Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

nghiên cứu phục hồi chức năng sinh hoạt hàng ngày cho bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.58 KB, 47 trang )

Bớc đầu nghiên cứu
phục hồi chức năng sinh hoạt hàng ngày
cho bệnh nhân liệt nửa ngời
do tai biến mạch máu não

hà nội- 2003
bộ giáo dục và đào tạo bộ y tế
trờng đại học y hà nội
Vũ mạnh hùng
luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa
khoá 1997- 2003
Bớc đầu nghiên cứu
phục hồi chức năng sinh hoạt hàng ngày
cho bệnh nhân liệt nửa ngời
do tai biến mạch máu não
luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa
khoá 1997 - 2003

Hớng dẫn khoa học:
Tiến sỹ Cao Minh Châu

hà nội- 2003
bộ giáo dục và đào tạo bộ y tế
trờng đại học y hà nội
Vũ mạnh hùng
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả thu đợc là hoàn toàn sự thật, và cha đợc công bố trong bất kì công trình nghiên
cứu nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 06 năm 2003


Sinh viên
Vũ Mạnh Hùng
lời cảm ơn
Nhân dịp luận văn đợc hoàn thành, cho phép tôi đợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
và lời cảm ơn chân thành nhất đến:
Tiến sĩ: cao minh châu
Phó trởng bộ môn Phục Hồi Chức Năng trờng Đại Học Y Hà Nội. Ngời thầy
kính mến đã hết lòng dạy dỗ, tận tình hớng dẫn, truyền thụ những kiến thức và
kinh nghiệm quý báu, dìu dắt tôi trên con đờng nghiên cứu khoa học và trực tiếp
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin đặc biệt chân thành cảm ơn quý thầy cô đã dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu khoa học và góp nhiều ý kiến quý giá cho tôi trong quá
trình thực hiện luận văn:
Phó giáo s - Tiến sĩ: nguyễn xuân nghiên
Trởng bộ môn Phục Hồi Chức Năng trờng Đại Học Y Hà Nội. Trởng khoa Phục
Hồi Chức Năng Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội.
Tiến sĩ: Lê văn thính
Trởng khoa Thần Kinh bệnh viện Bạch Mai Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu và Phòng đào tạo đại học trờng Đại Học Y Hà Nội
Bộ môn Phục Hồi Chức Năng trờng Đại Học Y Hà Nội
Khoa Phục Hồi Chức Năng Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
Ban giám đốc bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
Đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Tất cả các bệnh nhân đã đồng ý cho tôi thu thập kết quả nghiên cứu và các tác
giả có công trình nghiên cứu xin đợc tham khảo trong luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ, gia đình tôi và bạn bè thân thiết
đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi và hết lòng cổ vũ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu khoa học.

các từ viết tắt
1 - Phục Hồi Chức Năng ( PHCN )
2- Tai biến mạch máu não ( TBMMN )
3- Tổ chức Y tế thế giới ( WHO )
Đặt vấn đề
Tai biến mạch máu não là một vấn đề lớn của Y học các nớc trong nhiều thập
kỷ qua. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể gây tử vong nhanh chóng
hoặc để lại nhiều di chứng nặng nề, đặc biệt là các di chứng về vận động. Đó là
gánh nặng không chỉ đối với ngời bệnh, gia đình mà còn ảnh hởng đến cả cộng
đồng và quốc gia của họ.
Theo công bố của tổ chức Y tế thế giới (WHO) tai biến mạch máu não là
nguyên nhân gây tử vong hàng thứ ba sau ung th và tim mạch.
Tai biến mạch máu não có nhiều triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Trong
đó liệt nửa ngời là triệu chứng hay gặp và cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra các
biến chứng thứ phát nguy hiểm khác.
Trong điều trị TBMMN, vấn đề đặt ra, không phải chỉ thêm năm tháng cho cuộc
sống (tức kéo dài tuổi thọ), mà phải thêm sức sống cho năm tháng (tức chất lợng
cuộc sống). Muốn vậy, ngoài việc luyện tập thể chất, tinh thần, ngời bệnh còn phải
lo bảo vệ sức khoẻ chống bệnh tật
Ngày nay với sự tiến bộ không ngừng của y học, nhiều phơng tiện chẩn đoán và
phơng pháp điều trị hiện đại đã giúp cho việc dự phòng, điều trị và PHCN có hiệu
quả cao hơn, cải thiện đáng kể tiên lợng của ngời bệnh.
Khả năng phục hồi của ngời bệnh TBMMN phụ thuộc rất nhiều vào việc chẩn
đoán, điều trị, PHCN và dự phòng kịp thời.
Hiện nay ở Việt Nam, vấn đề phục hồi sau TBMMN ngày càng đợc quan tâm
hơn. Những ngời bị liệt nửa ngời do TBMMN cũng đợc phục hồi vận động tốt hơn,
giúp họ đợc tái hội nhập với xã hội.
Để đánh giá sự phục hồi đó, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu:
" Bớc đầu nghiên cứu phục hồi chức năng sinh hoạt hàng
ngày cho bệnh nhân liệt nửa ngời do tai biến mạch máu n o"ã với

mục đích: Tìm hiểu kết quả PHCN sinh hoạt hàng ngày của ngời bệnh liệt nửa ng-
ời do TBMMN tại các thời điểm đánh giá khác nhau.
phần 1: Tổng quan tài liệu
1.1- Đinh nghĩa TBMMN:
Theo WHO: "Tai biến mạch máu não là sự xảy ra đột ngột các thiếu sót chức
năng thần kinh trung ơng, thờng là khu trú hơn là lan toả, tồn tại quá 24 giờ hoặc
gây tử vong trong vòng 24 giờ, các khám nghiệm loại trừ nguyên nhân chấn thơng"
( Công bố năm 1990 bản tổng hợp).[21]
1.2.- Tình hình tai biến mạch máu não trên thế giới và Việt Nam:
1.2.1- Trên thế giới:
Theo thống kê của WHO, tai biến mạch máu não là một trong mời nguyên nhân
gây tử vong cao nhất. Tỉ lệ tử vong do tai biến mạch máu não đứng hàng thứ ba sau
bệnh tim mạch và ung th [18]
Tại Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 500.000 ngời bị tai biến mạch máu não, trong
số đó thì 1/3 bị tử vong và giảm khả năng, tỉ lệ tử vong trong 1 tháng đầu chiếm
30 - 40% và 2/3 số bệng nhân sống sót trở thành tàn tật, 50% bệnh nhân sống sót 7
năm sau tai biến mạch máu não và 35% sau 10 năm [41].
Theo số liệu thống kê của WHO năm 1990 ớc tính có 2,1 triệu ngời bị tử vong
vì tai biến mạch máu não tại châu á bao gồm 1,3 triệu ngời ở Trung Quốc,
448.000 ngời ở ấn Độ và 390.000 ngời ở các nơi khác trừ Nhật Bản.[18]
Bệnh nhân vào điều trị tai biến mạch máu não ở Trung Quốc là 40%, ấn Độ là
11%, Philipin là 10%, Hàn Quốc là 16%, Indonesia là 8%, Việt Nam là 7%, Thái
Lan là 6%, Malaysia là 2%[18].
1.2.2- ở Việt Nam:
Theo Lê Văn Thành và cộng sự, tỉ lệ hiện mắc trung bình hàng năm của tai biến
mạch máu não là 416/ 100.000 dân, tỉ lệ mắc là 152/100.000 dân[27].
Theo Nguyễn Văn Đăng và cộng sự, tỉ lệ hiện mắc là 99,44/100.000 dân, tỉ lệ
mới mắc là 36/100.000 dân và tỉ lệ tử vong là 27/100.000 dân, tỉ lệ tai biến mạch
máu não của nam và nữ là: nam/nữ = 1,48/1.[13]
Lê Văn Thành khi nghiên cứu 1036 bệnh nhân tai biến mạch máu não trong 10

năm (1981 - 1990) đã thấy tỉ lệ nhồi máu não là 76%[27].
Kể từ tháng 9 năm 1997 đến tháng 6 năm 2000 tai khoa thần kinh bệnh viện
Bạch Mai đã tiếp nhận khoảng 1.220 bệnh nhân tai biến mạch máu não tuổi từ 11 -
89.[17]
Tỉ lệ di chứng nhẹ và vừa của tai biến mạch máu não là 68,42%, tỉ lệ di chứng
nặng là 27,69%, trong đó di chứng về vận động chiếm 92,96% tổng số bệnh nhân
liệt nửa ngời. Tỉ lệ tai biến mạch máu não đang sống tại cộng đồng có nhu cầu
phục hồi chức năng là 94%.[18]
1.3- Tình hình di chứng và tàn tật do tai biến mạch máu não trên thế giới và
Việt Nam:
1.3.1- Trên thế giới:
Theo WHO có từ 1/3 đến 2/3 ngời bệnh sống sót sau tai biến mạch máu não trở
thành tàn tật vĩnh viễn. Còn Hakett cho biết 61% ngời bệnh sống sót sau tai biến
mạch máu não để lại di chứng, 50% phải phụ thuộc ngời khác trong sinh hoạt hàng
ngày. [21]
Tại Pháp, có 50% tàn phế do tai biến mạch máu não.[21]
Theo David [15] các di chứng thờng gặp trong bộ máy vận động bao gồm:
+ Đau khớp vai bên liệt do không cử động đợc hết tầm chiếm 45% bệnh nhân
liệt nửa ngời.
+ Gập khớp khuỷu do cơ gập khuỷu ngắn lại chiếm 73%.
+ Gập khớp cổ tay ở phía lòng bàn tay do mất chức năng gập phía lng bàn tay
và duỗi các ngón tay chiếm 92%.
+ Quay sấp cổ tay bên liệt chiếm 75%.
+ Khớp gối bên liệt luôn duỗi gây khó khăn khi đi lại chiếm 88%.
+ Gân Achille ngắn lại gây "bàn chân rủ" chiếm 94%.
Theo Russell [15] 50% bệnh nhân sống sót sau tai biến mạch máu não bị tàn
tật.
Qua thời kỳ điều trị tại bệnh viện, căn cứ vào cuộc điều tra ở Framingham: 84%
ngời bệnh sống sót sau tai biến mạch máu não trở thành ít nhiều tàn phế, phải sống
ở nhà hoặc lệ thuộc vào ngời khác. [15]

1.3.2- VIệt Nam:
Theo Nguyễn Văn Đăng, di chứng nhẹ và vừa chiếm tỉ lệ cao 68,42%, di chứng
về vận động chiếm 92,62%.[14]
Theo Cao Minh Châu và cộng sự nghiên cứu thấy di chứng về vận động chiếm
tỉ lệ cao gồm: Đau khớp vai chiếm 69,88%, Quay sấp cẳng tay chiếm 73,49%, còn
gập phía lòng khớp cổ tay chiếm 87,95% và gập phía lòng khớp cổ chân chiếm
96,39%. [2]
Theo Trần Văn Chơng và cộng sự di chứng về vận động do tai biến mạch máu
não chiếm tỉ lệ cao, co rút gập mặt lòng cổ tay chiếm 87,90%, co rút gân gót bên
liệt chiếm 93,60%, quay sấp cẳng tay bên liệt chiếm 73,40% và khớp háng bên liệt
không gấp khi đi bình thờng chiếm 90,30%.[4]
1.4- Các nghiên cứu về TBMMN trên thế giới và Việt Nam:
1.4.1- Các nghiên cứu trên thế giới:
Theo Sveen U và cộng sự, mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày cao hay
thấp phụ thuộc không nhỏ vào tình trạng chức năng vận động nhiều hay ít.[53]
Yamashita K và cộng sự khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hởng đến mức độ độc
lập trong sinh hoạt hàng ngày ở những bệnh nhân TBMMN thấy hai yếu tố chính
ảnh hởng đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày là chỉ số mức độ độc lập
trong sinh hoạt hàng ngày ngay trớc khi tiến hành PHCN và khoảng thời gian kể từ
khi bệnh khởi phát đến khi bắt đầu tiến hành PHCN.[55]
Ishikawa R và cộng sự cho rằng phục hồi mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng
ngày liên quan mật thiết với nhóm tuổi, thời gian nằm viện, thị lực và khả năng
định hớng của bệnh nhân.[42]
Pederson P.M và cộng sự cho rằng các bệnh nhân TBMMN có khiếm khuyết về
định hớng sẽ ảnh hởng tới mức độ độc lập trong các sinh hoạt hàng ngày.[49]
Theo Jorgensen H.S và cộng sự tỉ lệ độc lập trong các sinh hoạt hàng ngày cao
hay thấp phụ thuộc vào mức độ TBMMN nặng hay nhẹ.[43] Mức độ TBMMN
càng nặng thì sự phục hồi về chức năng trong sinh hoạt hàng ngày càng khó khăn.
[44]
Okamusa T và cộng sự khi nghiên cứu sự tham gia của các kỹ thuật viên vật lý

trị liệu trong chơng trình PHCN dựa vào cộng đồng, thấy rằng việc tiến hành thờng
xuyên các chơng trình PHCN và sự tham gia của các kỹ thuật viên vật lý trị liệu có
tác dụng tốt cải thiện mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân.
[48]
Nakayama H và cộng sự khi nghiên cứu ảnh hởng của tuổi tới kết quả hồi phục
của TBMMN thấy rằng mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của ngời trẻ tuổi
phục hồi tốt hơn ngời cao tuổi.[47]
Tiến hành theo dõi 50 ngời dới 18 tuổi, Hurvitz E.A và cộng sự thấy tuổi trẻ là
yếu tố thuận lợi cho sự phục hồi về mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày.[39]
Nghiên cứu khác nhau trong hồi phục về chức năng theo giới của 165 ngời bệnh
sau 1 năm bị TBMMN Wyller T.B và cộng sự cho biết mức độ độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày của nam giới cao hơn so với nữ giới.[54]
Chae.J và cộng sự, nghiên cứu trên hai nhóm bệnh nhân chảy máu não và nhồi
máu não, sau PHCN thấy rằng mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày giữa hai
nhóm không có sự khác nhau.[28]
Một công trình nghiên cứu trong bệnh viện ở Anh, tổng kết dựa vào hỏi ngời
bênh sống sót sau TBMMN 3 tháng cho biết: Nếu ngời bệnh ngay từ đầu không tự
đi lại, mặc quần áo, ăn uống, ra khỏi giờng để tự ngồi vào ghế bánh thì số ngời
may mắn tự làm đợc việc đó tơng ứng là 65%, 68%, 54% và 68%: còn nếu ngời
bệnh có liệt tay sau 2 tuần không cử động đợc thì số ngời may mắn dùng lại đợc
cánh tay đó là 14%.[28]
Indredavik B và cộng sự nghiên cứu cho biết những ngời bị TBMMN đựơc áp
dụng điều trị và chăm sóc toàn diện khoảng 18,6 ngày nằm viện có: 56% là độc lập
hoàn toàn trong các sinh hoạt hàng ngày sau 6 tuần và tỉ lệ này là 60% sau 26 tuần
bị bệnh, còn đối với những ngời không đợc điều trị và chăm sóc toàn diện chỉ có
48% độc lập hoàn toàn trong các sinh hoạt hàng ngày sau 6 tuần và tỉ lệ này là
49,4% sau 28 tuần bị bệnh.[41]
Nghiên cứu và theo dõi 76 bệnh nhân TBMMN với thời gian PHCN từ 20 đến
171 ngày, Grimby G và cộng sự nhận thấy vào thời điểm kết thúc chơng trình có
20% số ngời sau TBMMN độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày và khoảng

50% cần trợ giúp.[38]
Schutte T và cộng sự tiến hành chơng trình PHCN cho 72 ngời sau TBMMN với
thời gian trung bình là 72,3 ngày thấy rằng 2 năm sau TBMMN có 76,6% tiến bộ
về chức năng vận động và 61,1% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày.[51]
Tiến hành chơng trình PHCN cho 277 bệnh nhân TBMMN với thời gian nằm
viện của nam giới là 57 32 ngày: của nữ giới là 68 40 ngày, Maehlum.S và
cộng sự cho biết có 88% các trờng hợp độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng
ngày khi ra viện.[45]
Samuelsson M và các cộng sự nghiên cứu 81 bệnh nhân nhồi máu não lần đầu
cho biết: với thời gian dới 3 năm sau TBMMN mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày chiếm từ 58% đến 64%; còn phụ thuộc hoàn toàn chiếm từ 12% đến
24%.[50]
Khi nghiên cứu, theo dõi những ngời sống sót sau TBMMN lần đầu tiên, để tìm
ra những vấn đề trong chơng trình PHCN dựa vào cộng đồng, Motegi A và cộng sự
cho biết 2 năm sau TBMMN có 62% độc lập hoàn toàn trong các sinh hoạt hàng
ngày.[46]
Bằng phơng pháp phỏng vấn qua điện thoại để nghiên cứu ảnh hởng của
TBMMN đối với chất lợng cuộc sống của 199 bệnh nhân TBMMN lần thứ nhất với
độ tuổi từ 17 - 49 tại cộng đồng, Alfassa S và cộng sự cho thấy có 86% các trờng
hợp độc lập hoàn toàn trong các sinh hoạt hàng ngày sau 1 năm bị bệnh, không có
sự thay đổi có ý nghĩa về mức độ độc lập trong các sinh hoạt hàng ngày ở những
năm tiếp theo và họ cho rằng cần phải phát triển mạnh mẽ chơng trình PHCN dựa
vào cộng đồng.[31]
Tiến hành theo dõi 129 ngời sau TBMMN đã nằm viện điều trị trung bình 45,6
ngày và 1/3 các đối tợng này đã đợc điều trị PHCN với thời gian trung bình là 72,3
ngày, Belanger L và cộng sự cho biết, 6 tháng sau TBMMN có 43% độc lập hoàn
toàn và 47,5% cần có sự trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày.[34]
Indredavik B và cộng sự nghiên cứu 220 bệnh nhân TBMMN đợc chia thành 2
nhóm, mỗi nhóm 110 bệnh nhân, trong đó 1 nhóm đợc can thiệp PHCN, còn 1
nhóm không có can thiệp PHCN, kết quả 10 năm sau TBMMN cho thấy: trong số

những ngời còn sống ở nhóm có can thiệp PHCN có 51,85% độc lập hoàn toàn
trong sinh hoạt hàng ngày, tỉ lệ cần sự trợ giúp và phụ thuộc hoàn toàn trong sinh
hoạt hàng ngày chiếm 48,15%; còn ở nhóm không can thiệp điều trị PHCN chỉ có
42,86% độc lập hoàn toàn; 57,14% cần sự trợ giúp và phụ thuộc hoàn toàn trong
sinh hoạt hàng ngày.[40]
Jorgensen và cộng sự khi tiến hành chơng trình PHCN cho bệnh nhân TBMMN
với thời gian trung bình là 37 ngày sau khi kết thúc chơng trình, thấy tỉ lệ các đối t-
ợng có chỉ số Barthel dới 70 điểm chiếm từ 25% - 50%[43] và với thời gian 6
tháng sau TBMMN chỉ có 4% độc lập hoàn toàn đối với TBMMN rất nặng, 13%
độc lập hoàn toàn đối với TBMMN nặng và 37% đối với TBMMN trung bình, còn
đối với TBMMN nhẹ có 68%độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày.[44]
Tiến hành chơng trình vật lý trị liệu 3 tháng cho 28 ngời có thời gian từ 6 - 12
tháng sau TBMMN, Sonde L và cộng sự thấy rằng sau 3 năm chỉ số Barthel của
các trờng hợp này là 78,1 16,6.[52]
Năm 1990, Loewen S.C và Anderson B.A tiến hành nghiên cứu tại trung tâm
vật lý và thần kinh học Canada những bệnh nhân sau đột quỵ đợc sử dụng thang
điểm Barthel để đánh giá sự thay đổi của quá trình PHCN ở tay và chân. Kết quả là
không có sự thay đổi rõ rệt sau 3 ngày và 1 tuần mà sau 1 tháng mới có sự thay đổi
rõ rệt thể hiện ở mẫu vận động khi đi lại.[28]
1.4.2- Các nghiên cứu tại Việt Nam:
Nguyễn Thuỳ Hơng cho biết, di chứng của TBMMN thờng là liệt nửa ngời, do
đó ảnh hởng lớn đến sinh hoạt hàng ngày.[19]
Theo Nguyễn Xuân Nghiên và cộng sự với chơng trình PHCN dựa vào cộng
đồng có 43,5% ngời tàn tật hội nhập xã hội [25] còn khi tìm hiểu nhận thức nhu
cầu và nguyện vọng của ngời tàn tật qua chơng trình PHCN dựa vào cộng đồng tại
3 tỉnh: Thái Bình, Nam Hà, Hoà Bình thấy rằng sự tiến bộ về mặt tinh thần, xã hội
và thể chất là đáng ghi nhận tỉ lệ sức khoẻ của ngời tàn tật đợc cải thiện là 75,5%,
ngời tàn tật có thể chăm sóc bản thân nhiều hơn là 54,4% từ khi tham gia vào ch-
ơng trình PHCN dựa vào cộng đồng.[24]
Cao Minh Châu và cộng sự qua nghiên cứu tổng kết 83 trờng hợp liệt nửa ngời

tại các huyện triển khai chơng trình PHCN dựa vào cộng đồng có sử dụng dụng cụ
PHCN thấy rằng chức năng của ngời tàn tật đợc cải thiện, để phòng đợc các di
chứng nặng nề , các biến dạng ở cổ tay, cổ chân so với nơi không có chơng trình
PHCN dựa vào cộng đồng[1] và 81,4% bệnh nhân liệt nửa ngời có sử dụng dụng cụ
PHCN thì tình trạng tàn tật đợc cải thiện rõ rệt[2]
Theo Dơng Xuân Đạm PHCN vận động cho ngời sau TBMMN là một quá trình
lâu dài, chủ yếu là tại cộng đồng, thời gian khoảng từ 12 - 18 tháng.[11]
Ngô Đăng Thục khi nghiên cứu 43 bệnh nhân tắc mạch máu não hệ động mạch
cảnh trong thấy rằng: 90,7% các trờng hợp đều tiến triển tốt, đều tự đi lại đợc, tùy
mức độ có thể tự phục vụ trong sinh hoạt cá nhân cho đến mức độ tiếp tục làm việc
và công tác nh trớc [28] và khi tiến hành theo dõi và điều trị cho 30 bệnh nhân
nhồi máu não bằng các thuốc Cavinton, thấy rằng 8 tuần sau TBMMN: 67% các
đối tợng có chỉ số Barthel từ 70 - 89 điểm và không có trờng hợp nào đạt đợc 90 -
100 điểm.[29]
Nguyễn Văn Đăng cho biết, sau TBMMN thì 15,7% còn cố gắng tự phục vụ đ-
ợc, 33,08% cần sự giúp đỡ 1 phần và 51,15% phụ thuộc hoàn toàn trong sinh hoạt
hàng ngày.[15]
Phạm Văn Phú đánh giá tình hình PHCN trong sinh hoạt hàng ngày tại tỉnh
Thái Bình thấy rằng: Mức độ độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày chiếm
46,84%, mức độ cần trợ giúp là 47,21%, mức độ phụ thuộc hoàn toàn chiếm tỉ lệ
thấp 5,95%. Mức độ phụ thuộc hoàn toàn của nữ giới cao hơn nam giới.[26]
2: đối tợng và phơng pháp nghiên cứu
1.Đối t ợng nghiên cứu:
1.1.Nhóm I: Nhóm can thiệp PHCN:
1.1.1.Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
Bệnh nhân đợc chẩn đoán TBMMN có triệu chứng liệt nửa ngời dựa vào lâm sàng
và cận lâm sàng.
Bệnh nhân bị TBMMN lần đầu tiên.
Khi vào viện bệnh nhân tỉnh hoàn toàn: Glasgow 15 điểm
Bệnh nhân đợc can thiệp trực tiếp PHCN vận động tại bệnh viện ít nhất 15 ngày

và có sự hớng dẫn tập luyện khi về nhà.
1.1.2.Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân:
Bệnh nhân liệt nửa ngời nhng không do TBMMN.
Bệnh nhân bị TBMMN không có liệt nửa ngời.
Bệnh nhân bị TBMMN lần thứ hai trở đi.
Bệnh nhân vào viện trong tình trạng rối loạn ý thức: Glasgow < 15 điểm.
1.2. Nhóm II: Nhóm chứng:
1.2.1.Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm chứng:
Bệnh nhân đợc chẩn đoán TBMMN có triệu chứng liệt nửa ngời dựa vào lâm sàng
và cận lâm sàng.
Bệnh nhân bị TBMMN lần đầu tiên.
Khi vào viện bệnh nhân tỉnh hoàn toàn: Glasgow 15 điểm.
Bệnh nhân không đợc can thiệp trực tiếp PHCN vận động hay hớng dẫn của bác sĩ
chuyên khoa PHCN nhng vẫn đợc điều trị nội khoa thần kinh.
1.2.2.Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân liệt nửa ngời không do TBMMN.
Bệnh nhân bị TBMMN không có liệt nửa ngời.
Bệnh nhân bị TBMMN lần thứ hai trở đi.
Bệnh nhân vào viện trong tình trạng rối loạn ý thức: Glasgow < 15 điểm.
2. Ph ơng pháp nghiên cứu:
Phơng pháp đánh giá lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
Chúng tôi có thể tóm tắt quá trình nghiên cứu nh sau:
Nhóm nghiên cứu
Nhóm chứng
Xác định mẫu bệnh án
Nghiên cứu giống nhau
Chẩn đoán xác định liệt nửa
người do TBMMN
Lượng giá chức năng
Điều trị nội khoa thần kinh và

tiến hành PHCN trong bệnh
viện
Điều trị nội khoa thần kinh
trong bệnh viện
Tiếp tục theo dõi và hướng dẫn
điều trị PHCN tập vận động tại
nhà
Bệnh nhân và gia đình tự
luyện tập vận động, tập không
có hướng dẫn của bác sỹ
chuyên khoa
Sử dụng chỉ số Barthel để đánh giá
kết quả sau: 30; 60; 90 ngày
So sánh kết quả thu được giữa 2 nhóm
3.Cì mÉu:
Chän ngÉu nhiªn mçi nhãm víi N ≥ 30 bÖnh nh©n.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn: Nhóm can thiệp PHCN với n = 30 bệnh
nhân <nhóm I> và nhóm chứng với n = 32 bệnh nhân <nhóm II>
4.Phơng pháp xử lý số liệu:
Sử dụng thuật toán thống kê y học khi bình phơng (
2
) và xử lý kết quả thu đợc
bằng chơng trình Epi-info 6.0.
phần 3: kết quả nghiên cứu
B¶ng 3.1. Ph©n bè bÖnh nh©n theo tuæi vµ giíi
ë nhãm I
Tuæi Nam N÷ Tæng sè
n % n % n %
16 -> 44 2 6,7 1 3,3 3 10,0
45 -> 59 7 23,3 3 10,0 10 33,3

60 -> 75 6 20,0 8 26,7 14 46,7
> 75 1 3,3 2 6,7 3 10,0
Tæng sè 16 53,3 14 46,7 30 100
NhËn xÐt: Trong sè 30 bÖnh nh©n: bÖnh nh©n tuæi thÊp nhÊt lµ 40; cao nhÊt lµ 80.
sè bÖnh nh©n trong nhãm tuæi 60 -> 75 chiÕm tØ lÖ cao nhÊt (46,7%).
6.7
3.3
23.3
10
20
26.7
3.3
6.7
0
5
10
15
20
25
30
16->44 45->59 60->75 > 75
Nam N÷
Biểu đồ 3.1: Phân bố bệnh nhân theo tuổi và
giới ở nhóm I
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới
ở nhóm II
Tuổi Nam Nữ Tổng số
n % n % n %
16 -> 44 1 3,1 0 0 1 3,1
45 -> 59 7 21,9 4 12,5 11 34,4

60 -> 75 10 31,3 7 21,9 17 53,2
> 75 1 3,1 2 6,2 3 9,3
Tổng số 19 59,4 13 40,6 32 100
Nhận xét: trong số 32 bệnh nhân chỉ có 1 bệnh nhân dới 44 tuổi. Số bệnh nhân
trong nhóm tuổi 60 ->75 chiếm tỷ lệ cao nhất (53,2%).
3.1
0
21.9
12.5
31.3
21.9
3.1
6.2
0
5
10
15
20
25
30
35
16->44 45->59 60->75 > 75
Nam Nữ
Biểu đồ 3.2. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới ở nhóm II
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân theo định khu tổn thơng bên liệt ở
nhóm I
Vị trí liệt Nam Nữ Tổng số
n % n % n %
Liệt bên phải 10 33,3 6 20,0 16 53,3
Liệt bên trái 6 20,0 8 26,7 14 46,7

Tổng số 16 53,3 14 46,7 30 100
Nhận xét:
Số bệnh nhân liệt bên phải và liệt bên trái chiếm tỉ lệ tơng đơng nhau trong nhóm
nghiên cứu, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05).

53.3
46.7
Bên phải
Bên trái
Biểu đồ 3.3. Phân bố bệnh nhân theo định khu tổn thơng bên liệt ở
nhóm I
Bảng 3.4. Phân bố bệnh nhân theo định khu tổn thơng bên liệt ở
nhóm II
Vị trí liệt Nam Nữ Tổng số
n % n % n %
Liệt bên phải 10 31,3 5 15,6 15 46,9
Liệt bên trái 9 28,1 8 25,0 17 53,1
Tổng số 19 59,4 13 40,6 32 100
Nhận xét:
Số bệnh nhân liệt bên phải và liệt bên trái chiếm tỉ lệ tơng đơng nhau trong nhóm
chứng, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
46.9
53.1
Bên phải
Bên trái
Biểu đồ 3.4. Phân bố bệnh nhân theo định khu tổn thơng bên liệt ở
nhóm II
Bảng 3.5. Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân liệt nửa ngời ở
nhóm I

Nguyên nhân
liệt nửa ngời
Nam Nữ Tổng số
n % n % n %
Xuất huyết não 4 13,3 4 13,4 8 26,7
Nhồi máu não 12 4,0 10 33,3 22 73,3
Tổng số 16 53,3 14 46,7 30 100
Nhận xét: Trong số 30 bệnh nhân có: 8 bệnh nhân xuất huyết não chiếm tỷ lệ
26,7%. Số bệnh nhân nhồi máu não là 22 chiếm tỷ lệ 73,3%. Số bệnh nhân nhồi
máu não nói chung cũng nh nói riêng cho từng giới đều cao hơn số bệnh nhân xuất
huyết não.
73.3
26.7
Xuất huyết não
Nhồi máu não
Biểu đố 3.5. Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân liệt nửa ngời ở
nhóm I
Bảng 3.6. Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân liệt nửa ngời ở
nhóm II
Nguyên nhân
liệt nửa ngời
Nam Nữ Tổng số
n % n % n %
Xuất huyết não 5 15,6 4 12,5 9 28,1
Nhồi máu não 14 43,8 9 28,1 23 71,9
Tổng số 19 59,4 13 40,6 32 100
Nhận xét: Trong số 32 bệnh nhân có: 9 bệnh nhân xuất huyết não chiếm tỷ lệ
28,1%. Số bệnh nhân nhồi máu não là 23 chiếm tỷ lệ 71,9%. Số bệnh nhân nhồi
máu não nói chung cũng nh nói riêng cho từng giới đều cao hơn số bệnh nhân xuất
huyết não.

71.9
28.1
Xuất huyết não
Nhồi máu não
Biểu đố 3.6. Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân liệt nửa ngời ở
nhóm II
Bảng 3.7 Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi đột quỵ đến khi bắt đầu đ-
ợc tập luyện PHCN.
Thời gian bắt đầu
tập luyện PHCN
Xuất huyết não Nhồi máu não Tổng số
n % n % n %
1 -> 6 tuần 6 20,0 12 40,0 18 60,0
7 -> 12 tuần 1 3,3 6 20,0 7 23,3
Sau 12 tuần 1 3,4 4 13,3 5 16,7
tổng số 8 26,7 22 73,3 30 100
Nhận xét: trong số 30 bệnh nhân:
Có 18 bệnh nhân đợc tập luyện PHCN trong 6 tuần đầu chiếm 60,0%. Số bệnh
nhân đợc tập luyện PHCN sau 12 tuần chiếm tỉ lệ thấp (16,7%). Số bệnh nhân bắt
đầu đợc tập luyện PHCN từ 1 -> 6 tuần chiếm tỉ lệ cao nhất ở cả nhóm bệnh nhân
xuất huyết não nh nhóm bệnh nhân nhồi máu não.
20
3.3
3.4
40
20
13.3
0
5
10

15
20
25
30
35
40
45
50
Xuất huyết não Nhồi máu não
1->6 tuần
7->12 tuần
Trên 12 tuần
Biểu đồ 3.7. Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi đột quỵ đến khi bắt đầu
đợc tập luyện PHCN.
Bảng 3.8. Phân bố bệnh nhân theo thời gian tập luyện PHCN.
Thời gian tập
luyện PHCN
Xuất huyết não Nhồi máo não Tổng số
n % n % n %
2 -> 4 tuần 2 6,7 8 26,6 10 33,3
Trên 4 tuần 6 20,0 14 46,7 20 66,7
Tổng số 8 26,7 22 73,3 30 100
Nhận xét: Trong số 30 bệnh nhân : Số bệnh nhân đợc tập luyện PHCN trên 4 tuần
là 20 bệnh nhân (chiếm 66,7%), dới 4 tuần là 10 bệnh nhân (chiếm 33,3%). Số
bệnh nhân đợc tập luyện PHCN trên 4 tuần chiếm tỉ lệ cao hơn ở cả nhóm bệnh
nhân xuất huyết não cũng nh nhồi máu não.

×