Đô thị Việt Nam có những đặc điểm gì khác đô thị phương Tây?
Và làm gì để các đô thị Việt Nam là "đầu tàu" của sự phát triển
đất nước?
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, đô thị luôn là động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Đô thị hoá được xem là vấn đề hết sức hiện
nay đối với Việt Nam. Cùng với quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của
các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quá trình đô thị hóa đã và đang góp phần làm
thay đổi bộ mặt của đất nước ta. Tuy nhiên, đô thị Việt Nam trong lịch sử rất
kém phát triển. Để hiểu được nguyên nhân của sự kiện này, em đã tìm hiểu và
làm đề tài: Đô thị Việt Nam có những đặc điểm gì khác đô thị phương Tây?
Và làm gì để các đô thị Việt Nam là "đầu tàu" của sự phát triển đất nước?
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Khái niệm đô thị:
Đô thị là một hình thức tồn tại của xã hôi loài người trong phạm vi không gian -
xã hội mang tính cụ thể về mặt lịch sử, là hình thức tổ chức cư trú của con người,
được đặc trưng bởi các chỉ báo sau:
_ Số lượng dân cư tập trung trên một phạm vi lãnh thổ hạn chế (mật độ dân số
cao).
_ Đại bộ phận dân cư làm các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp.
_ Là môi trường sống trực tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của xã hội và cá nhân.
_ Giữ vai trò chủ đạo đối với các vùng nông thôn xung quanh và với toàn xã hội
nói chung.
II. Sự khác nhau giữa đô thị Việt Nam với đô thị phương Tây:
Có ba đặc điểm khiến cho đô thị Việt Nam có diện mạo trái ngược hẳn so với đô
thị phương Tây:
(1). Trong khi đô thị ở Việt Nam không nảy sinh bằng con đường phát triển tự
nhiên, tức không phải là hệ quả của sự phát triển tiểu thủ công nghiệp và thương
mại, mà trái lại là do Nhà nước khai sinh ra. Còn hầu hết đô thị phương Tây đều
hình thành một cách tự phát nếu có một trong ba đội hình sau: (a)là nơi tập trung
đông dân; (b)có sản xuất công nghiệp; (c)là nơi tập trung buôn bán (ba nguyên
nhân này liên quan chặt chẽ với nhau). Cũng có trường hợp đô thị phương Tây
do nhà nước sinh ra (như Peterburg), nhưng đã có tính đến yếu tố giao thông và
kinh tế, vì vậy, đã phát triển rất tốt sau khi hình thành.
(2). Về chức năng, trong khi đô thị của ta thực hiện chức năng hành chính là chủ
yếu thì đô thị phương Tây thực hiện chức năng kinh tế là chủ yếu. Khi nhà nước
có nhu cầu mở trung tâm hành chính thì họ thường chọn một trong những đô thị
có sẵn.
(3). Về mặt quản lí, trong khi đô thị của ta do Nhà nước quản lí thì đô thị
phương Tây là tổ chức tự trị. Đó là một truyền thống rất lâu đời ở phương Tây.
Từ thời Hi Lạp cổ đại đã tồn tại các thị quốc (đô thị - quốc gia) với những hoạt
động chủ nghĩa hoàn toàn độc lập, nằm ngoài quyền lực của các lãnh chúa phong
kiến và có hiến chương riêng; các thị dân tự bầu ra Hội đồng thành phố và thị
trưởng cho mình.
Như vậy, trong khi ở phương Tây, làng xã là cái "bao tải khoai tây" rời rạc,
còn đô thị là một tổ chức tự trị vững mạnh thì, ngược lại, ở Việt Nam làng xã
nông nghiệp là một tổ chức tự trị vững mạnh, còn đô thị lại yếu ớt, lệ thuộc. Đó
là một bức tranh mang tính quy luật tất yếu do sự khac biệt của hai loại hình văn
hóa quy định: ở nền văn hóa Việt Nam nông nghiệp trọng tĩnh, làng xã trung
tâm, là sức mạnh, là tất cả cho nên làng xã có quyền tự trị. Còn ở các nền văn
hóa châu Âu sớm phát triển thương mại và công nghiệp, thì hiển nhiên là đô thị
tự trị và có uy quyền.
III. Làm gì để các đô thị Việt Nam là "đầu tàu" của sự phát triển
đất nước?
1. Tình hình phát triển của đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay:
Phát triển và tăng trưởng đô thị ở Việt Nam nhìn chung là muộn và chậm
hơn so với một số nước ở khu vực. Phát triển không đồng đều giữa các vùng và
chênh lệch nhiều giữa các khu vực khác nhau về đặc điểm, địa lý. Đồng bằng,
duyên hải phát triển nhanh, vùng núi, vùng cao phát triển chậm. Mức sống của
đô thị và nông thôn chênh lệch lớn. Đô thị bị quá tải dồn ép ở tất cả các mặt từ
hạ tầng kỹ thuật và cả hạ tầng xã hội.
Trong 20 năm đổi mới hệ thống đô thị Việt Nam đã có những thành tựu nhất
định, cho đến nay diện tích đất toàn đô thị là 48.965 km2 chiếm 14,78% tổng
diện tích đất tự nhiên của cả nước; trong đó đất nội thị là 14.104 km2 (chiếm
4,26%) đất ngoại thị là 34.861 km2 (chiếm 10,52%). Dân số toàn đô thị là
31,695 triệu người chiếm 37,0% dân số cả nước, dân số nội thị là 25,990 triệu
người chiếm 30,5%; dân số ngoại thị là 5,602 triệu người chiếm 6,5%. Mạng
lưới đô thị quốc gia đã đang được mở rộng và phát triển tại các vùng, dọc theo
các trục hành lang kinh tế - kỹ thuật quốc gia, quốc tế quan trọng. Đến tháng
6/2009 cả nước có 747 đô thị, trong đó: loại đặc biệt là 2 (Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh); loại I là 7; loại II là 13; loại III là 44; loại IV là 44 và loại V là 637. Có
một sự mất cân đối lớn trong sự phân bố các đô thị loại IV và loại V Các khu đô
thị mới cũng phát triển mạnh mẽ đóng góp không nhỏ cho quỹ nhà của đô thị, và
tạo cảnh quan, nâng cao chất lượng sống của người dân đô thị. Tổng số khu đô
thị mới có quy mô 20ha đến trên 1.000ha là 486 khu với diện tích theo quy
hoạch dự kiến là 74.057 ha. Trung bình một tỉnh có khoảng 7-8 khu đô thị mới
với diện tích khoảng 1.175,5 ha. Trung bình một khu đô thị mới có diện tích
khoảng 152ha
Điều đáng nói ở đây là đô thị hoá vừa là bạn đồng hành vừa là bà đỡ cho mọi
quốc gia trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy chúng ta
phải biết kiên nhẫn, biết đón đợi các thách thức và vận hội mới trong quá trình
vận động tăng trưởng kinh tế đất nước và phát triển đô thị.
2. Các biện pháp để đô thị Việt Nam trở thành "đầu tàu" của sự
phát triển đất nước:
Việc nhận dạng quy luật phát triển đô thị là bài toán tổng hợp, bài toán cực
kỳ khó khăn phức tạp. Vì vậy đòi hỏi có những nghiên cứu cẩn trọng, nghiêm túc
và khoa học, từ phía Nhà nước, các Bộ, ngành. ở đây cũng cần phải nói rằng:
trước đây khi nhận thức chưa đầy đủ về sự vật (mà sự vật vốn khách quan trong
mọi lí lẽ), do chủ quan, duy ý chí mà dẫn tới có những dự báo kém chính xác.
Đồng thời chúng ta cũng chưa coi trọng việc nghiên cứu, học hỏi cách làm của
các nước khác, đặc biệt là các nước không giống ta về thể chế chính trị.
Bài toán đặt ra là không được phép chủ quan, duy ý chí mà nên cố gắng
hiểu rõ các đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đang vận động, đang thay thế, đổi chỗ
khá linh hoạt của đất nước chúng ta hiện nay. Giải pháp được đặt lên hàng đầu
có thể kể đến trong công cuộc quản lí, điều tiết phát triển đô thị, đó là:
Thứ nhất, Đường lối chung trong việc quản lí và phát triển các đô thị trên
thế giới hiện nay là hạn chế sự phát triển quá mức các đô thị lớn, khuyến khích
sự phát triển các đô thị vừa và nhỏ. Điều này cũng rất phù hợp với thực tiễn Việt
Nam hiện nay, vì mạng lưới đô thị của ta phát triển không đồng đều trong cả
nước. Các đô thị của ta tập trung chủ yếu ở phía Bắc với thủ đô Hà Nội là trung
tâm và phía Nam với thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm. Điều đó đòi hỏi Đảng
và Nhà nước ta trong chính sách quản lý, xây dựng và phát triển đô thị cần
khuyến khích và đầu tư phát triển các đô thị nhỏ và vừa, đặc biệt ở miền Trung,
Tây Nguyên, các vùng trung du và miền núi phía Bắc nhằm khắc phục tình trạng
không đồng đều trong phân bố đô thị. Điều đó cũng góp phần mở mang dân trí,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân các vùng xa xôi, hẻo lánh,
phù hợp với chiến lược của Đảng và nhà nước ta là đưa nông thôn và đô thị xích
lại gần nhau.
Thứ hai, Nhà nước cần có những chính sách phát triển cơ sở hạ tầng kĩ
thuật và xã hội nhằm cải thiện các điều kiện sống, sinh hoạt và lao động cho dân
cư đô thị. Bên cạnh đó, các chính sách cần dựa theo quan điểm phát triển về chất,
theo chiều sâu chứ không phải chỉ là mở rộng và phình to về qui mô dân cư và
lãnh thổ. Về mặt xã hội, khía cạnh này chủ yếu có liên quan tới vấn đề nhà ở,
quy hoạch và quản lí đô thị.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cải cách trong công tác quản lý phát
triển đô thị thông qua việc phân cấp mạnh hơn, sâu hơn. Phân định trách nhiệm
quản lý đô thị và kiểm soát phát triển cho địa phương. Đồng thời với việc hướng
dẫn cụ thể là công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện theo phân cấp. Vấn đề này đang
bị coi nhẹ.
Thứ tư, tăng cường hơn, ráo riết hơn về yêu cầu đào tạo đội ngũ chuyên môn
có đủ trình độ quản lí phát triển đô thị theo phân cấp đến tận đô thị loại 4 và 5.
Thứ năm, cơ quan quản lí cấp trên phải tự giác hoàn thiện tri thức, tiến hành
việc nắm bắt thông tin về phát triển đô thị của cả nước để kịp thời có cách chính
sách chuẩn bị phù hợp.
Cuối cùng, nội dung quan trọng là tạo điều kiện để các đô thị theo vùng phối
hợp, liên kết. Nghiên cứu quy hoạch xây dựng Vùng nhằm giải quyết cơ bản và
sát đúng các bài toán Vùng về các mặt: Kinh tế thực lập; Xã hội ôn bình; Văn