Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Luận văn thạc sỹ: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.45 KB, 93 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn và đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình trong suốt khóa cao học và trong thời gian
nghiên cứu đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Phan Thị Thu Hà, người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Tài chính - Ngân hàng về những
lời nhận xét quý báu, đóng góp đối với bản luận văn.
Do hạn chế về thời gian và trình độ nên bản luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý chân tình của các thầy
cô, bạn bè và các cá nhân, tổ chức quan tâm đến đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Minh Tâm
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
QĐ : Quyết định
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
NQH : Nợ quá hạn
TDH : Trung dài hạn
TDN : Tổng dự nợ
LN : Lợi nhuận
ALCO : ủy ban quản lý tài sản nợ có
KHDN : Khách hàng doanh nghiệp
QLTD :
Quản lý tín dụng
TTD : Tái thẩm định
VIB : Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam


NV : Nguồn vốn
NH : Ngân hàng
TT : Thị trường
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia đông nam á
GDP : Tổng sản phẩm nội địa
BC-FDI : Khách hàng doanh nghiệp lớn có vốn đầu tư nước ngoài
CM : Khối quản lý tín dụng
UBTD : Ủy ban tín dụng
HĐTD : Hội đồng tín dụng
TGĐ : Tổng giám đốc
GĐCM : Giám đốc khối quản lý tín dụng
GĐK : Giám đốc khối
BCĐKT : Bảng cân đối kế toán
BCKQKD : Báo cáo kết quả kinh doanh
BCLCTT : Báo cáo lưu chuyển tìên tệ
TNV : Tổng nguồn vốn
VCSH : Vốn chủ sở hữu
CBTD : Cán bộ tín dụng
IT : Công nghệ ngân hàng
TCDA : Tài chính dự án
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Dư nợ tín dụng tính đến 31/12 các năm 2006 - 2008 56
Biểu đồ 2.2: Dư nợ tín dụng 31/12/2007 57
Biểu đồ 2.3: Dư nợ tín dụng 31/12/2008 57
Biểu đồ 2.4: Dư nợ tín dụng 31/12/2008 57
Biểu đồ 2.5: Tỷ trọng năm 2006 58
Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng năm 2007 58
Biểu đồ 2.7: Tỷ trọng năm 2009 58

BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những nhiệm vụ quan trọng để
hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đảng và Nhà nước ra đặt ra. Để có
thể thực hiện được điều đó nhất thiết phải tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới
công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời có sự nâng cấp, mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế, từ đó tạo nền tảng cho sự phát
triển kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên, bản thân các doanh nghiệp không có khả
năng tự tài trợ một lượng vốn lớn cần thiết cho các dự án nên để khắc phục những
khó khăn về vốn, họ cần được cung cấp những khoản vốn vay ngân hàng đặc biệt là
vay trung và dài hạn.
Vì vậy, hoạt động cho vay trung và dài hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đó cũng chính là hoạt động
quan trọng nhất của các ngân hàng nói chung. Những hạn chế trong hoạt động này
cũng là sự quan tâm, lo lắng của không chỉ riêng các ngân hàng mà còn là một vấn
đề chung của nền kinh tế. Bên cạnh sự khuyến khích, ưu tiên của Nhà nước đối với
lĩnh vực đầu tư trung và dài hạn, cần thiết phải có sự nghiên cứu, đưa ra những giải
pháp nhằm mở rộng, nâng cao chất lượng của các khoản vốn vay cũng như các hoạt
động cho vay trung và dài hạn, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả tín dụng, hướng tới
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng trung dài hạn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
- Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
trung dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất

lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong chất lượng tín dụng
trung dài hạn đứng trên quan điểm của ngân hàng
4 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh, các
phương pháp thống kê thực chứng đề tài nghiên cứu thông qua khảo sát thực tế tại
ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện hơn nữa trong hoạt động tín dụng trung dài hạn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng nói chung và chất
lượng tín dụng trung dài hạn nói riêng
Phản ánh thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương
mại cổ phần quốc tế Việt Nam. Nêu ra những hạn chế của hoạt động tín dụng trung
dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam
Kiến nghị giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục
bảng biểu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn
tại Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự

phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở
thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng.
Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp
với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu
hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền
tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh
lệch giá mua bán.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không
ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả công ty kinh
doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo
hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại,
ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh ( các tổ chức tài chính phi
ngân hàng ) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào qũy tương hỗ và thực
hiện nhiều các dịch vụ mới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương
diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa khác dựa trên các
hoạt động chủ yếu. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ghi “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài

chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Cho vay
+ Cho vay thương mại và vay tiêu dùng: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã
chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó là
bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng là người mua giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương
đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hướng tới tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các
ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy
mới đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này
nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngành ngân hàng còn cho vay để đầu tư
vào bất động sản.
Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện trao đổi (mua bán)
ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ
do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi
ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi
cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền
gửi ( thanh toán và tiết kiệm của khách hàng ). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi
để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh
để tìm và giành được các khoản tiền gửi các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là
phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt
và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.

Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách
hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận
( giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho
giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh
toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của
việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến
khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng.
Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách
khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức
là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi
trả cho khách ( còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận
được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng,
chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao
thu nhập cho các doanh nhân. Một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó
là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc
mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi này được xem là những
bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách
hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân,
nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lí ngân quỹ, trong đó
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiền hành
đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng
ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.

Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách
trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho
vay của Ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho
Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền để trao đổi lấy
các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương thành lập,
Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được những khoản
tín dụng lớn. Ngày nay, chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm sóat các
ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải
cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho
Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các
điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa
dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình
mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức
tín dụng khác….
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn , nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê thay vì bán các thiết bị. Cuối hợp đồng
thuê, khách hàng có thể mua (còn gọi là hợp đồng thuê mua ). Rất nhiều ngân hàng
tích cực cho kháhc hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần
thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách
hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới
2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm
giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung dài hạn.

Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ
thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài
sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài
chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ
hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người
kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công
ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
đảm bảo cho việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp
rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Cung cấp các dịch vụ đại lí
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng ( thường là các ngân hàng lớn ) cung
cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành
hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ….
1.2. TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng (cho vay) trung và dài hạn là các khoản cho vay của ngân
hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết
của tài sản hình thành từ vốn vay. Việc phân chia tín dụng trung và dài hạn tuỳ
thuộc vào quy định của mỗi quốc gia, ở Việt Nam theo quy chế cho vay
1627/2001/QĐ NHNN có hiệu lực từ ngày 01/02/2002 các khoản tín dụng có thời

hạn từ 12 đến 60 tháng được gọi là tín dụng trung hạn, trên 60 tháng được gọi là tín
dụng dài hạn.
Phân loại tín dụng này căn cứ trên thời hạn cho vay. Trong đó:
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp
chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm
nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh
nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể
lên đến 20 - 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài
hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà
ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh
doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
1.2.2. Quy trình tín dụng trung và dài hạn.
Các giai đoạn của qui trình Nguồn và nơi cung
cấp thông tin
Nhiệm vụ của ngân
hàng ở mỗi giai đoạn
Kết quả sau khi kết thúc
mỗi giai đoạn
1. Lập hồ sơ đề nghị cấp
tín dụng
Khách hàng đi vay
cung cấp

Tiếp xúc, phổ biến
và hướng dẫn khách
hàng lập hồ sơ tín
dụng
Hoàn thành bộ hồ sơ để
chuyển sang phân tích
2. Phân tích tín dụng - Hồ sơ đề nghị vay
từ giai đoạn 1
chuyển sang
- Các thông tin bổ
sung từ phỏng vấn,
hồ sơ lưu trữ, các
nguồn thông tin khác
qua điều tra, tìm
hiểu….
Thực hiện thẩm định
các mặt tài chính và
phi tài chính
Lập báo cáo thẩm định để
chuyển cho các cấp có
thẩm quyền phê duyệt
3.Quyết định tín dụng - Các tài liệu và
thông tin từ giai
đoạn 2 chuyển sang
và báo cáo kết quả
Ra quyết định tín dụng - Quyết định cho vay
hoặc từ chối
- Nếu từ chối ra thông
báo từ chối
thẩm định

- Các thông tin bổ
sung
- Nếu cho vay tiến hành
các thủ tục tiếp theo về
đăng ký thế chấp, đăng
ký giao dịch đảm bảo,
ký hơp đồng tín dụng và
khế ước nhận nợ, ký các
hợp đồng khác nếu có.
4. Giải ngân
- Quyết định cho
vay và các hợp
đồng có liên quan
- Các chứng từ làm
cơ sở giải ngân
Thẩm định các
chứng từ theo các
điều kiện của hợp
đồng tín dụng.
- Giải ngân vào tài
khoản tiền gửi của khách
hàng, giải ngân tiền mặt
hoặc giải ngân chuyển
khoản thẳng cho bên
bán.
5. Giám sát, thu nợ và
thanh lý tín dụng
- Các thông tin từ
nội bộ ngân hàng.
- Các báo cáo tài

chính theo định kỳ
- Các thông tin khác
- Phân tích hoạt động
tài khoản, các báo cáo
tài chính, thực hiện
kiểm tra hoạt động
sản xuất kinh doanh
của khách hàng
- Thu nợ
- Tái xét và xếp hạng
- Thanh lý tín dụng
- Báo cáo kết quả giám
sát và đưa ra các giải
pháp xử lý
- Lập các thủ tục để thanh
lý tín dụng
Quy trình cho vay trung dài hạn cũng tuân thủ như một quy trình tín dụng tổng
quát của ngân hàng bao gồm 5 bước đó là quá trình lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng,
phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và giám sát, thu hồi, thanh lý tín
dụng. Tuy nhiên sự khác biệt cơ bản của quy trình cho vay trung dài hạn so với các
loại hình cho vay khác như cấp tín dụng hạn mức, cho vay món ngắn hạn ở khâu
phân tích tín dụng. Tất cả những loại hình cấp tín dụng nêu trên trong bước phân
tích tín dụng đều phải thực hiện phân tích bản thân doanh nghiệp bao gồm phân tích
tài chính và phi tài chính. Nhưng ở loại hình cho vay trung dài hạn thì ngoài phân
tích bản thân doanh nghiệp còn phải thực hiện thẩm định dự án cụ thể xin vay. Đối
với cho vay hạn mức hoặc vay món ngắn hạn ngoài việc thẩm định bản thân doanh
nghiệp thì phải thực hiện phân tích từng phương án vay vốn, phân tích doanh thu và
giá vốn để đưa ra vòng quay vốn lưu động từ đó xác định nhu cầu vốn của một vòng
quay làm cơ sở xác định hạn mức.
Trong từng bước của một quy trình cho vay tín dụng trung dài hạn, nội dung cụ

thể được mô tả chi tiết dưới đây:
(1) Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng: Một khoản tín dụng chỉ được cấp một khi
ngân hàng đã tin tưởng chắc chắn vào thái độ sẵn sàng trả nợ và khả năng trả nợ của
khách hàng. Để có được một quyết định chính xác về việc cấp tín dụng hay không,
ngân hàng phải phân tích hàng loạt các nguồn thông tin có liên quan, và nguồn sơ
khởi đầu tiên có được là lấy từ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Xét về mặt kinh tế, mặc dù
quan hệ tín dụng chưa hình thành, nhưng đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện
cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập một cách lành mạnh. Xét về mặt thủ tục
hành chính, thì đây là giai đoạn hình thành đầy đủ các giấy tờ, văn bản chứng tỏ
khách hàng thực sự có nhu cầu về vốn tín dụng, cũng như chính minh được tính hợp
pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện xin cấp tín dụng của khách hàng. Số
lượng giấy tờ trong hồ sơ được lập ở giai đoạn này phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Loại khách hàng: Khách hàng đã có thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng
hay khách hàng quan hệ lần đầu; Khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp.
+ Loại và kỹ thuật cấp tín dụng: Mỗi loại hay kỹ thuật cấp tín dụng, thông
thường đối với loại kỹ thuật nào tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng
cung cấp thông tin trong hồ sơ vay nhiều hơn.
Mặt khác, các khách hàng còn khác nhau về độ tín nhiệm đối với ngân hàng.
Vì vậy khách hàng có độ tín nhiệm chưa cao, hoặc kỹ thuật chưa an toàn thì ngân
hàng sẽ áp dụng loại tín dụng có bảo đảm. Tuỳ loại bảo đảm mà lượng giấy tờ pháp
lý có liên quan đến bảo đảm tín dụng cũng rất khác nhau.
+ Qui mô nhu cầu tín dụng: Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng còn phụ thuộc vào quy
mô nhu cầu về vốn tín dụng của khách hàng. Yêu cầu thông tin từ hồ sơ tín dụng sẽ
tăng lên khi quy mô vốn tín dụng sẽ được cấp lớn. Hay ngân hàng phân biệt cho vay
bán buôn với cho vay bán lể để đưa ra những yêu cầu về thông tin. Những thông tin
liên quan đến vay bán buôn thường được thu thập phong phú. Bên cạnh đó, thời
gian cấp tín dụng càng dài thì yêu cầu lượng thông tin càng nhiều, đặc biệt là những
dự báo tài chính của khách hàng trong suốt thời gian sử dụng vốn tín dụng ngân
hàng. Điều này giúp ngân hàng có đủ thông tin để phân tích và dự báo các bất trắc
có thể xảy ra trong tương lai.

Nhìn chung, những thông tin mà khách hàng cung cấp có thể phân thành bốn
nhóm như sau:
+ Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng
+ Những tài liệu chứng minh khả năng hấp thụ vốn tín dụng và khả năng hoàn
trả vốn tín dụng của khách hàng
+ Những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng hoặc điều kiện cấp tín dụng
đặc thù
+ Giấy đề nghị cấp tín dụng
(2) Phân tích tín dụng: Phân tích tín dụng được chia làm hai lĩnh vực: Phân tích
phi tài chính và phân tích tài chính đối với khách hàng.
Phân tích phi tài chính: Là phân tích các yếu tố ít hoặc không liên quan tới vấn
đề tài chính của khách hàng một cách trực tiếp. Đó là, phân tích, kiểm tra tính pháp
lý của khách hàng; Kiểm tra mục đích của khoản tín dụng đề nghị cấp; Phân tích
tính cách khách hàng, uy tín của họ trong kinh doanh/cuộc sống; Nghiên cứu, phân
tích tình hình quản trị doanh nghiệp, khả năng và uy tín của hội đồng quản trị và ban
điều hành, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc ( Giám đốc ) và những
người có ảnh hưởng lớn đến công ty cũng như khả năng tài chính của họ; Nghiên
cứu triển vọng của khách hàng, đặc biệt vị thế trên thương trường, xu hướng phát
triển ngành/vùng và các chiến lược phát triển trong tương lai của khách hàng. Việc
nghiên cứu này phải được kết hợp với những chính sách có liên quan của chính phủ.
Phân tích tài chính: Là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính
trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp xấu
có thể xảy ra, làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích tài chính gồm
đánh giá khái quát về quản trị vốn và các hoạt động kinh doanh; Phân tích các hệ số
tài chính; Phân tích lưu chuyển tiền tệ; Phân tích các dự báo tài chính.
Thực chất, phân tích tài chính trong phân tích tín dụng chính là xác định các
yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng. Ở đây ngân hàng sẽ xác định qui mô
của nhu cầu vay hợp lý. Nhu cầu vay được xác định tuỳ theo khả năng hoạt động
của khách hàng, theo qui mô về nguồn cần thiết để thực hiện phương án tài chính,
mà trong đó phần vốn vay sẽ tham gia.

Trong phân tích tài chính đối với dự án cho vay trung dài hạn ngoài phân tích
tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp, còn phải thực hiện đánh giá hiệu quả
về mặt tài chính của dự án, có hai nhóm chỉ tiêu chính cần thiết phải xem xét, tính
toán cụ thể:
Nhóm chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời của dự án:
+ NPV
+ IRR
+ ROE (đối với những dự án có vốn tự có tham gia)
Nhóm chỉ tiêu về khả năng trả nợ:
+ Nguồn trả nợ hàng năm
+ Thời gian hoàn trả vốn vay
+ DSCR ( chỉ số đánh giá khả năng trả nợ dài hạn của dự án)
Tất cả các chỉ tiêu trên đều có ý nghĩa hết sức quan trọng, qua những số liệu đó
có thể giúp người thẩm định đánh giá khái quát về toàn bộ dự án. Các chỉ tiêu trên
đều đánh giá được khả năng sinh lời của dự án dựa vào dòng tiền của chúng và đều
đề cập đến giá trị thời gian của tiền. Vấn đề quan trọng là đối với mỗi một dự án cụ
thể cần phải xác định được chỉ tiêu nào quan trọng cần phải có.Ngoài ra, tuỳ theo
đặc điểm và yêu cầu cụ thể của từng dự án, các chỉ tiêu khác như khả năng tái tạo
ngoại tệ, khả năng đáp ứng công ăn việc làm, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân
lực…Một vấn đề không kém phần quan trọng là so sánh các chỉ tiêu tính toán được
với mức trung bình của ngành, của lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động. Tất
nhiên, tất cả những chỉ tiêu trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi việc thẩm định dự án xác
định chính xác tỷ lệ chiết khấu.
Phân tích độ nhạy của dự án: Phân tích độ nhạy là việc khảo sát ảnh hưởng của
sự thay đổi một nhân tố hay nhiều nhân tố đồng thời đến hiệu quả tài chính và khả
năng trả nợ của dự án. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng với mức độ trọng yếu khác nhau
đến dự án, tuy nhiên phân tích độ nhạy là tìm ra một số nhân tố trọng yếu nhất là
đánh giá độ rủi ro của dự án dựa vào các nhân tố này. Dự án nhạy cảm với những
biến động của các yếu tố nào, trên thực tế các yếu tố đó có khả năng biến động đến
mức độ nào, từ đó đưa ra đánh giá về dự án có hiệu quả và đảm bảo khả năng trả nợ

hay không khi có biến động trên thị trường.
(3) Quyết định tín dụng: Ra quyết định tín dụng như thế nào - chấp thuận hay
không chấp thuận là công việc cực kỳ quan trọng. Nó không những ảnh hưởng đến
tiến trình hoạt động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Trong thực tế ngân hàng rất sợ gặp hai loại sai lầm. Thứ nhất, là quyết định chấp
thuận mà sau đó khách hàng lại không có khả năng trả nợ. Thứ hai, là quyết định
không chấp thuận khách hàng có khả năng hoàn trả vốn tín dụng đúng hạn. Vì lẽ đó,
trong giai đoạn này vai trò của người ra quyết định tín dụng được đề cao.
Cơ sở để ra quyết định tín dụng: Ngoài thông tin được chuyển giao từ giai
đoạn trước chuyển sang, người ra quyết định còn phải dựa vào những cơ sở sau:
+ Thông tin cập nhật từ thị trường, các cơ quan có liên quan
+ Chính sách tín dụng của ngân hàng, những quy định hoạt động tín dụng của
nhà nước.
+ Nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định
+ Kết quả thẩm định bảo đảm tín dụng
Quyền phán quyết tín dụng: Thường người ra quyết định tín dụng là những
nhân viên có trình độ, có kinh nghiệm và có uy tín tại ngân hàng. Việc phân công,
phân nhiệm phụ thuộc vào chính sách và phương pháp quản trị của mỗi ngân hàng.
Có thể tập trung quyền ra quyết định tín dụng cho một người như Giám đốc hoặc
một nhóm như hội đồng quản trị…. Cách này có ưu điểm dễ điều hành vốn, dễ điều
chỉnh cơ cấu tín dụng theo mục tiêu định sẵn. Tuy nhiên sẽ gặp khó khăn nếu ngân
hàng có một số lượng lớn khách hàng xin cấp tín dụng cùng một lúc. Bên cạnh đó
có thể đến những tiêu cực do việc ra quyết định tập trung vào một người hay một
nhóm người. Hơn nữa, áp dụng cách này có thể tạo tâm lý ỉ lại cấp trên của nhân
viên cấp dưới khi tham gia thẩm định, đặc biệt không phân định rõ ràng trách nhiệm
của các cá nhân tham gia vào quá trình hình thành quyết định tín dụng. Cách này chỉ
thích hợp với các ngân hàng nhỏ, khách hàng không quá nhiều và đội ngũ nhân sự
trình độ thấp, thiếu kinh nghiệm.
Cách thứ hai, thường gặp trong hoạt động tín dụng ngày nay là cách phân
quyền bằng quy định các mức phán quyết tín dụng cho từng loại nhân viên. Mức

phán quyết là mức tín dụng tối đa mà mỗi nhân viên tín dụng được quyền quyết
định cho vay. Mức phán quyết phụ thuộc vào:
+ Kinh nghiệm của nhân viên
+ Thời hạn cấp tín dụng
+ Loại cho vay: Chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, có đảm bảo/không có đảm bảo.
+ Đồng tiền cấp (nội tệ hay ngoại tệ)
Đối với cách phân quyền này nhà quản trị phải xác định rõ trình độ và kinh
nghiệm của nhân viên tham gia vào giai đoạn này. Từ đó quy định số tiền tối đa mà
họ có quyền ra quyết định tín dụng. Mức phán quyết tăng lên theo trình độ và kinh
nghiệm của nhân viên. Phân quyền phán quyết sẽ phát huy tính độc lập và tự chịu
trách nhiệm của các nhân viên giảm sức ép lên nhà quản trị, giảm thời gian lưu trữ
hồ sơ, tạo cơ sở kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng. Những khoản tín dụng
lớn thường được một hội đồng tín dụng xem xét và quyết định. Hội đồng tín dụng
gồm những người có năng lực và kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh
đó, việc phân quyền phải quy định những trường hợp vượt mức phán quyết, hoặc
kết quả quyết định tín dụng trái ngược với nhận xét của khâu thẩm định. Trong
những trường hợp như vậy, có thể quy định cấp trên xem xét lại. Phương pháp này
tuy nhanh nhưng có thể không đảm bảo tính chính xác và khách quan. Vì vậy, nhiều
ngân hàng đã quy dịnh trong trường hợp vượt mức hoặc có mâu thuẫn trong kết quả
ra quyết định tín dụng thì phải đưa ra Hội đồng tín dụng phán xét.
(4) Giải ngân: Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức
tín dụng đã cam kết theo hợp đồng.
Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của tín dụng gắn liền vận động
của hàng hoá. Hay nói một cách khác, việc phát tiền vay phải có hàng hoá đối ứng,
phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng.
Đối với cho vay trung và dài hạn phương pháp giải ngân chính như sau:
+ Trong cho vay để mua máy móc thiết bị hay các tài sản khác phương pháp
giải ngân của ngân hàng là trả thẳng cho đơn vị bán dựa trên cơ sở các chứng từ
cung cấp hàng hoá. Đây là phương pháp giải ngân cơ bản của ngân hàng. Phương
pháp này sẽ gặp rủi ro khi chứng từ mua hàng khống. Để hạn chế ngân hàng phải

kiểm tra chứng từ và các thông tin khác liên quan.
+ Khi cho vay để thực hiện các dự án đầu tư việc giải ngân căn cứ vào khối
lượng xây lắp đã hoàn thành. Việc phát tiền vay dựa trên cơ sở biên bản nghiệm thu
hoàn thành công trình, hoặc hạng mục công trình. Nếu đó là một công ty bên ngoài
nhận thầu thì việc giải ngân được trả thẳng cho đơn vị thi công.
(5) Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Nội dung của giai đoạn này chủ yếu gồm:
+ Giám sát tín dụng: Mục tiêu của giám sát là kiểm tra việc thực hiện các điều
khoản đã cam kết theo hợp đồng tín dụng bao gồm
 Khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không
 Kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sừ dụng vốn tín dụng.
 Theo dõi thực hiện các điều khoản cụ thể đã thoả thuận trong hợp đồng, kịp
thời phát hiện những vi phạm để có những ứng xử thích hợp.
 Theo dõi và ghi nhận việc thực hiện quy trình tín dụng của các bộ phận/ cá
nhân có liên quan tại ngân hàng.
Phương pháp giám sát rất đa dạng. Thông thường ngân hàng áp dụng một số
biện pháp sau:
 Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
 Phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ.
 Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh/ nơi cư trú của
khách hàng đi vay.
 Kiểm tra các bảo đảm tiền vay.
 Giám sát hoạt động khách hàng thông qua các mối quan hệ với các khách
hàng khác.
 Giám sát qua những thông tin khác như thông tin từ trung tâm phòng ngừa
rỏi ro, từ các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan thuế, toà án
+ Thu nợ: Khách hàng có trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đúng
hạn và đầy đủ như trong cam kết theo hợp đồng. Tùy theo tính chất mà có nhiều
phương pháp thu nợ khác nhau như thu nợ gốc và lãi một lần vào ngày đáo hạn, thu
nợ gốc môt lần khi đáo hạn và thu lãi định kỳ, thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn.

Thường ngân hàng sẽ theo dõi lịch trả nợ theo các nội dung đã thoả thuận
trong hợp đồng. Trước ngày đáo hạn trả nợ (thường 3 – 5 ngày) ngân hàng thường
thông báo cho khách hàng biết số tiền phải thanh toán và ngày thanh toán. Việc
thông báo có thể thực hiện theo các hình thức như thông báo bằng thư qua bưu điện,
thông báo trực tiếp, thông báo bằng điện thoại, thông báo qua mạng máy tính….
Đối với những khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ khi đáo hạn cả nợ gốc và
lãi thì coi như nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng đã thực hiện xong, và ngân
hàng sẽ làm thủ tục giải chấp tài sản thế chấp hoặc giải toả tài sản cầm cố,lập biên
bản (biên nhận) giao tài sản/giấy tờ, đồng thời tất toán khoản vay, chuyển hồ sơ tín
dụng vào lưu trữ.
Đối với khoản tín dụng thu theo nhiều kỳ hạn, thu lão và gốc có lúc tách rời,
nhân viên ngân hàng phải có trách nhiệm theo dõi lịch/kế hoạch trả nợ, thường
xuyên có thông tin qua lại giữa nhân viên kế toán với nhân viện tín dụng. Các kỳ
hạn nợ về nguyên tắc phải được tôn trọng. Tuy nhiên do những nguyên nhân khác
nhau khách hàng có thể không thực hiện đúng lịch( dù chưa đến kỳ đáo hạn) thì
ngân hàng phải có những thông báo, biện pháp kịp thời.
+ Tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng: Tái xét phân hạng tín dụng thực chất là
tiến hành phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã được cấp. Mục tiêu của
xem xét lại tín dụng là đánh giá chất lượng tín dụng, nhằm phát hiện các rủi ro để có
hướng xử lý kịp thời. Tái xét tín dụng không chỉ nhằm mục đích là đánh giá đúng về
khách hàng mà còn cả những nhận định đúng về hiện trạng của hoạt động cấp tín dụng
tại ngân hàng. Thông thường sau khi xem xét lại, ngân hàng sẽ xếp loại những khoản
tín dụng được xem xét lại và xếp loại theo những tiêu chí quản trị khác nhau.
+ Tổ chức xem xét lại tín dụng và phân hạng: Tổ chức xem xét lại và phân loại
tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quản trị, trình độ nghiệp vụ, quy mô kinh
doanh của một ngân hàng. Việc xem xét lại tín dụng trong phạm vi một ngân hàng
được coi là công tác thanh tra, kiểm toán nội bộ, đảm bảo hoạt động tín dụng được
an toàn, đúng hướng và có hiệu quả.
Các giấy tờ được hình thành trong giai đoạn này sẽ được bổ sung vào hồ sơ
tín dụng.

+ Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề: Vấn đề này sẽ không phải đặt ra nếu khoản
tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Không thu được vốn đúng hạn hoặc đầy
đủ như cam kết ban đầu là điều không ai mong muốn. Tuy nhiên, vấn đề này có
những nguyên nhân vượt quá phạm vi tác động của ngân hàng và tiềm ẩn những yếu
tố bất an cho ngân hàng. Vì vậy để đảm bảo hoạt động bình thường với mức độ rủi
ro cho phép, ngân hàng sẽ quy định chặt chẽ quy trình xử lý nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được
phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Ngân hàng sẽ chuyển nợ quá hạn
và áp dụng những biện pháp khắt khe để nhanh chóng thu hồi nợ đầy đủ. Trước khi
áp dụng các biện pháp xử phạt ngân hàng sẽ lập công văn thông báo cho khách
hàng. Đối với những khoản nợ có vấn đề ngân hàng cần quy định một quy trình xử
lý cụ thể, riêng biệt nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
1.2.3. Chính sách tín dụng trung và dài hạn
1.2.3.1. Chính sách lãi suất
Lãi suất cho vay phụ thuộc vào bốn yếu tố sau:
• Mức lãi suất chung trên thị trường
• Số tiền vay: Đối với các khoản cho vay trung và dài hạn có quy mô lớn,lãi
suất cho vay thường thấp hơn đối với các khoản cho vay cùng kỳ hạn nhưng có quy
mô nhỏ hơn. Lý do là các chi phí dàn xếp thẩm định và quản lý các khoản cho vay
có quy mô lớn rẻ hơn một cách tương đối so với các khoản vay nhỏ. Ngoài ra, do
các khoản cho vay có quy mô lớn thường được cấp ra cho những khách hàng lớn,
thường có ít rủi ro tín dụng.
• Thời hạn vay: Về nguyên tắc, đối với cùng một loại người vay như nhau, lãi
suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn vì tính thanh khoản
thấp, chi phí nguồn vốn cho vay cao và chứa đựng nhiều khả năng xuất hiện rủi ro
hơn so với các khoản cho vay ngắn hạn. Tương tự như vậy, các khoản cho vay trung
và dài hạn có thời hạn càng dài thì lãi suất cũng có xu hướng càng cao.
• Loại khách hàng: Khách hàng có mức độ rủi ro cao sữ phải chịu mức lãi suất
cao hơn khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn.
Lãi suất cho vay trung và dài hạn có thể được áp dụng là lãi suất cố định, có

nghĩa là chỉ áp dụng một mức lãi suất cho cả thời hạn vay hoặc lãi suất thả nổi,có
nghĩa lf lãi suất được áp dụng sẽ được điều chỉnh theo từng kỳ hạn nhất định trong
suốt thời hạn vay. Khi áp dụng lãi suất cho vay thả nổi thường trong hợp đồng cho
vay có kèm thêm điều khoản lãi suất sàn và lãi suất trần để hạn chế bớt tính biến
động của lãi suất, giảm rủi ro cho cả người cho vay lẫn người đi vay.
1.2.3.2. Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
• Thời hạn cho vay: Đối với các khoản cho vay trung và dài hạn,trừ trường hợp
loại tín dụng tuần hoàn, có hai trường hợp về thời hạn cho vay như sau:
+ Trường hợp khoản vay phát huy ngay hiệu quả sau khi số tiền vay được phát
ra, thời hạn cho vay chính là thời hạn thu hồi nợ.
+ Trường hợp khoản vay, sau khi số tiền vay được phát ra, phải trải qua một
thời gian mới phát huy hiệu quả, có khả năng trả nợ thì thời hạn cho vay ngoài thời
hạn thu hồi nợ ( bắt đầu lúc dự án phát huy hiệu quả ) còn phải tính cả khoản thời
gian này, thường được gọi là thời hạn ân hạn.
Công thức thường được dùng để ước lượng thời hạn thu hồi nợ là:
Số tiền vay ban đầu
Thời hạn thu hồi nợ = (1.1)
Số tiền thanh toán vốn gốc hàng năm
• Kỳ hạn nợ: Các phương án lựa chọn đối với kỳ hạn trả nợ bao gồm:
+ Các kỳ hạn trả nợ đều nhau theo tháng, quý hoặc năm
+ Các kỳ hạn trả nợ có tính thời vụ
+ Kỳ hạn trả nợ chỉ có một lần vào lúc kết thúc thời hạn vay
Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ có quan hệ mật thiết với nhau. Tuỳ theo loại
khách hàng khác nhau, thời hạn cho vay khác nhau mà ngân hàng xác định kỳ hạn trả
nợ khác nhau. Ngược lại, tuỳ theo khách hàng khác nhau, với khả năng thanh toán ở cá
kỳ hạn khác nhau mà ngân hàng chấp nhận cho vay với thời hạn khác nhau. Để thực
hiện được các vấn đề có tính nguyên lý vừa nêu, ngân hàng thường tính toán thời lượng
của các phương án cho vay khác nhau để so sánh và lựa chọn phương án cho vay thích
hợp nhất. Nếu khách hàng vay có mức độ rủi ro thấp ngân hàng có thể chấp nhận cho
vay với thời lượng dài. Ngược lại, khách hàng có mức độ rủi ro cao thì ngân hàng chỉ

chấp nhận cho vay với thời lượng ngắn. Ứng với mỗi khách hàng có độ rủi ro nhất
định, tương ứng với một thời hạn cho vay nhất định, muốn thay đổi thời lượng, ngân
hàng có thể thay đổi kỳ hạn trả nợ. Ngược lại, có kỳ hạn trả nợ ( theo tháng, theo
qúy…) ngân hàng có thể thay đổi thời lượng bằng cách thay đổi thời hạn cho vay.
1.2.3.3. Tài sản đảm bảo
Đối với các nước, tài sản bảo đảm thường dùng cho các khoản tín dụng tuần
hoàn là các khoản phải thu hoặc hàng tồn kho của người đi vay. Trong hai loại vừa
nêu, các khoản phải thu thường được ngân hàng ưa thích hơn.
Đối với khoản cho vay tài trợ cho tài sản cố định thì tài sản bảo đảm có thể là
bản thân tài sản hình thành từ tiền vay hoặc cũng có thể là tài sản khác thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của người đi vay như động sản, bất động sản…
Dù cho tài sản đảm bảo cho các khoản vay có là gì đi nữa thì tài sản bảo đảm
chỉ là nguồn thu nợ thứ cấp mà thôi, nó không phải là cứu cánh trong cho vay của
ngân hàng.
1.2.3.4. Nguồn trả nợ cho các khoản vay trung và dài hạn
Nguồn trả nợ đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, trừ loại tín dụng tuần
hoàn (hạn mức) ra, hoàn toàn khác với nguồn trả nợ của các khoản cho vay ngắn
hạn. Mục đích sử dụng của các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp là để tài trợ
cho nhu cầu tài sản lưu động thời vụ, chủ yếu là các loại hàng tồn kho và các khoản
phải thu. Sau khi các khoản này được giải phòng thành tiền thì khoản vay cũng được
hoàn trả. Ngược lại, các khoản vay trung và dài hạn được dùng chủ yếu cho nhu cầu
tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên. Cho nên, nguồn trả nợ chính đối
với các khoản vay này thường là phần tăng thêm trong vốn chủ sở hữu cảu doanh
nghiệp được tạo ra từ lợi nhuận sau thuế.
Ngoài ra, còn một nguồn trả nợ cho các khoản vay trung và dài hạn khác, cũng
rất quan trọng đó là nguồn khấu hao. Nếu khoản vay trung và dài hạn được hoàn trả
không phải từ nguồn khấu hao, trong khi vốn sở hữu của doanh nghiệp không tăng,
thì thực chất khoản vay đã được chuyển hoá thành khoản nợ nào khác trên bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp mà thật sự khoản nợ của doanh nghiệp không giảm.
Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý, khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhiều khi

không phải là toàn bộ lợi nhuận và khấu hao có được. Điều này có thể thấy rõ khi
doanh nghiệp đang trong giai đoạn tăng trưởng, cho nên có một bộ phận lợi nhuận
và/hoặc khấu hao được đầu tư thêm vào cho tài sản cố định và tài sản lưu động. Vì
thế, vấn đề tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp cũng là một yếu tố cần
phân tích rõ khi đánh giá khả năng trả nợ của người vay.
1.2.3.5. Xử lý nợ quá hạn
Khoản tín dụng có rủi ro là khoản nợ mang đặc trưng:
+ Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
này đã đến hạn
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn tới có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi
+ Giá trị tài sản bảo đảm ( thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ) không đủ trang trải nợ
gốc và lãi
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên được
coi là nợ có vấn đề.
Hành động ngăn ngừa được tiến hành theo trật tự, kỹ lưỡng mới mong có kết
quả, đó là: Lập kế hoạch gặp gỡ khách hàng ( với các nội dung: cách tổ chức, bàn
giao hồ sơ cho cán bộ quản lý rủi ro cao, chuẩn bị gặp gỡ khách hàng ); gặp gỡ
khách hàng; lập phương án ngăn ngừa ( trong phương án quan trọng nhất là những
giải pháp cụ thể ) và cuối cùng là quá trình kiểm tra phương án khắc phục.
Khi quá trình ngăn ngừa tỏ ra không thành công hoặc gặp nợ vay có vấn đề mà
ý chí hợp tác cùng ngăn ngừa từ phía khách hàng kém hay lừa đảo, ngân hàng phải
thực hiện các biện pháp xử lý thông qua bộ phận truy hồi tài sản với một phương án
xử lý cụ thể được lập cho các giải pháp cụ thể trong 2 nhóm biện pháp: Khai thác và
thanh lý.
1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
1.3.1. Khái niệm
Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của
khách hàng (người vay tiền ) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn trong việc thu
hồi vốn thông qua hiệu quả của dự án và hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, tăng

lợi nhuận của Ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội
Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng là
khoản tín dụng được đảm bảo an toàn hiệu quả, sử dụng vốn đúng mục đích, phù
hợp với chính sách tín dụng của Ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng hạn, đem lại
lợi nhuận cho Ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của
Ngân hàng trên thị trường.

×