Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan niệm ,nguyên tắc, hai cấp xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.03 KB, 10 trang )

I. Quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử
1. Khái niệm cấp xét xử
1
Trong Luật TTDS cũng như tổ chức tư pháp người ta thường đề cập tới cấp
xét xử. Tuy nhiên, thế nào là cấp xét xử lại chưa được đề cập đến trong khoa học
pháp lý nước ta. Trong khoa học pháp lý Liên xô cũ, người ta quan niệm cấp xét xử
như là “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền xác định”
(1)
. Quan niệm
này cũng được nhận thức tương đối phổ biến trong khoa học pháp lý nước ta. Xuất
phát từ đây, người ta cho rằng trong tố tụng tồn tại các cấp xét xử là xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo quan niệm này thì
cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng chung, thể hiện một giai đoạn xét xử nhất
định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính
v.v.. Nhưng, khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm tố tụng đơn thuần. Cấp
xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về xét xử các
vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo
vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Vì vậy, các quốc gia đều áp dụng nguyên
tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Tòa án để thực
hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng;
nó còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Tòa án để thực hiện việc
xét xử lại vụ án.
2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc hai cấp xét xử và thủ tục tố tụng
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng. Cấp xét xử và thủ tục xét xử là hai
khái niệm khác nhau, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Nguyên tắc hai
cấp xét xử là quan điểm chung có hướng chỉ đạo trong tổ chức tố tụng; còn thủ tục
tố tụng là quy định cần tuân thủ để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Nguyên tắc
hai cấp xét xử được tổ chức thực hiện bằng các quy định cụ thể của thủ tục tố tụng
trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia. Thủ tục tố tụng quy định càng chính xác
thì nguyên tắc này càng phát huy hiệu quả của nó trong bảo đảm xét xử đúng đắn,
khách quan vụ án và bảo vệ có hiệu quả các quyền tự do dân chủ của công dân, đặc


biệt là của những người tham gia tố tụng.
3. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong các hệ thống pháp luật và
trong pháp luật Việt Nam
3.1. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong các hệ thống pháp luật
Trước hết, các nước theo hệ thống tranh tụng như Anh, Hoa Kỳ không áp
dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, mà ngược lại áp dụng nguyên tắc đặc trưng là xét
xử chung thẩm. Tức là các bản án, quyết định sau khi ban hành sẽ mặc nhiên được
1
(1) . Trích tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2007, nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó
vào việc tổ chức tòa án các cấp.
2
thừa nhận là giải pháp cuối cùng và có hiệu lực pháp luật ngay, trừ những trường
hợp đặc biệt vi phạm về thủ tục tố tụng hoặc những sai lầm về mặt pháp lý thì sẽ
được tòa phúc thẩm xem xét lại
(1)
. Tuy nhiên tòa phúc thẩm cũng chỉ xem xét lại về
mặt pháp lý và thủ tục chứ không xét lại những nội dung sự kiện đã được bồi thẩm
đoàn quyết định tại tòa sơ thẩm. Sở dĩ các nước theo mô hình tranh tụng không áp
dụng nguyên tắc hai cấp xét xử là vì quan niệm về vai trò, ý nghĩa của bồi thẩm
đoàn tham gia tố tụng ở các nước này. Trong những vụ án dân sự phức tạp hoặc
tranh chấp có giá trị lớn đều có bồi thẩm đoàn tham gia phiên tòa sơ thẩm. Nếu vụ
án dân sự xét xử có bồi thẩm đoàn thì tại phiên tòa, bồi thẩm đoàn chỉ xem xét và
quyết định về những vấn đề sự kiện còn những nội dung pháp lý sẽ do thẩm phán
quyết định.
Trái lại, các nước theo mô hình tố tụng thẩm xét thì nguyên tắc đặc trưng lại
là hai cấp xét xử. Cơ sở lý luận cho việc áp dụng nguyên tắc này là:
Thứ nhất, với quan niệm rằng thẩm phán mặc dù được đào tạo chuyên môn
về luật pháp, có kinh nghiệm xét xử v.v.. Nhưng họ cũng có thể mắc những sai lầm
do trình độ, nhận thức hoặc cảm tính cá nhân. Để khắc phục những sai sót có thể
xảy ra đó, pháp luật tạo điều kiện cho các đương sự sau khi xét xử lần đầu (sơ

thẩm) có cơ hội yêu cầu tòa áp cấp trên xem xét lại một lần nữa (phúc thẩm). Tòa
án cấp trên với hội đồng xét xử có số lượng thẩm phán nhiều hơn, có kinh nghiệm
hơn sẽ là đảm bảo tốt hơn cho vụ án được giải quyết công bằng, khách quan.
Thứ hai, nguyên tắc bản án, quyết định có thể bị xem xét lại còn có tác dụng
nâng cao tinh thần trách nhiệm của các thẩm phán sơ thẩm. Thực vậy, với khả năng
các phán quyết của mình có thể sẽ bị phúc thẩm để xem xét lại sẽ làm cho họ cảnh
giác hơn, thận trọng hơn. Mặt khác, nếu thẩm phán bị phát hiện có nhiều sai lầm
trong nghiệp vụ sẽ là một dấu ấn không tốt cho việc thăng tiến trong tương lai hoặc
tái bổ nhiệm.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc được xác định trong tố tụng hiện
đại. Nguyên tắc này được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đặc biệt là Công
ước về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc, Quy chế về Toà án hình sự
quốc tế.
3.2. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong pháp luật Việt Nam
Trước năm 2004, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử theo hai cấp được quy
định tại Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960 (Điều 9) và Sắc lệnh số 01/SL/76
ngày 15/3/1976 của Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam quy định về tổ chức tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân (Điều 8),
2
1
. Nguồn: />%C3%A9t+x%E1%BB%AD&hl=vi&source=hp&aq=f&aqi=g1&aql=&oq=&gs_rfai=
nhưng từ khi Luật tổ chức tòa án năm 1980 ban hành thì không quy định nữa. Đến
năm 2002, nguyên tắc này lại được quy định tại Điều 11 LTCTAND. Và khi
BLTTDS năm 2004 được ban hành thì hai cấp xét xử mới chính thức được quy
định là một trong những nguyên tắc cơ bản (tại Điều 17 BLTTDS). Tuy vậy, những
nội dung cơ bản của nguyên tắc này trong BLTTDS 2004 hầu như không có sự
thay đổi so với các văn bản pháp luật TTDS trước đây. Nguyên tắc hai cấp xét xử
được quy định tại các Điều 17, 245, 247, 252 BLTTDS với nội dung cơ bản là: xác
định việc xét xử vụ án dân sự được thực hiện ở 2 cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm;
bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp phúc thẩm
phải xét xử lại vụ án. Bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm không thể bị
kháng cáo, kháng nghị mà có hiệu lực pháp luật ngay. Nội dung (phạm vi) phúc
thẩm là chỉ xét lại những nội dung do đương sự kháng cáo và bị giới hạn bởi phạm
vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết và những bản án, quyết định của tòa án có hiệu
lực pháp luật phải được mọi chủ thể tuyệt đối chấp hành.
4. Các quy định của pháp luật trong thực hiện chế độ hai cấp xét xử
4.1. Cấp sơ thẩm (cấp thứ nhất)
Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả
các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét
xử không thể thiếu và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm
túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó vụ
án sẽ không bị kéo dài. Hoặc giả sử, nếu bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị để
xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và
tiền của của Nhà nước cũng như của những người tham gia tố tụng.
4.2. Cấp phúc thẩm (cấp thứ hai)
Cấp phúc thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ hai. Không
phải tất cả các vụ án đã xét xử sơ thẩm đều phải tiến hành qua cấp phúc thẩm, chỉ
những vụ án đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì mới phải tiến hành
qua cấp phúc thẩm. Pháp luật quy định có cấp phúc thẩm là xuất phát từ việc tôn
trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Mặt
khác, xuất phát từ việc các phán quyết của Tòa án trước khi có hiệu lực pháp luật
phải được xem xét một cách thận trọng.
Khác với cấp sơ thẩm, pháp luật tố tụng quy định thẩm quyền của hội đồng
xét xử phúc thẩm rất rõ và cụ thể tại Điều 275 của BLTTDS. Bản án của cấp phúc
thẩm có hiệu lực thi hành ngay, là bản án cuối cùng và kết thúc quá trình giải quyết
vụ án dân sự. Điều này hoàn toàn đúng và phù hợp với nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử đã được BLTTDS quy định tại Điều 17.

4.3. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Ngoài cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, pháp luật còn quy định một thủ tục đặc
biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm (vì giám đốc thẩm và tái thẩm đều là thủ tục đặc
biệt, có nhiều điểm giống nhau nên em xin chỉ phân tích thủ tục giám đốc thẩm).
Điều 282 của BLTTDS quy định “giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có nêu: “từng bước hoàn
thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ
kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án
hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Việc quy định thủ tục giám
đốc thẩm trong pháp luật tố tụng là nhằm bảo đảm nguyên tắc pháp chế và nguyên
tắc công bằng xã hội trong hoạt động xét xử, để cho tất cả các bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tuyệt đối không được trái pháp luật. Trong
thẩm quyền của mình, hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại. Lý do để
“hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử
phúc thẩm lại” được quy định tại Điều 299 của BLTTDS.
II. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng dân sự
1. Thực trạng về thủ tục TTDS khi áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử ở nước ta hiện nay chưa
được thực hiện tốt, các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này đã và
đang bộc lộ những điểm chưa hợp lý dẫn đến vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử,
ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và làm kéo dài quá trình tố tụng.
Các quy định về xét xử cấp sơ thẩm trong BLTTDS đã làm xuất hiện tình
trạng một số người tiến hành tố tụng cho rằng “cứ xét xử, sai đã có cấp phúc thẩm
xét xử lại”, từ đó thiếu cương quyết, dứt khoát, ỷ lại và lệ thuộc vào cấp phúc thẩm.
Còn những người tham gia tố tụng lại coi “cấp sơ thẩm muốn xét xử thế nào cũng
được, nếu đạt được ý nguyện thì thôi, nếu không đạt được ý nguyện thì kháng cáo,

cấp phúc thẩm xét xử mới có hiệu lực pháp luật thi hành ngay”.
Các quy định về xét xử phúc thẩm khi mà BLTTDS quy định về thẩm quyền
thứ ba của hội đồng xét xử phúc thẩm là “hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ
án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án”. Từ đó, dẫn đến nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định trong BLTTDS không phải chỉ qua hai
phiên tòa. Và cũng không có một điều luật nào quy định trong BLTTDS là vụ án đã
bị xét xử ở cấp phúc thẩm tới lần thứ mấy thì hội đồng xét xử phúc thẩm không có
quyền “hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án”. Có nghĩa là, một vụ án có thể bị đưa ra xét xử bao nhiêu lần ở mỗi
cấp cũng được, đồng nghĩa với việc xét xử không có hồi kết thúc. Xét theo một
khía cạnh nào đó, việc xét xử đi, xét xử lại là điều kiện tốt để Tòa án tìm kiếm được
một quyết định thực sự đúng đắn cho việc giải quyết vụ án, không làm thiệt hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Nhưng với cách thức mà pháp luật
quy định, thì không biết Tòa án phải cần tới bao nhiêu lần xét xử để đạt được mục
đích? Đồng thời, cũng làm cho nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và ý
nghĩa cơ bản của nó bị phá vỡ. Nguyên nhân của việc này lại không phải bắt nguồn
từ thực tế là dân sự vốn dĩ đã quá phức tạp, mà lại có nguồn gốc sâu xa ngay từ
trong những quy định và không quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Những quy
định về thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm hiện hành đã tiềm ẩn nguy cơ
cho một vụ án có thể bị xét xử nhiều lần bởi thẩm quyền “hủy bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án”. Như chúng ta đã
biết, lý do để “hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết lại vụ án” được quy định tại Điều 277 của BLTTDS là:
Thứ nhất, do “việc chứng minh và thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm không
đúng theo quy định hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa cấp phúc
thẩm không thể thực hiện bổ sung được”. Về quy định này, vấn đề đặt ra là tại sao
cấp phúc thẩm lại không thu thập, bổ sung thêm những nội dung còn thiếu trước
khi mở phiên tòa, trong khi việc này không phải là cấp phúc thẩm không làm được.
Thứ hai, do “thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng theo quy
định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” mặc dù

biết rằng, nếu cấp sơ thẩm khi bị buộc phải xét xử lại sẽ khắc phục được các vi
phạm, sẽ bảo đảm được đầy đủ về mặt thủ tục, thì kết quả xét xử vẫn không thay
đổi. Vì vậy, đây là một quy định cứng nhắc. Trước đây tại Công văn số 196/NCPL
ngày 24/02/1965 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về một số vấn đề thủ tục
tố tụng đã có nêu: nếu những thiếu sót đó (về thủ tục tố tụng) không nghiêm trọng
thì Tòa án phúc thẩm lưu ý Tòa án cấp dưới để rút kinh nghiệm, tránh sai sót về
sau, nhưng tinh thần đó đến nay không được tiếp thu. Vì vậy, bản án cấp sơ thẩm
có những sai sót về thủ tục tố tụng phải chịu một hậu quả giống như bản án có sai
lầm về nội dung: bị hủy bỏ và phải xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Em cho rằng,
điều này là không hợp lý.

×