Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.17 KB, 43 trang )

Trang 1
LỜI NÓI ĐẦU

Hoạt động tín dụng là hoạt động mang tính chất nghề nghiệp của tổ chức tín dụng
nói chung, ngân hàng TMCP nói riêng (chủ yếu là kinh doanh tiền tệ). Với ưu điểm lớn
nhất đó là lĩnh vực kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho các tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, đằng sau những ưu điểm đó thì hoạt động tín dụng luôn luôn mang theo những rủi
ro tiềm ẩn, khó có thể tránh khỏi. Để nền kinh tế của Việt Nam chúng ta bền vững một
cách tương đối và để có thể tiếp tục tham gia vào sân chơi chung của toàn thế giới thì
vấn đề xem xét chặt chẽ các quy định về mặt pháp lý của hợp đồng tín dụng của các
ngân hàng TMCP là thật sự cần thiết. Bởi sự không chặt chẽ trong việc đặt ra quy định
của loại hợp đồng này nên dễ dẫn đến các tranh chấp giữa các chủ thể, hoặc làm giảm đi
hiệu quả cho vay hoặc chúng có thể làm giảm đi việc đa dạng hóa các dịch vụ tín dụng
ngân hàng mà các ngân hàng thương mại đang hướng đến. Chính vì nhận thức được tính
cấp thiết của vấn đề nên người viết đã chọn đề tài: “Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức”.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng tín dụng. Do thời gian nghiên cứu
không nhiều nên người viết chỉ tìm hiểu trong phạm vi hoạt động tín dụng của Ngân
hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức.
Trong khi tìm hiểu đề tài, người viết sử dụng các phương pháp sau để làm rõ bản
chất của vấn đề: phương pháp phân tích thực chứng, so sánh, đối chiếu, tổng hợp có sự
kế thừa các bài viết và luận điểm của các chuyên gia, quy định pháp luật của các nước
trên thế giới.
Thông qua việc viết báo cáo, người viết muốn tìm hiểu sâu hơn các quy định của
pháp luật về hợp đồng tín dụng cũng như thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc
ký kết hợp đồng tín dụng, nhằm đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn nữa quy trình
tiếp nhận hồ sơ vay vốn, quy trình cho vay.
Bố cục của đề tài bao gồm 3 phần:
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 2
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động tín dụng và hợp đồng tín dụng.


Chương 2: Tình hình hoạt động tín dụng và thực hiện hợp đồng tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình cho vay tại Ngân hàng
TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức.
CHƯƠNG MỘT: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 3
1.1 Hoạt động tín dụng:
1.1.1 Định nghĩa, bản chất, chức năng và vai trò của hoạt động tín dụng:
1.1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tín dụng:
Tín dụng là một từ Hán Việt. Tín là “uy tín”, dụng là “sử dụng”. Uy tín là cái
được tạo nên dựa vào lòng tin, đạo đức, khả năng tài chính,.. Còn sử dụng là khai
thác giá trị, giá trị sử dụng nhằm đem lại lợi ích cho bản thân người khai thác. Như
vậy có thể hiểu rằng tín dụng là việc sử dụng một cái gì đó dựa vào uy tín, còn “cái
gì đó” ở đây ta có thể hiểu đó là tài sản, mà theo Bộ luật dân sự 2005, điều 163 thì
“tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Trong kinh tế thì Tín dụng
được hiểu rõ ràng hơn nhưng cũng rất là rộng và luôn phải kèm theo một cái giá phải
trả đó thường là tiền lãi.
Trong nền kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người
tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó,
cũng luôn tồn tại một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này
làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi
tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận
thu được do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo
lợi tức, nó để thoả mãn nhu cầu của cả hai bên, do đó nó là một quan hệ bình đẳng,
cả hai bên cùng có lợi và mang tính thoả thuận lớn.
Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín
dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã.

Quan hệ tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, qua từng thời kỳ, từng
giai đoạn phát triển mà dần hình thành nên các hình thức tín dụng mới có trình độ
cao hơn, đã có các hình thức tín dụng sau: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tiêu dùng. Mỗi một hình thức tín
dụng đều có điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy nhiên trong sự phát triển của mình,
các hình thức quan hệ tín dụng trước không hề mất đi mà vẫn còn tồn tại và phát huy
tác dụng khi có sự ra đời một hình thức tín dụng mới. Ngày nay, tất cả các hình thức
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 4
tín dụng trên đều còn tồn tại và bổ sung lẫn nhau, và nó có vai trò quan trọng trong
sự phát triển kinh tế.
Trong các hình thức trên thì tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô
cùng quan trọng, nó là một quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín
dụng cho các doanh nghiệp, các thể nhân khác trong nền kinh tế. Với công nghệ ngân
hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín dụng không thể
thiếu ở cả trong nước và quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng còn bên
kia là các cá nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các
cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ
dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ
dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay
mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi.
Từ các ý đã phân tích ở trên ta có thể rút ra được đặc điểm của tín dụng ngân
hàng như sau:
- Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho vay bằng tiền tệ
là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền

kinh tế quốc dân.
- Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành phần trong
xã hội chứ không phải hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của chính mình như tín
dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự
vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những trường hợp
mà nhu cầu tín dụng ngân hàng gia tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá
không tăng, nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu thông
hàng hoá bị co hẹp nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng phá
sản. Ngược lại trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 5
xuất, hàng hoá lưu chuyển tăng mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp
ứng kịp. Đây là một hiện tượng rất bình thường của nền kinh tế.
- Hơn nữa tín dụng ngân hàng còn có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức
khác là:
• Tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các
tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn
vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.
• Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với
nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.
• Tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích hợp với
mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng vay.
1.1.1.2 Chức năng của tín dụng:
Hoạt động tín dụng bao gồm hai chức năng sau:
- Chức năng phân phối: được thực hiện thông qua việc phân phối lại vốn, nội
dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế hút (huy động vốn), để đẩy ( cho
vay).
- Chức năng giám đốc: thể hiện thông qua việc kiểm soát việc sử dụng vốn có

đúng mục đích hay không, việc sử dụng vốn có hiệu quả không và việc thu hồi
vốn đúng kì hạn quy định.
1.1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng:
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau
tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một số tiêu
chí sau:
 Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành
3 loại sau:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường
được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 6
thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu
cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.
 Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay
vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản
xuất có quy mô lớn.
Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định
và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng
chia thành hai loại:
 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được
cung cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
 Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để
mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng

ngày càng có xu hướng tăng lên.
 Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có
các loại tín dụng sau:
 Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát
ra đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố,
thế chấp, chiết khấu và bảo lãnh.
 Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho
vay phát ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại
hình này thường được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan
hệ lâu dài và sòng phẳng với ngân hàng, khách hàng này phải có tình
hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với ngân hàng như trả nợ
đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh doanh khả thi,
có khả năng hoàn trả nợ...
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 7
Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu
chí trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách
phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của
vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả
kinh tế của chúng.
1.1.2 Lãi suất tín dụng:
1.1.2.1 Định nghĩa:
Trước hết ta cần xem xét lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà
người cho vay nhận được ở người đi vay do việc sử dụng tiền vay của người này. Ở
đây người đi vay sử dụng vốn vay được để sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được tạo
ra trong quá trình này tất yếu được phân chia theo một tỷ lệ thoả đáng giữa người cho
vay và người đi vay tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh. Phần lợi
nhuận dành cho người cho vay này được gọi là lợi tức.
Thực chất lợi tức là giá cả của lượng hàng hoá (tức lượng tiền tệ ) cho vay.
Giá cả này lên xuống theo quan hệ cung cầu của vốn, nhưng khác với các hàng hoá

thông thường khác là giá cả của chúng phản ánh và xoay quanh giá trị của chúng, còn
giá cả của vốn lại hoàn toàn không phản ánh được giá trị của vốn, nó còn phụ thuộc
vào nhu cầu và sự thoả thuận của hai bên. Chính vì vậy, lợi tức chưa phản ánh được
hiệu quả của số vốn cho vay phát ra.
Như vậy, để xác định khả năng sinh lợi của vốn cho vay người ta đã so sánh
lợi tức với vốn cho vay hình thành nên lãi suất tín dụng. Vì vậy ta có định nghĩa khái
quát về lãi suất tín dụng như sau: lãi suất tín dụng là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu
được với số vốn cho vay phát ra trong một thời kỳ nhất định. Lãi suất tín dụng chính
là sự cụ thể hoá của lợi tức tín dụng, nó là cái giá của quyền được sử dụng vốn
trong một thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó.
1.1.2.2 Các loại lãi suất tín dụng ngân hàng:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và các hình thức tín dụng mà các loại
lãi suất tín dụng cũng được hình thành một cách đa dạng, đại bộ phận chúng đều do
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 8
ngân hàng trung ương kiểm soát và khống chế. Các hình thức lãi suất càng phong
phú thì càng tạo độ linh hoạt và hiệu quả trong quan hệ tín dụng vì chính lãi suất là
chất xúc tác hình thành nên quan hệ tín dụng, do đó cần phải phân biệt được các loại
lãi suất tín dụng ngân hàng để thấy được hiệu quả của chúng trong phát triển tín dụng
nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung.
Thông thường hệ thống lãi suất trên thị trường có các loại sau:
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ sở cho
các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh.
- Lãi suất sàn và lãi suất trần: là lãi suất thấp nhất và lãi suất cao nhất trong
một khung lãi suất nào đó mà ngân hàng trung ương ấn định cho các NHTM hoặc do
NHTM quy định trong hệ thống của nó nhằm thống nhất các hoạt động tín dụng
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà ngân hàng trung
ương dành cho các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng thông qua nghiệp vụ
tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc

của các NHTM, để từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác
trong khung lãi suất được phép.
- Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính đến
sự biến động của giá trị tiền tệ, nó được xác định cho một kỳ hạn gửi hoặc vay, thể
hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước.
Lãi suất thực là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ, như
lạm phát hoặc lên giá tiền tệ. Do đó ta có công thức tính lãi suất thực như sau: Lãi
suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát dự đoán.
Do vậy, lãi suất danh nghĩa luôn lớn hơn 0 nhưng lãi suất thực thì không phải
lúc nào cũng dương, khi xảy ra lạm phát mà tỷ lệ lạm phát lại lớn hơn lãi suất danh
nghĩa thì lúc đó lãi suất thực sẽ nhỏ hơn 0 điều này sẽ gây bất lợi cho người cho vay
và ngược lại thì người đi vay lại có lợi hơn. Chính lãi suất thực ảnh hưởng đến đầu
tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay, vì vậy ngân
hàng chỉ thực sự thúc đẩy tích luỹ khi đưa ra được chính sách lãi suất thực dương.
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 9
1.1.3 Vai trò của hoạt động tín dụng:
Là một mối quan hệ kinh tế, tín dụng ngân hàng có những tác động nhất định đến
hoạt động kinh tế. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, nó có vai trò khá quan trọng:
 Góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng nên các doanh nghiệp có điều kiện bổ
sung vốn thiếu hụt tạm thời hay mở rộng nguồn vốn đảm bảo được quá trình sản xuất
bình thường và còn có thể mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật công
nghệ mới tăng tính cạnh tranh. Tín dụng đã giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình
sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông
hàng hoá và tiêu dùng xã hội.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá, quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường,
mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, do đó tín dụng ngân hàng
trên lĩnh vực tín dụng quốc tế cũng trở nên quan trọng giúp cho việc liên kết chuyển giao

công nghệ giữa các nước trên thế giới được nhanh chóng, rút ngắn thời gian phát triển.
Như vậy hoạt động tín dụng của các NHTM đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng ngay cả trong nước và quốc tế.
 Là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất hữu hiệu và quan
trọng, từ đó góp phần tích tụ và tập trung sản xuất:
Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn lớn,
tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu quả cao. Đồng thời các doanh nghiệp
cũng nhờ các khoản tín dụng mà có đủ vốn để mở rộng sản xuất rút ngắn thời gian tích
luỹ vốn. Tóm lại, tín dụng đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn cho sản xuất.
Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ
sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng khả năng cạnh tranh làm cho doanh nghiệp lớn
ngày càng lớn lên, doanh nghiệp nhỏ bị phá sản do không cạnh tranh nổi, từ đó các
doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau tăng khả năng cạnh tranh, như vậy tín dụng đã
góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 10
 Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hòa nguồn vốn, giúp
ổn định thị trường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thông qua tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm cho
xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở nơi thiếu vốn, giúp cho việc
sử dụng vốn có hiệu quả, góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn
tăng lên, tạo sự phát triển đồng đều trong các ngành.
Việc điều hoà nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất quy định giúp cho
chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện, điều hoà lưu thông tiền tệ góp phần ổn
định tiền tệ, và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.
Hơn nữa, thông qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có những chính sách ưu tiên
hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào việc đưa

ra các ưu đãi tín dụng... do vậy đã kích thích, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các
vùng, ngành trọng điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.
1.2 Hợp đồng tín dụng:
1.2.1 Khái niệm:
Trong luật học, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận bằng lời nói ( hoặc
văn bản) giữa hai hay nhiều chủ thể có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhằm
xác lập, thực hiện hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định trên cơ sở pháp
luật và đạo đức xã hội. Cụ thể, trong Bộ luật dân sự 2005, Điều 388 có định nghĩa:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. ”
Từ quan niệm chung về hợp đồng, căn cứ vào bản chất hoạt động tín dụng của
các tổ chức tín dụng, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau : “
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay)
với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín
dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một khoản thời gian
nhất định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm ”
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 11
Về hình thức, sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng
(bên đi vay) phải được thể hiện bằng văn bản.
1.2.2 Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất nghiệp vụ - pháp lý
do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao
gồm các giai đoạn chủ yếu sau:
 Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới
hình thức văn bản chính thức gửi cho bên còn lại, với nội dung thể hiện ý chí mong
muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có

nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gởi kèm theo các tài liệu
chứng minh về tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay.
Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định và được coi
như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng.
 Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín
dụng
Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ - pháp lý
do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay, trên cơ sở đó mà quyết
định cho vay hay không. Trong thực tế giao dịch ngân hàng, công việc thẩm định này
thuộc về nhân viên tín dụng của ngân hàng thực hiện và kết thúc bằng việc lập báo cáo
thẩm định hồ sơ tín dụng. Báo cáo này được trình lên cho người quản lý có thẩm quyền
của ngân hàng quyết định có cho vay hay không, nếu từ chối thì phải gửi văn bản đến
khách hàng, nêu rõ lý do từ chối
 Chấp nhận giao kết hợp đồng tín dụng
Chấp nhận giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị
(thông thường là ngân hàng) thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 12
khách hàng với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Trên phương
diện lý thuyết, việc một bên chấp nhận vô điều kiện văn bản đề nghị hợp đồng của bên
kia có thể làm phát sinh một hợp đồng giữa họ với nhau, nếu trong văn bản đề nghị đã
hội đủ các điều khoản cốt yếu của loại hợp đồng mà họ mong muốn ký kết. Tuy nhiên,
do hợp đồng tín dụng vốn có ảnh hưởng sâu sắc và mang tính chất dây chuyền đối với
hệ thống tín dụng và cả đối với nền kinh tế của một quốc gia, nên các luật gia cho rằng
việc giao kết các hợp đồng tín dụng cần phải thực hiện một cách cẩn trọng và có suy xét,
cân nhắc, tính toán một cách thấu đáo. Quan niệm này là cơ sở để pháp luật dự liệu
những quy tắc dành riêng cho thủ tục ký kết một hợp đồng tín dụng, theo đó hành vi
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý
ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng chính thức giữa các
bên. Điều này có nghĩa rằng việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành

sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản
của hợp đồng và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào văn
bản hợp đồng tín dụng.
 Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Đây là giai đoạn cuối cùng cũng là gia đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp
đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của
hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính
thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
1.2.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng
 Hình thức của hợp đồng tín dụng:
Theo điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký
kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Hợp đồng bằng văn bản có rất nhiều ý nghĩa
và mang lại nhiều hiệu quả trong kinh doanh, cụ thể là:
- Hợp đồng ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực
hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
- Hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính
thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 13
rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong
trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có
trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Chẳng hạn như việc
thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động thương mại của
chủ thể kinh doanh trên thương trường.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản
viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử
dưới hình thức thông điệp dự liệu được coi là giao dịch bằng văn bản
1
. Các văn bản hợp

đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng
cứ trong quá trình giao dịch.
2
 Nội dung của hợp đồng tín dụng:
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ
tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp
luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh
những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Về lý thuyết, nội dung của hợp đồng tín dụng (các điều khoản của hợp đồng) phải
do các bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận ý chí, phù hợp với pháp luật và đạo
đức xã hội.
Các nội dung, các điều khoản cơ bản của hợp đồng tín dụng được quy định tại
Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng.
1.2.4 Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng:
Dựa trên các quy định có tính nguyên tắc của Bộ luật dân sự 2005 về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự, một hợp đồng tín dụng, với tư cách là một loại hình giao
dịch dân sự đặc thù, chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
1
Xem Khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự 2005.
2
Xen các Điều 11, 12, 13, 14 Luật giao dịch điện tử năm 2005..
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 14
- Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội. (Xem mục 1.2.3)
- Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí.
- Hình thức của hợp đồng tín dụng phải phù hợp với quy định của pháp luật

ngân hàng. Đối với hợp đồng tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi
của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng này nên pháp luật ngân hàng
đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. (Xem mục 1.2.3)
Do Việt Nam chúng ta quan niệm hợp đồng tín dụng thuộc loại hợp đồng ưng
thuận nên pháp luật quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng chính
là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản và đã ký tên, đóng dấu vào văn
bản hợp đồng tín dụng. Theo quy định này, việc chuyển giao tiền vay - giải ngân là một
nghĩa vụ hợp đồng của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này mà lại
gây thiệt hại tính được bằng tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vi
phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.2.5 Các loại hợp đồng tín dụng thông dụng giữa Ngân hàng và khách hàng
 Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm
Dưới góc độ pháp lý, hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là thỏa thuận
bằng văn bản, trong đó tổ chức tín dụng cam kết chuyển giao cho khách hàng vay sử
dụng số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc
và lãi trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp
của người vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba
 Hợp đồng tín dụng không có tài sản bảo đảm
Trong thực tế, mặc dù có sự bảo đảm bằng tài sản cho các khoản vay của
tổ chức tín dụng là cần thiết nhưng không phải mọi khoản vay ở tổ chức tín dụng
đều cần phải có sự bảo đảm bằng tài sản. Đôi khi, những khoản cho vay kinh
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 15
doanh hay cho vay tiêu dùng được cung cấp bởi một tổ chức tín dụng lại không
cần phải có tài sản bảo đảm. Nghiệp vụ này được các ngân hàng áp dụng đối với
các khoản vay mà họ cho rằng người vay có đủ uy tín, có tình hình tài chính lành
mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có khả năng trả nợ chắc chắn.
1.3 Trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm hợp đồng tín dụng và giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng:

1.3.1 Trách nhiệm pháp lý do việc vi phạm hợp đồng tín dụng:
Vi phạm hợp đồng tín dụng là hành vi của một bên hoặc cả hai bên tham gia hợp
đồng, cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Về
phương diện lý thuyết, một hành vi được coi là vi phạm hợp đồng tín dụng khi hành vi
đó thỏa mãn các điều kiện sau:
- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia hợp đồng tín dụng (bên
vay và cho vay).
- Trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng, để chứng minh một hành vi rõ
ràng là trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên có quyền lợi bị xâm
hại bởi hành vi đó phải dẫn chứng về sự tồn tại một cam kết của người
thực hiện hành vi, đồng thời phải chứng minh rằng người đó đã thực hiện
hành vi trái với những cam kết của chính họ trong hợp đồng tín dụng.
- Bên thực hiện hành vi có một lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý. Đối với hợp
đồng tín dụng, do nghĩa vụ của các bên là hết sức rõ ràng, cụ thể, xác định
và bao giờ cũng ghi rõ trong văn bản hợp đồng nên bên có quyền lợi bị
xâm hại chỉ cần chứng minh rằng bên đối tác đã không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết cũng đủ để dẫn chứng lỗi của
người đó. Ngược lại, bên thực hiện hành vi trái với cam kết trong hợp
đồng tín dụng phải chứng minh rằng mình không có lỗi, bằng cách dẫn
chứng những sự kiện khách quan đã cản trở mình thực hiện nghĩa vụ đó.
- Hành vi đó nhằm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên đối ước,
hoặc xâm hại tới lợi ích khác như lợi ích chung của toàn xã hội, lợi ích của
tổ chức và cá nhân khác.
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 16
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng đều phải chịu trách nhiệm
pháp lý, dù rằng mức độ, tính chất và loại trách nhiệm pháp lý có thể là khác nhau, tùy
thuộc vào hậu quả xảy ra bởi hành vi đó như thế nào. Có hai loại trách nhiệm pháp lý
phát sinh do việc vi phạm hợp đồng tín dụng: trách nhiệm nộp phạt và trách nhiệm bồi
thường.

1.3.2 Giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được hiểu là tình trạng pháp lý của
quan hệ hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí
với nhau về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Một hợp
đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương
diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng
chứng cụ thể và xác định được. Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng sẽ
được giải quyết thông qua các con đường sau:
- Tự thương lượng
- Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian.
- Cơ chế tài phán. (Theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc thủ tục tố tụng
trọng tài)
CHƯƠNG HAI: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP NAM Á – CHI NHÁNH THỦ
ĐỨC
2.1 Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Nam Á và Chi nhánh Thủ Đức
2.1.1 Quá trình thành lập và phát triển
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Trang 17
Ngân hàng TMCP Nam Á có tên giao dịch quốc tế là “NAM A COMMERCIAL
JOINT STOCK BANK”, viết tắt trong giao dịch nội địa là NAM Á BANK.
Ngân hàng TMCP Nam Á được thành lập từ việc hợp nhất ba hợp tác xã tín dụng
là Tân Định, Thị Nghè, An Đông theo giấy phép thành lập số 0026/NH – GP do thống
đốc NHNN Việt Nam ký ngày 22/08/1992, giấy phép thành lập công ty số 463/GP – UB
của UBND Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 01/09/1992 và tiến hành kinh doanh theo
giấy chứng nhận ĐKKD số 059027 cấp ngày 01/09/1992 của trọng tài kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh.
Ngân hàng TMCP Nam Á chính thức hoạt động từ ngày 21/10/1992, là một trong
những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên được thành lập sau khi Pháp lệnh về
Ngân hàng được ban hành vào năm 1990, trong bối cảnh nước ta đang tiến hành đổi mới

kinh tế. Qua 15 năm hoạt động, cơ sở vật chất và mạng lưới hoạt động của Ngân hàng
ngày càng mở rộng, đời sống cán bộ nhân viên ngày càng được cải thiện, uy tín của
Ngân hàng ngày càng được nâng cao.
Từ những ngày đầu hoạt động, Ngân hàng Nam Á chỉ có 3 chi nhánh với số vốn
điều lệ 5 tỷ đồng và gần 50 cán bộ nhân viên. Đến nay, qua những chặng đường phấn
đấu đầy khó khăn và thách thức, Ngân hàng Nam Á đã không ngừng lớn mạnh, có mạng
lưới gồm hơn 50 địa điểm giao dịch trên cả nước. So với năm 1992, vốn điều lệ hiện nay
tăng gấp 270 lần, số lượng cán bộ nhân viên tăng gấp 20 lần, phần lớn là cán bộ trẻ,
nhiệt tình được đào tạo chính quy trong và ngoài nước, có năng lực chuyên môn cao.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Ngân hàng luôn quan tâm đến công tác đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, coi cán bộ nhân viên là tài sản quý giá nhất của Ngân hàng.
Những năm gần đây, Ngân hàng Nam Á được biết đến là một trong những Ngân
hàng TMCP phát triển ổn định, bền vững, có chất lượng tín dụng thuộc loại tốt và được
Ngân hàng Nhà nước đánh giá xếp loại A trong nhiều năm liền. Ngân hàng Nam Á là
một trong số ít Ngân hàng tại Việt Nam được Ngân hàng Thế giới chọn để thực hiện Dự
án Tài chính Nông thôn II từ năm 2002.
Thương hiệu Ngân hàng Nam Á đã được người tiêu dùng, cơ quan chức năng
công nhận thông qua các giải thưởng có giá trị như: Top Trade Services do Bộ Công
Thương trao tặng, “Thương hiệu vàng” do Bộ Công Thương và Hiệp hội chống hàng giả
và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam (VATAP) trao tặng; năm 2007, Ngân hàng còn nhận
Báo cáo thực tập GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang

×