Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng hồ kẻ gỗ tỉnh hà tĩnh và đề xuất biện pháp khai thác hiệu quả, giảm thiểu rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.06 MB, 101 trang )


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD :
BTNMT :
COD :
DO :
ĐTM :
QCVN :
TCCP :
TNHH :
TSS :
TNHH :
UBND :
VWRAP:

Nhu cầu oxy sinh hóa
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nhu cầu oxy hóa học
Oxy hòa tan
Đánh giá tác động môi trường
Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia
Tiêu chuẩn cho phép
Trách nhiệm hữu hạn
Tổng rắn lơ lửng
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Dự án hỗ trợ Thủy lợi Việt Nam








DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1: Bản đồ vị trí hồ Kẻ Gỗ 22

Hình 2: Bản đồ hành chính và phân bố khu vực dân cư hạ du hồ Kẻ Gỗ 23

Hình 3: Biểu đồ nhiệt độ trung bình qua các năm từ 2007 – 2013 30

Hình 4: Biểu đồ độ ẩm không khí trung bình trong các năm từ 2007 – 2013 31

Hình 5: Biểu đồ số giờ nắng trong các năm từ 2007 – 2013 31

Hình 6: Biểu đồ lượng mưa trung bình các tháng trong năm từ 2007 – 2013 31

Hình 7: Bản đồ mạng lưới sông suối hạ lưu vùng Kẻ Gỗ 33

Hình 8: Bản đồ các vị trí lấy mẫu nước mặt hồ Kẻ Gỗ 37

Hình 9: Tràn xả lũ hồ Kẻ Gỗ, 2 cửa van cung 40

Hình 10: Tràn sự cố hồ Kẻ Gỗ 41

Hình 11: Toàn cảnh khu vực cống lấy nước 41

Hình 12: Kết quả quan trắc độ pH của hồ Kẻ Gỗ 44

Hình 13: Kết quả quan trắc DO của hồ Kẻ Gỗ 45


Hình 14: Kết quả quan trắc TSS của hồ Kẻ Gỗ 45

Hình 15: Kết quả quan trắc BOD của hồ Kẻ Gỗ 45

Hình 16: Kết quả quan trắc COD của hồ Kẻ Gỗ 46

Hình 17: Kết quả quan trắc hàm lượng amoni của hồ Kẻ Gỗ 46

Hình 18: Nhu cầu dùng nước tưới hàng năm 50

Hình 19: Sơ đồ xử lý thông tin tổng thể tình huống khẩn cấp hồ Kẻ Gỗ 52

Hình 20: Bản đồ ngập lụt hạ du hồ Kẻ Gỗ trường hợp ngập lớn nhất 60

Hình 21: Vùng phá hoại ứng với trường hợp vỡ đập hồ Kẻ Gỗ 67

Hình 22: Bản đồ ngập lụt ứng với kịch bản đập chính bị vỡ 68




DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tổng giá trị sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế 26

Bảng 2: Thông số thiết kế đập Kẻ Gỗ 39

Bảng 3: Các thông số chung của hồ Kẻ Gỗ 42

Bảng 4: Kết quả quan trắc chất lượng nước hồ Kẻ Gỗ năm 2013 43


Bảng 5: Kết quả phân tích một số thông số chất lượng nước hồ Kẻ Gỗ 47

Bảng 6: Diện tích tưới tiêu khu vực hạ du hồ Kẻ Gỗ 48

Bảng 7: Nhu cầu nước tưới cho lúa và một số cây trồng cạn 49

Bảng 8: Tổng hợp nhu cầu dùng nước toàn hệ thống 50

Bảng 9: Tổng hợp quá trình xả tràn của các năm từ khi hồ bắt đầu hoạt động 55

Bảng 10: Diện tích ngập theo chiều sâu ứng với trường hợp ngập lớn nhất 59

Bảng 11: Diện tích ngập lụt ước tính trong trường hợp vỡ đập 69










MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1


CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN 3

1.1.

TỔNG QUAN VỀ HỒ CHỨA VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TRÊN
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 3

1.2.

TỔNG QUAN VỀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ,
PHÒNG NGỪA RỦI RO HỒ CHỨA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 10

1.2.1.

Tổng quan về các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, phòng ngừa rủi ro
hồ chứa trên thế giới 10

1.2.2.

Tổng quan về các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, phòng ngừa rủi ro
hồ chứa ở Việt Nam 14

CHƯƠNG 2 – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 22

2.1.1. Tổng quan điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội khu vực hồ chứa 24

2.1.2. Khái quát chung Hồ Kẻ Gỗ 29


2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34

2.2.1. Phương pháp kế thừa, tổng hợp tài liệu 34

2.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế 34

2.2.3. Phương pháp thực nghiệm, phân tích mẫu 35

2.2.4. Phương pháp đánh giá, xử lý số liệu 36

2.2.5. Phương pháp phân tích, so sánh 38


CHƯƠNG 3 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 39

3.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KHẢO SÁT MÔI TRƯỜNG CHUNG HỒ KẺ GỖ 39

3.1.1. Kết quả điều tra về hiện trạng hệ thống tưới Kẻ Gỗ 39

3.1.2. Kết quả đánh giá chất lượng nước hồ Kẻ Gỗ 43

3.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG, SỬ DỤNG HỒ KẺ
GỖ 48

3.2.1. Hiện trạng sử dụng nguồn nước hồ Kẻ Gỗ 48

3.2.2. Trạm thủy điện Kẻ Gỗ 50

3.3. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỒ KẺ GỖ
51


3.3.1. Công tác bảo trì, bảo dưỡng 51

3.3.2. Công tác vận hành xả lũ 52

3.4. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC NGUY CƠ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG
CỦA HỒ KẺ GỖ 58

3.5. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÙ HỢP CHO SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VÀ
AN TOÀN HỒ KẺ GỖ 65

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71

TÀI LIỆU THAM KHẢO 74

PHẦN PHỤ LỤC 78


1

MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa trung
bình tương đối cao nhưng phân bố không đồng đều. Tính đến nay nước ta đã xây
dựng được trên 6500 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trữ nước khoảng 11 tỷ m
3

trong đó có 560 hồ chứa có dung tích trữ nước lớn hơn 3 triệu m
3
hoặc đập cao trên
15m, 1752 hồ có dung tích từ 0,2 triệu đến 3 triệu m

3
nước, còn lại là những hồ đập
nhỏ có dung tích dưới 0,2 triệu m
3
nước. Ngoài mục đích chủ yếu trữ nước và điều
hòa cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái, hồ chứa còn được sử dụng để cấp nước
cho nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, có vai trò quan trọng trong hệ thống thủy
lợi và thủy điện, điều tiết lũ giảm nhẹ thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống hồ
chứa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân tuy nhiên việc quản lý và
khai thác sử dụng vẫn còn nhiều bất cập.
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc Duyên Hải Bắc Trung Bộ – Việt Nam, nằm phía Đông
dãy Trường Sơn, có địa hình hẹp dốc dần từ Tây sang Đông. Diện tích toàn tỉnh là
599.782ha với địa hình đa dạng, bao gồm vùng đồi núi, trung du, đồng bằng và biển
[22].
Hà Tĩnh có nguồn nước phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Hà Tĩnh nằm trong lưu vực sông Ngàn Sâu, thuộc loại nhiều nước nhất trong
hệ thống sông Cả. Tổng lượng nước nhiều năm tính tới cửa sông là 6,15 km
3
, ứng
với lưu lượng trung bình năm là 195m
3
/s. Mạng lưới sông ngòi ở Hà Tĩnh tuy nhiều
nhưng ngắn, dài nhất là sông Ngàn Sâu 131km, ngắn nhất là sông Cày 9km. Toàn
tỉnh có 357 hồ chứa với tổng dung tích trữ trên 767 triệu m
3
, 282 trạm bơm có tổng
lưu lượng 338.000 m
3
/s, 48 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9 m
3

/s. Với trữ lượng
này hiện tại Hà Tĩnh đã phục vụ tưới được 47.737 ha/vụ [22]. Tuy lượng nước sông
khá lớn nhưng việc sử dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt còn bị
hạn chế do bị khô cạn vùng thượng và nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt
vào mùa mưa. Trong những năm qua, tỉnh đã tích cực đẩy mạnh công tác kiên cố
hóa kênh mương, đến năm 2010 tổng số kênh mương được kiên cố hóa trên 50%,
diện tích chủ động tưới là 100.046 ha, tăng 13,68% so với năm 2005 [16].

2

Kẻ Gỗ là hồ chứa nhân tạo lớn nhất miền Trung, thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Công trình được khởi công xây dựng từ năm 1976 đến
năm 1978 bắt đầu tích nước. Năm 1983 công trình hoàn thành và chính thức đưa
vào khai thác. Hồ dài 29 km với dung tích tối đa là 425 triệu m
3
. Hồ có nhiệm vụ
tích nước tưới cho 21.136 ha đất canh tác của hai huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên,
kết hợp nuôi cá và phòng chống lũ cho hạ du [12]. Những năm gần đây do ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, nắng nóng liên tục gây hạn hán vào mùa khô và lượng
mưa tăng mạnh. Điển hình là trận lũ lớn cuối tháng tháng 10 năm 2010 đã khiến
nhiều khu vực ở Hà Tĩnh chìm sâu trong lũ, gây thiệt hại về người và vật chất hàng
nghìn tỷ đồng. Nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống đê đập, hằng năm cứ đến mùa
mưa Hồ Kẻ Gỗ bắt buộc phải xả lũ gây ngập úng trên diện rộng, thiệt hại không nhỏ
đến đời sống dân cư vùng hạ du.
Do đó, việc đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng hồ Kẻ Gỗ là rất cần thiết để
đưa ra biện pháp giảm thiểu thiệt hại khi sử dụng nhằm đảm bảo an sinh xã hội mà
vẫn giữ an toàn cho hồ chứa và hệ thống đê đập.
Tên đề tài: “Đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng hồ Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh
và đề xuất biện pháp khai thác hiệu quả, giảm thiểu rủi ro”.
 Mục tiêu đề tài

Đánh giá hiện trạng về chất lượng nước và công tác quản lý, sử dụng hồ Kẻ
Gỗ nhằm đưa ra các giải pháp đề xuất phù hợp đểtăng cường hiệu quả sử dụng và
phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro môi trường.
 Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá chất lượng môi trường nước và hoạt động khai thác, sử dụng nước hồ
Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh
- Đánh giá hiện trạng công tác quản lý hồ Kẻ Gỗ
- Đánh giá các vấn đề, tác động đến môi trường tự nhiên, xã hội và rủi ro liên
quan đến sử dụng nước hồ Kẻ Gỗ
- Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả, an toàn hồ Kẻ Gỗ

3

CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ HỒ CHỨA VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Nước phân bố không đồng đều theo thủy vực trong không gian. Tổng lượng
nước của thủy quyển vào khoảng 1,39 triệu km
3
, trong đó 97% tập trung ở biển và
đại dương, chiếm 71% bề mặt Trái đất, gần 2% thể tích nước nằm trong băng tuyết
hai cực và núi cao. Khoảng 1% còn lại phân bố như sau: trong sông ngòi 0,0001%,
hồ 0,0007%, nước ngầm 0,59%, ẩm đất 0,005%, khí quyển 0,001% và sinh quyển
0,0001%. Đặc biệt lượng nước trong sông ngòi toàn cầu chỉ có 1.700 km
3
. Lượng
mưa hàng năm trên lục địa vào khoảng 105.000 km
3
, mưa phân bố không đều theo
không gian và thời gian [3]. Dòng chảy sông ngòi là nguồn nước thuận lợi nhất cho

các đối tượng dùng nước khác nhau, do mạng lưới sông suối phát triển, tiếp cận
thuận tiện, nước tái tạo liên tục về lượng và về chất, chất lượng nước đa phần phù
hợp với các nhu cầu dùng nước khác nhau. Nhân tố hình thành dòng chảy là tổ hợp
tác động khí hậu, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, thực vật và nhân sinh. Dòng chảy
phân bố không đều theo không gian và thời gian. Chế độ nước trong đa phần các
sông suối phân hóa thành hai mùa rõ rệt là mùa lũ và mùa kiệt. Dòng chảy mùa lũ
lớn, hình thành chủ yếu bởi dòng cấp trên bề mặt sườn dốc, chảy nhanh và mạnh,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ tai biến, gọi là tài nguyên nước không ổn định, hay tài
nguyên nước tiềm năng. Con người chỉ khai thác được nó nếu có những giải pháp
giữ nó lại lâu hơn trong lưu vực, ví dụ như dùng hồ chứa nhân tạo, trồng rừng đầu
nguồn. Mức độ dùng nước của con người phụ thuộc vào nhu cầu, mức sống, văn
hóa, khả năng khai thác của công nghệ, tài chính và khả năng đáp ứng của tự nhiên.
Tổng mức tiêu thụ nước của nhân loại hiện đạt khoảng 35.000 km
3
/năm, trong đó
8% cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho nông nghiệp[3]. Nhu cầu dùng
nước của con người tăng theo thời gian do tăng dân số và tăng mức sống. Về mặt
sinh lý, mỗi người chỉ cần 1-2 lít nước mỗi ngày, nhưng để đáp ứng cho các nhu cầu
khác trung bình mỗi người cần 250 lít/ ngày cho sinh hoạt, 1.500 lít cho hoạt động

4

sản xuất công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Cùng với sự nâng cao
mặt bằng mức sống, những cảnh quan liên quan với nước như mặt hồ, thác nước,
sông ngòi tự nhiên cũng ngày càng nâng cao giá trị, làm tăng giá thành nước cấp
tiêu thụ.
Hồ là những phần trũng của địa hình có nước tĩnh thường xuyên. Trên thế
giới có khoảng 2,8 triệu hồ tự nhiên, trong đó có 145 hồ có diện tích mặt nước trên
100km
2

, chứa 95% tổng lượng nước các hồ. Riêng hồ Bai Can, hồ sâu nhất thế giới,
đã chứa 23.000 km
3
nước, bằng 1/4 tổng lượng nước các hồ và bằng 1/10 lượng
nước ngọt toàn cầu. Không phải tất cả các hồ trên thế giới đều chứa nước ngọt, Biển
hồ Caxpien là một hồ chứa nước mặn, hồ Chết là hồ chứa loại nước mặn nhất thế
giới [13]. Đặc trưng hình thái quan trọng nhất của hồ là diện tích mặt nước và dung
tích hồ, chúng biến đổi theo sự thay đổi độ cao mặt nước hồ. Đối với những hồ có
bờ đáy ổn định, quan hệ giữa diện tích mặt nước và dung tích hồ với độ sâu tương
đối ổn định và được biểu diễn dưới dạng văn bản hoặc đồ thị. Diện tích mặt hồ càng
lớn, khả năng trao đổi chất và năng lượng với khí quyển càng lớn, trong đó, đáng
lưu ý là những quá trình như bốc hơi, xâm nhập oxy từ khí quyển, đốt nóng, sóng…
Tỷ lệ dung tích trên độ sâu hồ càng lớn thì chế độ nước trong hồ càng ổn định, đồng
thời sự phân bố các đặc trưng thủy lý, thủy hóa, thủy sinh và chế độ động lực càng
kém đồng nhất. Dòng chảy trong hồ có vai trò làm tăng xáo trộn trong khối lượng
nước, do đó nó là một nhân tố tích cực cho quá trình tự làm sạch và đồng nhất các
đặc trưng thủy lý, thủy hóa theo không gian.
Các hồ chứa lớn trên thế giới đều được xây dựng theo phương thức đắp đập
ngăn sông. Những con đập đầu tiên đã được xây dựng từ khoảng 5.000 năm trước
trên sông Ti-gri và Ophrato ở Mezopotamia, trên sông Nin ở Hy Lạp và trên sông
Indu ở Pakistan. Tất cả các đập xa xưa được xây dựng chủ yếu để phục vụ cấp nước
tưới cho nông nghiệp và kiểm soát lũ. Mục tiêu xây đập thủy điện đã được thực
hiện từ năm 1890. Những năm giữa của thế kỷ 20 có 5.000 đập lớn đã được xây
dựng. Tốc độ xây dựng đập tăng nhanh và đến cuối thế kỷ trước đã có khoảng
45.000 đập lớn đang hoạt động. Tổng chi phí của việc xây dựng đập trong thế kỷ 20

5

ước tính khoảng 2000 tỷ USD. Trung Quốc là nước có nhiều đập lớn nhất, với
khoảng hơn 20.000 đập, Mỹ có khoảng 6.400, Ấn Độ 4.000, Nhật và Tây Ban Nha

có hơn 1.000 đập. Năm 1992, Trung Quốc đã tiến hành công trình trên sông Dương
Tử trị giá 30 tỷ USD với đập nước cao 185m có chức năng cấp nước, điều tiết lũ,
cung cấp điện (12% nhu cầu toàn quốc). Công trình làm 1,3 triệu người phải di dời
và ngập 41.000 ha đất nông nghiệp[13]. Trên thế giới đã xây dựng hơn 10.000 hồ
chứa, phục vụ nhiều mục đích kinh tế xã hội như: sản xuất điện tiêu thụ, trữ và cấp
nước tưới cho các vùng đất nông nghiệp, điều tiết chế độ dòng chảy, cắt lũ và tăng
cường dòng chảy kiệt, cải thiện hệ sinh thái, Các lợi ích trên đã góp phần quan
trọng cho sự phát triển ở nhiều nước, tuy nhiên, cũng có những đập không đáp ứng
được sự mong đợi về mặt tài chính, kỹ thuật và kinh tế như dự kiến, đặc biệt là khi
so sánh với các giải pháp thay thế khác có thể thực hiện được. Đồng thời những tác
động bất lợi của việc xây dựng đập về mặt môi trường, sinh thái và xã hội vượt xa
dự kiến ban đầu, dẫn đến gia tăng mức phản đối của cộng đồng đối với việc xây
đập. Do đó xu thế phát triển nhanh các hồ đập đã chững lại tại các quốc gia phát
triển. Thậm chí một số đập đã xây dựng cũng bị hủy bỏ, ví dụ như Mỹ đã loại bỏ
hơn 500 đập nhỏ trong những năm gần đây. Hơn một nửa số đập thủy điện trên toàn
thế giới đã được quy hoạch và xây dựng bỏ qua việc đánh giá tác động môi trường
một cách đầy đủ [13]. Do đó, nhiều vấn đề môi trường đã xảy ra trong vùng thượng
và hạ lưu đập, cả trên khu vực và trong thủy vực, tác động xấu đến hệ sinh thái,
điều kiện tự nhiên và con người.
Các hồ chứa đã làm giảm tốc độ đổi mới nước sông toàn cầu 3-4 lần, 80% hồ
chứa có hiện tượng phì dưỡng trong những năm đầu. Cá trong hồ chứa sẽ khác so
với cá trong sông tự nhiên, nói chung lượng cá lúc đầu tăng rất nhanh, nhưng sau đó
lại giảm, do năng suất tổng thể thấp hơn trong tự nhiên, đập chắn ngang sông ngăn
cản sự di cư của thủy sinh. Giải pháp sử dụng các bậc thang cho cá vượt ngàn được
sử dụng hiện quả đối với cá hồi, nhưng không có hiệu quả đối với các loài cá nhiệt
đới.Biển hồ Aran, lớn thứ 4 trên thế giới, đang bị mặn hóa và thu hẹp, hệ sinh thái
nước và hệ sinh thái trên cạn vùng quanh hồ bị khủng hoảng nghiêm trọng. Nguyên

6


nhân là do các hoạt động nông nghiệp trên lưu vực đã khai thác quá mức lượng
nước của các con sông đổ vào hồ, làm cho lượng dòng chảy vào hồ hàng năm nhỏ
hơn rất nhiều so với bốc hơi từ mặt hồ.
Hệ quả của việc sử dụng các giải pháp công trình phân phối lại nước theo
không gian và thời gian, như dùng hồ chứa nhân tạo, đào lấp, thay đổi mạng lưới và
mật độ sông ngòi, chuyển dòng chảy, thay đổi cán cân nước khu vực, thay đổi chế
độ nước, thay đổi các quá trình tự nhiên trong thủy vực, như chuyển vận phù sa, lưu
thông sinh vật, xói bồi bờ sông và cửa sông ven biển,… Trong nhiều trường hợp,
những thay đổi này kéo theo sự suy thoái, ô nhiễm hệ sinh thái, cạn kiệt tài nguyên.
Hệ quả môi trường của việc xây dựng hồ chứa dạng đập trên các sông lớn là rất
nghiêm trọng, phức tạp và diễn biến lâu dài. Cư dân vùng lòng hồ phải di dời đến
nơi ở mới, khai phá những vùng đất mới, khai phá những vùng đất mới, nhiều giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần bị đe dọa mai một, điều kiện phát triển gặp khó
khăn. Hệ sinh thái vùng lòng hồ bị hủy diệt hoàn toàn, các hệ lân cận chịu những
thay đổi khó lường hết được, nhiều đoạn sông ở hạ lưu xói lở bất thường, sản lượng
cá vùng cửa sông ven biển giảm, tốc độ vùng bờ tiến ra biển giảm một nửa, chất
lượng hệ sinh thái rừng ngập mặn suy giảm, số lượng chim di cư giảm,…
Diện tích ngập càng lớn, số dân phải di dời càng lớn. Tuy nhiên, di dân
không đơn thuần là sự di chuyển của những con người mà là sự di dời và làm biến
dạng những bản sắc văn hóa địa phương vốn gắn liền với vùng đất sinh thành ra nó,
vì diện tích bị ngập thường là đất đai ven sông, nơi có điều kiện hình thành và duy
trì các điểm dân cư với các nền văn hóa truyền thống đặc thù. Định cư dân vùng
lòng hồ cũng là một vấn đề lớn, đi kèm với nó là việc thiết lập mới toàn bộ hạ tầng
cơ sở cho điểm dân cư, tạo điều kiện cho bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống. Trong nhiều trường hợp xây đập, quá trình tái định cư của những
người vốn sống trong và trên vùng đất bị ngập thường được xác định bởi chính phủ,
không qua quá trình tư vấn và có sự tham gia của người bị thiệt hại. Tầm quan
trọng, phạm vi của việc di dời, tác động kinh tế xã hội không được đánh giá thích

7


đáng trước. Hệ quả thường thấy là nảy sinh mâu thuẫn giữa người bị di dời với
chính quyền và nhà đầu tư, giữa người bị di dời với dân cư gốc vùng tái định cư.
Tính đến nay nước ta đã xây dựng được trên 6500 hồ chứa thủy lợi với tổng
dung tích trữ nước khoảng 11 tỷ m
3
trong đó có 560 hồ chứa có dung tích trữ nước
lớn hơn 3 triệu m
3
hoặc đập cao trên 15m, 1752 hồ có dung tích từ 0,2 triệu đến 3
triệu m
3
nước, còn lại là những hồ đập nhỏ có dung tích dưới 0,2 triệu m
3
nước.
Nhận định chung là hơn một nửa trong tổng số hồ đã được xây dựng và đưa vào sử
dụng trên 25 – 30 năm, nhiều hồ đã bị xuống cấp. Những hồ có dung tích từ 1 triệu
m
3
nước trở lên phần lớn do Bộ Thủy lợi (trước đây) và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn (hiện nay) quản lý vốn, kỹ thuật thiết kế và thi công. Các hồ có
dung tích từ 1 – 10 triệu m
3
nước phần lớn là do UBND tỉnh quản lý vốn, kỹ thuật
thiết kế thi công. Các hồ nhỏ phần lớn do huyện, xã, hợp tác xã, nông trường tự bỏ
vốn xây dựng và quản lý kỹ thuật. Những hồ tương đối lớn được đầu tư tiền vốn và
kỹ thuật tương đối đầy đủ thì chất lượng xây dựng đập đạt được yêu cầu. Còn
những hồ nhỏ do thiếu thiết bị thi công, lực lượng kỹ thuật và nhất là kinh phí đầu
tư không đủ nên chất lượng đập chưa tốt, mức độ an toàn rất thấp.
Ngoài vai trò quan trọng nhất của hồ chứa là cấp nước cho các mục đích

khác nhau, một số hồ chứa còn có chức năng cắt và điều tiết lũ, bảo tồn hệ sinh thái
tự nhiên, điều hòa vi khí hậu, tạo cảnh quan môi trường sinh thái, du lịch. Các hồ
chứa sau khi được xây dựng và đưa vào sử dụng đã góp phần đáng kể vào phát triển
kinh kế-xã hội của địa phương, đảm bảo cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu cho nông
nghiệp. Tuy nhiên cũng xuất hiện nhiều vấn đề về môi trường như việc tận dụng
khai thác du lịch, dịch vụ trên các vùng hồ, chăn nuôi, chăn thả gia súc gia cầm
vùng xung quanh hồ,… Các hoạt động này đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng nước hồ và cảnh quan môi trường. Ngoài ra còn là các rủi ro, sự cố
đối với du khách khi tham gia đoàn tham quan, thắng cảnh hồ do thiếu công tác bảo
hộ, an toàn. Bên cạnh đó các nguy cơ thiệt hại do sự cố vỡ đập, xả lũ,… từ hồ chứa
cũng gây ngập úng và tác động nghiêm trọng đến các vùng dân cư xung quanh.
Việc sử dụng không hiệu quả và hợp lý nước hồ chứa ở một số nhà máy thủy điện

8

còn gây ra hiện tượng hạn hán thiếu nước vào mùa khô, ảnh hưởng không nhỏ đến
canh tác và năng suất.
Hiện trạng môi trường nước của một số hồ chứa ở Việt Nam: hầu hết môi
trường nước tại các hồ chứa ở Việt Nam có dấu hiệu bị ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, hiện
tượng kỵ khí, đặc biệt là hiện tượng phú dưỡng. Ô nhiễm vô cơ chủ yếu do chất thải
từ các nhà máy công nghiệp thải ra. Ví dụ như nước thải khai thác quặng đổ ra suối
và chảy vào hồ Ba Bể (Bắc Kạn) gây ô nhiễm cục bộ. Hiện nay chất lượng nước hồ
đang bị suy giảm do nước thải sinh hoạt chứa chất hữu cơ đổ xuống sông và theo
dòng chảy đổ vào hồ, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước, ví dụ như hồ Thác Bà (Yên
Bái), hồ Trị An (Đồng Nai), Nguyên nhân là do quá trình bồi lắng, hoạt động nuôi
thủy sản ồ ạt, chất thải nhà máy sản xuất không được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi
xả ra làm ô nhiễm nước hồ.
Hiện tượng kỵ khí thường xảy ra ở các hồ chứa có độ sâu lớn hơn 10m do
chịu ảnh hưởng của phân tầng nhiệt và làm giảm hàm lượng oxy hồ. Cơ chế gồm 3
giai đoạn: giai đoạn đầu là sự thủy phân và lên men các chất hữu cơ phức tạp thành

các chất hữu cơ đơn giản, dễ bay hơi như etanol, các axit béo như axit axetic, axit
butyric, axit lactic, và các khí gas CO
2
, H
2
, NH
3
; độ pH giảm xuống dưới 5. Giai
đoạn 2 là sự lên men, phân hủy các axit béo hữu cơ và các hợp chất hữu cơ chứa
Nitơ, pH của môi trường tăng dần lên. Ở giai đoạn 3, các sản phẩm như axit béo và
các hợp chất chứa Nitơ tiếp tục bị phân hủy bởi các vi khuẩn tạo ra nhiều CO
2
, CH
4
.
Độ pH của môi trường tăng lên và chuyển sang môi trường kiềm. Như vậy, sự suy
giảm nồng độ oxi tới mức thiếu hụt cho các chu trình hiếu khí kéo theo hàm lượng
của các ion kim loại trong cột nước tăng, nếu dùng làm nguồn nước cấp cho khu
dân cư sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Hiện tượng phú dưỡng là một dạng biểu hiện của ao hồ bị ô nhiễm do dư
thừa các chất dinh dưỡng nitơ và phốt pho. Sự dư thừa các chất dinh dưỡng này sẽ
thúc đẩy sự phát triển của các loại tảo, rong rêu, dẫn đến hiện tượng “tảo nở hoa”
làm tăng các chất lơ lửng, chất hữu cơ, làm suy giảm lượng oxy trong nước. Các
loại sinh vật này sau khi chết sẽ phân hủy tạo ra một lượng lớn các hợp chất hữu cơ,

9

khi các thực vật bùn lắng xuống hồ, cộng với sự phát triển mạnh của các loài thực
vật ở ven bờ làm cho ao hồ ngày càng nông và mặt hồ dần bị thu hẹp, cuối cùng sẽ
biến thành đầm lầy. Một số hồ bị phú dưỡng nghiêm trọng như hồ Dầu Tiếng (Tây

Ninh), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ Xuân Hương (Đà Lạt),
Hiện trạng các hệ thống thủy lợi hiện nay đều có chung đặc điểm là đầu thừa
đuôi thiếu (đầu hệ thống ngày càng thừa và cuối hệ thống càng thiếu nước), nếu cứ
để tình trạng như hiện tại có thể gián tiếp làm tăng nguy cơ phát triển các bệnh dịch,
đặc biệt là các bệnh ngoài da, đau mắt. Để đánh giá thực chất mức độ an toàn của
đập, cần xem xét theo nhiều yếu tố như: kỹ thuật, tổ chức và trách nhiệm quản lý,
ảnh hưởng đối với hạ du để từ đó xác định cách ứng xử thích hợp với điều kiện đầu
tư nâng cấp sửa chữa và lực lượng quản lý vận hành.
Đối với các hồ thủy lợi lớn và vừa: về tần suất lũ, hiện tại chỉ mới có các hồ
lớn nằm trong Dự án hỗ trợ Thủy lợi Việt Nam (VWRAP) được tính toán theo tần
suất lũ 1/10.000. Các hồ còn lại vẫn lấy tần suất lũ thiết kế ban đầu. Những hồ còn
lại nếu nâng tần suất lên như tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế Giới (World Bank) đề
nghị thì khối lượng đầu tư để mở thêm tràn, nâng cao đập sẽ vô cùng lớn, khả năng
đầu tư của Nhà nước hiện nay là không khả thi. Trong các hồ này chỉ có những hồ
mà hạ lưu đập có số lượng dân cư lớn, cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng như đường
sắt, quốc lộ, khu kinh tế thì cần xem xét để đầu tư một cách thích hợp. Về cấu tạo
của đập, đa số đập thủy lợi làm bằng đất, dễ dẫn đến nguy cơ lũ tràn qua đập. Biện
pháp đơn giản và rẻ tiền nhất là đắp thêm con chạch từ 1 – 1,5 m trên đỉnh đập, làm
tràn cầu chì ứng với lũ kiểm tra thì chủ động cho đập cầu chì vỡ để hạ mực nước
hồ. Về tràn xả lũ, hầu hết đều được xây dụng bằng bê-tông cốt thép đảm bảo chất
lượng. Những tràn có cửa van điều tiết công tác vận hành bảo dưỡng được tiến hành
thường xuyên. Nhìn chung, đa số tràn xả lũ của các hồ đều làm việc an toàn, ít xảy
ra sự cố. Về tổ chức quản lý, việc thực hiện các quy định của văn bản pháp luật về
an toàn đập đã được thực hiện tương đối đầy đủ, đặc biệt là về mùa lũ. Nhân lực,
phương tiện, vật tư đề phòng các sự cố vỡ đập cũng đã được chuẩn bị với mức có
thể tối đa nên có thể tin cậy được.

10

Đối với các hồ thủy lợi nhỏ, do điều kiện thiết kế, xây dựng chưa tốt, vốn

đầu tư ít nên chất lượng của các đập loại nhỏ là không đảm bảo. Việc xây dựng qua
nhiều năm cộng với mưa lũ triền miên không có kinh phí duy tu bảo dưỡng. Công
trình tràn không được xây dựng bằng vật liệu kiên cố như bê tống cốt thép nên
nhiều công trình không đủ khả năng xả khi có lũ lớn, nguy cơ nước lũ tràn qua đập
của các hồ này là rất cao. Thực tế những sự cố vỡ đập trong những năm vừa qua ở
nước ta đều là những hồ chứa nhỏ. Tuy nhỏ nhưng nhiều hồ chứa khi xảy ra sự cố
vỡ đập đã gây ra những thiệt hại vô cùng lớn, điển hình như vỡ đập Z20 (Hà Tĩnh)
với sức chứa 250.000 m
3
làm trôi gần 500mđường sắt Bắc Nam gây gián đoạn tàu
hàng tháng trời;vào đầu những năm 80, vỡ đập ở nông trường Đắc Lắc chứa
500.000 m
3
làm chết 27 người. Những ví dụ trên đây cho thấy tầm quan trong cực
kỳ to lớn của công tác an toàn đập ở nước ta.
Đối với những đập lớn được thiết kế và xây dựng bằng những lực lượng kỹ
thuật chuyên nghiệp, được quản lý bởi những tổ chức chính quy của Nhà nước thì
có thể đảm bảo mức an toàn trong giới hạn của tần suất thiết kế kể cả trường hợp có
lũ và động đất. Trong trường hợp lũ vượt tần suất hoặc động đất xảy ra lớn hơn tiêu
chuẩn tính toán thì các đập thủy lợi làm bằng đất mức độ an toàn kém hơn các công
trình làm bằng bê-tông. Đối với những đập nhỏ không đạt được những yêu cầu kỹ
thuật và quản lý theo đúng các tiêu chuẩn và quy chuẩn thì nguy cơ mất an toàn của
đập là rất cao.
1.2. TỔNG QUAN VỀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỬ DỤNG HIỆU
QUẢ, PHÒNG NGỪA RỦI RO HỒ CHỨA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
1.2.1. Tổng quan về các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, phòng ngừa rủi
ro hồ chứa trên thế giới
Trên thế giới, phương pháp đánh giá rủi ro môi trường cho hệ thống hồ chứa
đã và đang được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở Mỹ, Ca-na-đa và các nước khối cộng


11

đồng Châu Âu. Tuy nhiên, tại các nước Châu Á, đánh giá rủi ro môi trường theo
cách tiếp cận này chỉ mới được áp dụng cho một vài nơi như Thái Lan, Nhật Bản.
Để đảm bảo hiệu suất và quản lý rủi ro từ các công trình đập trong thời gian
từ ngắn hạn đến dài hạn (thông qua các can thiệp vật lý để duy trì, sửa chữa, cải tiến
hoặc thay thế, đồng thời tránh những chi phí phát sinh không cần thiết) là một thách
thức đáng kể. Sự đa dạng về hình thức, thiết kế vật lý các loại đập khiến cho nhiệm
vụ trở nên phức tạp hơn. Các khái niệm về rủi ro và hiệu suất quản lý đập trong một
khuôn khổ phù hợp để phân tích và hiểu các thành phần quan trọng của đập nước,
nỗ lực hơn nữa trong việc hoàn thành các mục tiêu, đánh giá hoặc can thiệp vật lý
một cách thích hợp. Trong vòng 20 năm, các tổ chức khác nhau (Ciria 2000, Morris
và cộng sự 2000, ANCOLD 2003, USSD 2003, Brown và Gosden 2004, ICOLD
2005) đã làm việc với các chủ sở hữu đập để phát triển các nguyên tắc, phương
pháp và công cụ để hỗ trợ và đưa ra những quyết định để quản lý đập tốt hơn.
Người ta nhận ra được sự cần thiết phải ưu tiên đầu tư trong giới hạn để đạt hiệu
quả tốt nhất, có tính đên cả chi phí và lợi ích lâu dài. Năm 2000, Ciria xuất bản
quyển “Quản lý rủi ro hồ chứa Anh” nhằm cung cấp hướng dẫn về việc áp dụng các
quy trình đánh giá rủi ro và quản lý rủi ro để thực thi ở nước Anh. Ấn phẩm được
viết chủ yếu cho các chủ hồ chứa, các kỹ sư điều khiển, quản lý, các công ty bảo
hiểm và những cá nhân tổ chức có liên quan đến an ninh hồ chứa. Các phương pháp
đánh giá rủi ro được nêu trong báo cáo là để cho phép chủ hồ xếp loại mức độ nguy
hiểm của đập nước và các điều kiện rủi ro, để hỗ trợ và ưu tiên các công việc cần
thiết. Tiếp theo đó là ứng dụng sổ tay lũ khẩn cấp (FEH) để ước tính lũ cực hạn và
khả năng nâng cấp một số lượng đáng kể các hồ chứa ở Anh, đánh giá nhu cầu
nghiên cứu rõ ràng để so sánh với các nguy cơ đổ vỡ từ lũ lụt so với các rủi ro khác
của đập. Năm 2001, Defra tổ chức một buổi đấu thầu để cố gắng tìm và phát triển
một công cụ được tích hợp phương pháp tiếp cận từ lần vỡ đập trước đó, theo dự án
“Lồng ghép lũ lụt và an toàn hồ chứa”. Một nguyên mẫu đã được phát triển và thử

nghiệm trên 10 con đập với các báo cáo nghiên cứu (KBR 2002) có sẵn trên trang
web của Defra từ năm 2002 đến năm 2007. Tiếp đó, “Hướng dẫn sơ bộ để đánh giá

12

rủi ro và định lượng cho hồ chứa” (Brown và Gosden 2004) được xuất bản như áp
dụng giai đoạn hai, với mục đích để cung cấp một công cụ quản lý quan toàn hồ
chứa bằng việc sử dụng mức sàng lọc và ra quyết định bởi các chuyên gia giàu kinh
nghiệm dựa trên xác suất xảy ra hàng năm, hậu quả và khả năng dung nạp của các
hồ chứa. “Hướng dẫn sơ bộ” được tìm thấy như là một bước khởi đầu tốt trong việc
giới thiệu các khái niệm về sự sàng lọc các mức độ định lượng công cụ đánh giá rủi
ro để hỗ trợ trong việc quản lý an toàn đập tại Anh [25].
Quá trình bồi lắng ở hồ chứa vẫn đang diễn ra tại các đập nước trên trái đất.
Tổng dung lượng lưu trữ trên thế giới hiện nay là 6.000 km
3
với 45.000 đập lớn
(cao hơn 15m), tổng dung lượng mất đi khoảng 570 km
3
(12%) và tốc độ lắng hàng
năm 31 km trong 3 năm (0,52%/năm). Ở nhiều quốc gia, các biện pháp đối phó đã
được triển khai để giảm tích tụ trầm tích và giảm trữ lượng. Ví dụ như giảm dòng
chảy bồi lắng bằng cách kiểm soát xói mòn và chặn trầm tích từ thượng nguồn, loại
bỏ cặn lắng bằng xả thủy lực, nạo vét thủy lực hoặc đào khô. Trầm lắng được vòng
qua và xả nước được coi là những biện pháp khắc phục về lâu dài. Trên thế giới đã
có một số các đường hầm được xây dựng nhưng số lượng khá hạn chế bởi các yếu
tố như địa hình, thủy văn và kinh phí. Tuy nhiên, các kênh đào ngang qua có nhiều
lợi thế ví dụ như có thể xây dựng ngay tại các đập hiện có và ngăn chặn sự mất
nước hồ chứa gây ra bởi sự giảm mực nước hồ. Đây cũng được coi là có tác động
nhỏ đến môi trường ở hạ du do dòng chảy có thể tự do đi qua kênh trong thời gian
ngập lụt. Tại Nhật Bản, các đường hầm của đập Nunobiki (hoàn thành năm 1908)

và của đập Asahi (hoàn thành năm 1995) được áp dụng thành công để quản lý bền
vững hồ chứa. Đường tránh trầm tích của đập Miwa, Koshibu và Matsukawa trên
sông Tenryu được dự kiến sẽ là những dự án hàng đầu tiếp theo tại Nhật Bản.
Khoảng 2.730 con đập với chiều cao trên 15m đã được xây dựng ở Nhật Bản cho
mục đích phát triển tài nguyên nước và kiểm soát lũ. Sản lượng trầm tích của sông
ngòi Nhật Bản là tương đối cao do điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn và điều này
đã gây ra hậu quả là vấn đề bồi lắng ở những hồ chứa. Dựa trên các nghiên cứu
hàng năm tiến hành cho 877 hồ chứa có tổng khả năng lưu trữ toàn phần trên một

13

triệu m
3
, sản lượng trầm tích ở các lưu vực cụ thể là khác nhau, từ vài trăm đến vài
ngàn m
3
, lượng bồi lắng cao hơn ở các giữa vùng núi cao. Các đường hầm dẫn trầm
tích đã được nghiên cứu và áp dụng, mặc dù chi phí xây dựng khá cao nhưng có
nhiều ưu điểm như có thể xây dựng ở các đập có sẵn, không làm giảm mực nước hồ
nên không làm giảm khả năng trữ nước, tác động tương đối nhỏ đến môi trường
[33]. Ở Nhật Bản, chính phủ có trách nhiệm ban hành và thực thi chính sách tài
nguyên nước ở cấp quốc gia nhằm công thức hóa một kế hoạch tổng thể phát triển
tài nguyên nước và bảo vệ môi trường.
Một thảm họa lũ lụt đã xảy ra ở Thái Lan gây thiệt hại lớn về kinh tế trong
năm 2011. Một số nghiên cứu đã được tiến hành để phân tích lũ lụt Thái Lan nhưng
trong số đó không có bất kỳ đánh giá các tác động của việc vận hành hồ chứa trên
vùng ngập lụt. Nghiên cứu của Mateo và các cộng sự đã đề cập đến cách kết hợp
mô hình thủy văn dựa trên vật lý để mô phỏng một cách rõ ràng những tác động của
vận hành hồ chứa đến lũ lụt ở lưu vực sông Chao Phraya, Thái Lan. Mô hình tài
nguyên nước tổng hợp với một mô-đun vận hành hồ chứa H08 được kết hợp với

CaMa-Flood, một mô hình định tuyến sông biểu hiện cho của động lũ lụt. Mô hình
kết hợp H08-CaMa đã được áp dụng để mô phỏng và đánh giá các quy tắc vận hành
hồ chứa trong lịch sử và thay thế ở hai hồ chứa lớn nhất trong lưu vực. Mô hình kếp
hợp H08-CaMa đã mô phỏng tác động của trận lũ năm 2011: dòng chảy được quy
định tại trạm đo hàng ngày có hệ số 92% so với xả quan sát, mức độ mô phỏng
ngập lụt tốt nhưng kết quả quan sát từ vệ tinh. Kết quả mô phỏng cho thấy, thông
qua các hoạt động hồ chứa năm 2011 lượng lũ giảm 8,6 tỷ m
3
, diện tích và chiều
sâu ngập lụt giảm 40% trên mức trung bình. Tuy nhiên, thay đổi đơn giản trong vận
hành hồ chứa đã chứng tỏ là có thể giảm thêm 2,4 triệu m
3
và 20% diện tích và
chiều sâu ngập lụt. Tóm lại, bằng mô hình vận hành hồ chứa kết hợp với mô hình
thủy động lực học, có thể thấy tiềm năng của việc giảm thiểu ngập lụt thông qua cải
thiện chất lượng quản lý hồ chứa [27].
Hồ chứa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân cũng như việc
duy trì cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, vấn đề an ninh vận hành hồ chứa cần được

14

nghiên cứu để đảm bảo lợi ích toàn diện có thể được tác động một cách thỏa đáng.
Qua tham khảo ý kiến các kết quả nghiên cứu có liên quan, J. Feng và nhóm nghiên
cứu thấy rằng đa số các học giả ở Hong Kong chỉ giới hạn liên quan đến nghiên cứu
về an ninh một số thành phần của hồ chứa hoặc nghiên cứu các câu hỏi còn tồn
đọng để trực tiếp hướng dẫn vận hành hồ chứa. Cụ thể hơn, các học giả đã không
xem xét vấn đề hoạt động và an toàn hồ chứa ở góc độ tình hình chung mà chỉ nhấn
mạnh một số khía cạnh của hoạt động hồ chứa. Có ba khía cạnh của nội dung an
toàn vận hành hồ chứa, đó là vi mô, trung gian và vĩ mô. Khía cạnh vi mô là an ninh
hệ thống hồ chứa bao gồm sự an toàn của công trình và thiết bị phụ trợ, hiệu quả

của hoạt động quản lý hồ chứa. Khía cạnh trung gian được hiểu là vận hành hồ chứa
có thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và xã hội phát triển, bao gồm màn hình hiển
thị của hiệu quả kinh tế hồ chứa cũng như sự đảm bảo an toàn cho cá nhân và tài
sản của dân cư vùng hạ du. Về mặt vĩ mô, an toàn vận hành hồ chứa được thành lập
trên cơ sở các hồ chứa có thể tồn tại hài hòa trong hệ sinh thái. Là một hệ thống kỹ
thuật, vấn đề an ninh hồ chứa cần được xem xét trên quan điểm hệ thống. Sự an
toàn của tổng thể khu vực được xem xét với các cấu trúc kỹ thuật khác nhau cũng
như các công trình đạt tiêu chuẩn xây dựng, yêu cầu chất lượng các chi tiết kỹ thuật
xây dựng và các yêu cầu thiết kế, ngoài ra còn cần sự duy trì hoạt động ổn định mà
không ẩn chứa nguy cơ.
1.2.2. Tổng quan về các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, phòng ngừa rủi
ro hồ chứa ở Việt Nam
Sông ngòi Việt Nam có tính đa quốc gia, có tiềm năng thủy điện dồi dào do
có lượng nước phong phú và chảy qua vùng địa hình 3/4 là đồi núi. Chúng ta đã xây
dựng được nhiều hồ chứa và nhà máy thủy điện như Hòa Bình, Trị An, Đa Nhim,…
vừa điều tiết dòng chảy, kiểm soát lũ lụt, vừa phục vụ cấp điện và cấp nước. Chất
lượng nước sông ngòi, nước ngầm Việt Nam nhìn chung tốt, thành phần hóa học, độ
khoáng hóa phù hợp nhu cầu dùng nước của con người và các loài sinh vật. Những
hạn chế chính của tài nguyên nước Việt Nam là phân bố cực đoan theo không gian

15

và thời gian, tiềm ẩn những nguy cơ gây tai biến như lũ lụt, lũ bùn đá, lũ quét, trượt
lở đất, hạn hán [17].
Cơ cấu dùng nước ở Việt Nam là nông nghiệp 60%, công nghiệp 20%, chăn
nuôi 12%, dân sinh 8%. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 1/3 dân số được dùng
nước đúng tiêu chuẩn nước sạch của Liên Hợp Quốc (gồm 40 – 70% dân đô thị và
30% dân nông thôn) [17]. Hệ quả của việc khai khác sử dụng nước không hợp lý là
ô nhiễm nước do xả thải trực tiếp vào các nguồn nước, ô nhiễm các thành tố khác
của môi trường (như đất, không khí,…) hoặc do hoạt động nhân tạo biến đổi các

điều kiện hình thành dòng chảy và điều kiện cần cho quá trình tự làm sạch. Đặc biệt
là hệ quả của suy thoái, khủng hoảng môi trường và biến động khí hậu toàn cầu phá
vỡ các quy luật tự nhiên chi phối các quá trình nước nói chung và dòng chảy sông
ngòi nói riêng; cạn kiệt nguồn nước và khủng hoảng hệ sinh thái.
Theo khảo sát của Viện Khoa học Thủy lợi kết hợp với các chuyên gia Nhật
Bản, hầu hết môi trường nước tại các hồ chứa ở Việt Nam có dấu hiệu bị ô nhiễm
vô cơ, hữu cơ, hiện tượng kỵ khí, đặc biệt là hiện tượng phú dưỡng. Một số biện
pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước hồ chứa đã được áp dụng như sử dụng khả
năng xử lý phú dưỡng của bèo tây, ngổ trâu, rau muống, cải soong. Ngoài ra một số
giải pháp tình thế như giăng lưới gom tảo chết trên mặt hồ, vớt rác, thả cá mè xuống
hồ, trồng hoa sen, hoa súng để hạn chế tình trạng ô nhiễm, tuy nhiên kết quả không
được rõ rệt. Một số biện pháp được đề xuất như sử dụng bè thực vật, xây dựng hệ
thống lọc ngập nước, sử dụng thiết bị sục khí tầng sâu, Từ năm 2012, được sự tài
trợ từ phía Nhật Bản cùng với Viện Khoa học Thủy Lợi đã có các đề án nghiên cứu
các bộ phận cải tạo hồ chứa ở Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát 600 hồ chứa, dự án đã
chọn hồ Trọng Đầm (Việt Trì) để thí điểm áp dụng phương pháp sục khí và ứng
dụng công nghệ của Nhật Bản. Công nghệ này bao gồm các loại thiết bị sục khí
khác nhau như thiết bị sục khí tầng nông là giải pháp tốt trong việc hạn chế sinh
trưởng các loại rong tảo trên mặt hồ, thiết bị sục khí tổng thể làm đồng đều nhiệt độ
nước hồ đồng thời làm tăng nồng độ oxy hòa tan tầng đáy, thiết bị sục khí tầng sâu
cũng có chức năng tương tự nhưng hoạt động hiệu quả hơn ở đáy hồ. Thiết bị sục

16

khí tầng nông hoạt động theo nguyên tắc trong quá trình sục khí phát sinh ra dòng
chảy cưỡng bức khiến cho tảo và hoa nước di chuyển xuống dưới, thiếu ánh sáng
ảnh hưởng đến quá trình quang hợp khiến cho chúng bị chết đi. Do nước nóng có tỷ
trọng lớn hơn nên luôn nằm trên, tạo ra sự phân tầng về nhiệt độ, thiết bị sục khí
toàn thể làm xáo trộn dòng nước, khiến cho nhiệt độ thống nhất ở các tầng sâu khác
nhau, ngoài ra còn làm thay đổi nồng độ oxy hòa tan trong nước. Thiết bị được đặt

cố định, có phao và hệ thống nén khí, phạm vi hoạt động khoảng 2 km
2
. Khi khí nén
được bơm phát sinh dòng khí di chuyển lên, đồng thời tạo áp lực hút nước xung
quanh vào. Với phương pháp này, có thể giải quyết được nhiều vấn đề như làm thay
đổi nồng độ oxy hòa tan trong nước, cải thiện sự suy giảm nồng độ oxy tầng sâu,
đặc biệt là hạn chế được sự phát sinh của tảo và hoa nước.
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có bão xảy ra. Địa
hình đồi núi lại rất phức tạp nên lũ lụt xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại lớn. Vùng
Bắc Bộ đã hình thành hệ thống đê điều rất đồ sộ, tuy nhiên lũ lụt vẫn là hiểm họa
đối với vùng đồng bằng đông dân này. Hiện nay, các hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà đã
góp phần giảm thiệt hại do lũ gây ra nhưng cũng chỉ có khả năng chống chế lũ 125
năm xuất hiện một lần. Trong chiến lược phòng chống lũ lụt sông Hồng – Thái
Bình, các biện pháp hồ chứa, trong đó có các hồ chứa Sơn La, Lai Châu, Tuyên
Quang sẽ tiếp tục được xây dựng và đảm nhiệm chống lũ với trận lũ 500 năm xuất
hiện một lần. Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, những biện pháp giảm thiểu
thiệt hại do lũ gây ra đã được nghiên cứu và áp dụng trong những năm gần đây, đó
là biện pháp chuyển nước sang biển Tây. Tuy nhiên, chiến lược chung đối với vùng
này là chung sống với lũ và khai thác các nguồn lợi từ lũ. Đối với các lưu vực sông
miền Trung, lũ thường có cường độ lớn và xảy ra rất ác liệt. Các biện pháp hồ chứa
đã được áp dụng để giảm thiểu thiệt hại. Về lâu dài thì những biện pháp này cũng
không cho hiệu quả cao vì khả năng xây dựng các hồ chứa lớn là rất ít [11].
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, tình
hình thời tiết diễn ra bất thường, mưa to, bão lớn, đặc biệt là những vùng núi cao,
hồ tích nước gây nguy hiểm cho sự an toàn của đập. Gần đây nhiều sự cố vỡ đập đã

17

xảy ra như: vỡ đập trôi cống hồ chứa nước Đập Ke 2/20 Réc (Hà Tĩnh), tràn đập
phá hỏng nhà máy công trình thủy điện Hố Hô (Hà Tĩnh), đổ tường chắn bê tông

công trình thủy điện Đăk Rông 3 (Quảng Trị), vỡ đường ống áp lực công trình thủy
điện Đăm Bol – Đạ Tẻl (Lâm Đồng), đổ tường chắn thủy điện Đăk Mêk 3 (Kom
Tum) và gần đây nhất là sự cố vỡ đập thủy điện Ia Krel 2 (Gia Lai) lần 2. Do mưa
lớn kéo dài kết hợp với lũ từ thượng nguồn đổ về làm mực nước hồ, nước sông
dâng cao trên mức an toàn, gây hiện tượng vỡ đập, vỡ đê, ảnh hưởng đến đời sông
dân sinh.
Hiện nay ở các nước tiên tiến trên thế giới, trước khi quyết định xây dựng
một hồ chứa nước, vấn đề an toàn hồ, đập được quan tâm đặt lên hàng đầu và tất cả
các hồ chứa được xây dựng đều phải nghiên cứu đến trường hợp khi xảy ra sự cố vỡ
đập thì phạm vi ảnh hưởng đến đâu, đâu là khu vực bị thiệt hại nặng nhất để từ đó
có biện pháp phòng tránh giảm thiểu. Ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng
có một số nghiên cứu về an toàn đập đã được thực hiện ở Viện Quy hoạch Thủy lợi,
Viện Khoa học Thủy lợi, xem xét đánh giá một phần các tác động do lũ xảy ra đối
với các vùng nghiên cứu như trường hợp lưu vực sông Hồng, sông Hương do Viện
Khoa học Thủy lợi thực hiện; lưu vực sông Srepok do Viện Quy hoạch Thủy lợi
thực hiện; nghiên cứu, đánh giá mô hình vỡ đập Hàm Thuận – Đa Mi đến hạ lưu
sông La Ngà do Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam. Hiện nay, việc ứng dụng các
mô hình toán để tính bài toán vỡ đập trong hệ thống sông và các công trình trên
sông ngày càng phổ biến như MIKE 11 (Mô-đun vỡ đập), HEC_RAS (Mô hình
thủy lực một chiều), FLDWAV (Mô hình tính toán thủy lực của Hoa Kỳ), Trong
số đó, mô hình MIKE cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về các sự kiện vỡ đập mô
phỏng lũ lụt, kết hợp với đồ họa nâng cao của bản đồ ngập lụt giúp hình dung sự
chuyển động của sóng lũ trong sự biến đổi của thời gian và không gian [12].
Việc lập quy hoạch nguồn nước ở nước ta đã bắt đầu từ những năm 60.
Những quy hoạch lớn nhu quy hoạch khai thác nguồn nước sông Hồng, các quy
hoạch phòng lũ, tiêu úng và cấp nước đã được thực hiện với một số lượng lớn.
Những dự án quy hoạch được thực hiện từ năm 1960 đến nay đã làm thay đổi căn

18


bản hệ thống nguồn nước ở nước ta và mang lại hiệu quả cao cho phát triển nông
nghiệp, thủy năng và phòng chống lũ lụt. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho phát triển
thủy lợi với quy mô lớn, tạo một hệ thống công trình thủy lợi đa dạng và rộng khắp
trên toàn lãnh thổ. Các biện pháp nâng cấp, tu bổ và phát triển hệ thống đê điều đã
có, nhằm nâng cao hiệu quả chống lũ cho vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và các
tỉnh thuộc khu vực miền Trung. Bên cạnh đó, việc xây dựng các hồ chứa, trong đó
có cả các hồ chứa lớn, các hồ chứa vừa và nhỏ. Các hồ chứa lớn thường có nhiệm
vụ điều tiết nước phát điện kết hợp phòng lũ và cấp nước. Các hồ chứa nhỏ thường
chỉ có nhiệm vụ cấp nước cho nông nghiệp. Khai thác thủy năng từ các hồ chứa
chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống năng lượng Việt Nam. Theo thống kê của Cục
Thủy lợi năm 1998, ở nước ta hiện có hơn 60 hồ chứa có dung tích trên 10 triệu m
3
.
Tổng dung tích chứa trong các hồ phục vụ tưới là 5,2 tỷ m
3
. Ngoài ra còn có các hệ
thống thủy nông lấy nước trực tiếp từ những sông lớn như hệ thống Bắc Hưng Hải,
sông Chu, Bái Thượng…[11].
Hệ thống hồ chứa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tuy
nhiên việc quản lý và khai thác sử dụng vẫn còn nhiều bất cập. Số lượng hồ đập
thủy lợi tương đối nhiều, hầu hết các hồ chứa được xây dựng từ lâu, thiết kế kỹ
thuật không đồng bộ, trong điều kiện khó khăn về nguồn lực, các hồ chứa được xây
dựng chủ yếu bằng thủ công và cơ giới kết hợp. Quá trình quản lý, khai thác vận
hành thiếu kinh phí duy tu, bảo dưỡng, trong khi đó công trình thường xuyên chịu
tác động của thiên tai, thời tiết khắc nghiệt, nên đến nay đã xuống cấp, một số hồ có
nguy cơ mất an toàn.
Về nguyên nhân khách quan, một phần do lịch sử hình thành hồ đập trên địa
bàn, công trình thường xuyên chịu tác động của thời tiết, thiên tai khắc nghiệt, việc
đầu tư, nâng cấp, sửa chữa đòi hỏi kinh phí lớn. Được biết, hầu hết các công trình
thủy lợi được xây dựng từ trước năm 2000, do việc thi công này còn nhiều hạn chế

nên chất lượng hồ, đập đang xuống cấp rất nhanh. Nếu không được kiểm soát về
chất lượng, độ an toàn, những công trình này là những "quả bom" đe dọa tính mạng,
tài sản đối với người dân. Nguyên nhân chủ quan vẫn là do các cấp, các ngành chưa

19

chủ động quan tâm duy tu bảo dưỡng, thậm chí có nơi buông lỏng công tác quản lý
nhà nước, đặc biệt là cấp huyện chưa làm hết vai trò, trách nhiệm trong quản lý, sử
dụng và bảo vệ công trình thủy lợi. Việc triển khai thực hiện phân cấp ở các địa
phương rất chậm, chưa thực sự quyết liệt, còn rất lúng túng, chưa cụ thể, thiếu sâu
sát, chưa bám sát các quy định để tập trung chỉ đạo thực hiện.
Nhiều chuyên gia thủy lợi, thủy điện cũng lên tiếng, việc ứng phó, vận hành
hồ chứa trong điều kiện khẩn cấp hiện nay cần phải xem lại. Cụ thể là với quy trình
xả lũ bất thường, không có kịch bản, thời gian thông báo xả lũ quá ngắn so với thời
gian lũ về, không tính toán được lưu lượng, tần suất lũ càng làm tăng thêm thiệt hại,
ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của người dân trong khu vực. Hầu hết hệ
thống các hồ chứa nước có dung tích dưới 1 triệu m
3
đến nay chưa có chủ quản lý
cụ thể, công tác quản lý và sử dụng nguồn thủy lợi phí cấp bù cho các địa phương
chưa chặt chẽ, các địa phương chưa chủ động kiểm tra, phát hiện, xử lý và huy động
nguồn lực để sửa chữa kịp thời các hư hỏng công trình thủy lợi, nhất là các hồ, đập
nhỏ. Mối quan hệ giữa các ngành, các cấp còn thiếu đồng bộ, trách nhiệm của các
chủ quản lý hồ chứa chưa cao, tình trạng vi phạm hành lang quản lý các hồ chứa
còn phổ biến. Liên quan đến quy định hiện hành về quản lý chất lượng công trình
xây dựng, theo Nghị định 209/2004 của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước chỉ
cho ý kiến về thiết kế cơ sở, do vậy thiếu kiểm tra, kiểm soát các giai đoạn tiếp theo
như thiết kế kỹ thuật, thi công xây dựng và nghiệm thu công trình.
Đến nay Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ
Công thương đã ban hành các pháp lệnh, nghị định, thông tư có liên quan đến công

tác quản lý an toàn đập như:
- Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi số 32/2001/Pháp lệnh - Uỷ
ban thường vụ Quốc hội
- Pháp lệnh phòng chống bão lụt
- Nghị định 72/2007/Nghị định Chính phủ về quản lý an toàn đập
- Thông tư 33/2008/Thông tư của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn
hướng dẫn thực hiện nghị định 72 về an toàn hồ chứa thủy lợi

20

- Thông tư 34/2010/Thông tư của Bộ Công thương quy định về quản lý an
toàn đập của công trình thủy điện
- Tháng 12/2012 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã biên soạn cuốn
“Sổ tay an toàn đập” nhằm giúp các chủ đập là các cơ quan liên quan đến
quản lý an toàn đập có tài liệu tra cứu hướng dẫn thực hiện.
Trong vòng mấy năm trở lại đây, hệ thống công trình thủy điện trong cả
nước mọc lên như nấm, kéo theo đó là hàng ngàn héc ta rừng đầu nguồn bị tàn phá,
môi trường bị hủy hoại gây ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái và đời sống dân
sinh. Bên cạnh đó, quy trình xả lũ bất thường, không có kịch bản, thời gian thông
báo xả lũ quá ngắn so với thời gian lũ về, không tính toán được lưu lượng, tần suất
lũ càng làm tăng thêm thiệt hại, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của người
dân trong khu vực.
Các công trình thủy điện, thủy lợi quy mô nhỏ tiềm ẩn nhiều rủi ro về chất
lượng xây dựng và có nguy cơ mất an toàn trong quá trình vận hành, khai thác. Qua
công tác kiểm tra, Bộ Xây dựng xác định việc xảy ra sự cố công trình trong nhiều
trường hợp là do các doanh nghiệp tư nhân tự tổ chức quản lý đầu tư và thi công
xây dựng công trình trong khi kinh nghiệm còn hạn chế.Năng lực của một số nhà
thầu tham gia xây dựng công trình như tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, thi công xây
dựng công trình… không đảm bảo theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, công
tác quản lý chất lượng trong các giai đoạn khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng

không tuân thủ chặt chẽ theo quy định. Theo Nghị định 209/2004 của Chính phủ về
quản lý chất lượng công trình xây dựng, cơ quan quản lý nhà nước chỉ cho ý kiến về
thiết kế cơ sở, các giai đoạn tiếp theo đều do chủ đầu tư quyết định nên thiếu kiểm
tra, kiểm soát đặc biệt ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật, thi công xây dựng và nghiệm
thu. Thực tế này đã phần nào lý giải nguyên nhân tại sao các công trình thủy điện,
thủy lợi nhỏ tiềm ẩn nhiều rủi ro về chất lượng.
Vì vậy, các bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành quy
định xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong quản lý vận hành hồ đập thủy điện,
thủy lợi. Ngoài ra, cần có các chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học nhằm

×