
nay
=
Dư nợ CVTD
năm trước
+
Doanh số
CVTD năm
nay
_
Doanh số thu
nợ CVTD năm
nay
Tốc độ tăng trưởng =
Tổng dư nợ cho vay tại thời điểm này
Tổng dư nợ cho vay tại thời điểm trước
Người ta cũng có thể dùng chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN trong
tổng dư nợ cho vay của ngân hàng để đánh giá sự tăng trưởng cho vay. Nó
được tính bằng cách so sánh dư nợ cho vay tiêu dùng với tổng dư nợ cho vay
chung cùng một thời điểm.
Tỷ trọng cho vay
KHCN
=
Tổng dư nợ cho vay KHCN
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho thấy sự tăng trưởng của cho vay KHCN so với sự

tăng trưởng cho vay chung của cả ngân hàng. Tỷ trọng càng lớn thì quy mô
23
23
càng được mở rộng và cho vay KHCN càng chiếm vị trí cao trong hoạt động
của ngân hàng.
Cơ cấu dư nợ cho vay KHCN
Cơ cấu dư nợ cho vay KHCN so với các loại hình cho vay khác như cho
vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức tín dụng cũng là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá kết quả phát triển cho vay KHCN của ngân hàng thương
mại. Khi tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN tăng lên, trong khi tỷ trọng các loại
hình cho vay khác giảm đi, hoặc tỷ lệ dư nợ cho vay KHCN năm nay so với
năm ngoái tăng lên với một tỷ lệ phần trăm nhiều hơn so với tỷ lệ tương ứng
của các loại hình cho vay khác, thì mở rộng cho vay KHCN của ngân hàng đã
đạt kết quả tốt.
* Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay:
Lợi nhuận từ cho vay KHCN
Đây cũng là một chỉ tiêu để đánh giá kết quả phát triển cho vay KHCN.
Phát triển cho vay KHCN của NHTM với mục tiêu lớn nhất là gia tăng lợi
nhuận cho ngân hàng trong xu thế cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn.
Việc tăng doanh số cho vay KHCN phải có kết quả là tăng lợi nhuận trên tổng
doanh số cho vay thì phát triển cho vay mới được coi là đạt hiệu quả. Lợi
nhuận cho vay KHCN năm sau phải cao hơn năm trước.
Lợi nhuận cho vay
KHCN
=
Doanh thu cho vay
KHCN
-
Chi phí cho vay
KHCN

Doanh thu cho vay
KHCN
=
Dư nợ cho vay
KHCN
x
Lãi suất cho vay
KHCN
Chi phí cho vay KHCN là phần chi phí bao gồm: Lãi suất huy động vốn
để đáp ứng nhu cầu vay cho các kỳ hạn vay, chi phí quảng cáo, chi phí hoạt
động… Chi phí này được phân bổ trong từng thời kỳ.
Dư nợ cho vay là số tiền khách hàng nhận nợ tại ngân hàng.

×