Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hệ quả của chất vấn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.02 KB, 11 trang )

I. Đặt vấn đề.
Chất vấn là một trong những phương thức thiết yếu giúp nghị viện nhiều nước áp
đặt trách nhiệm chính trị lên chính phủ. Điều này thể hiện qua việc các nghị sỹ
đối lập sử dụng cơ hội này để buộc chính phủ phải giải trình, hoặc phê phán
chính sách của chính phủ, thậm chí ra nghị quyết về việc bỏ phiếu bất tín nhiệm
chính phủ. Để chính phủ có trách nhiệm hơn, một mục đích khác của chất vấn là
kiểm tra năng lực của quan chức trong nắm bắt và điều chỉnh lĩnh vực được phân
công. Để thực hiện mục đích này, Quốc hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các
nước theo mô hình của Anh thường không cho biết trước các câu hỏi chất vấn.
Một vị Bộ trưởng nắm vững công việc sẽ trả lời lưu loát các câu hỏi đặt ra, còn
nếu ngược lại thì uy tín sẽ bị giảm sút.
Có thể hình dung đường đi nước bước của áp đặt trách nhiệm trong chất vấn như
sau: Đầu tiên là xác định phạm vi trách nhiệm của người trả lời chất vấn; tiếp
theo, người trả lời cần phải giải trình trước nghị viện những vấn đề được hỏi đến,
nếu nghị viện thỏa mãn, hài lòng với sự giải trình đó, coi như đã “trả bài” xong.
Khi câu hỏi đã khoanh vùng trách nhiệm của từng người trả lời chất vấn, thì
người chất vấn mong chờ ở các vị Bộ trưởng năng lực giải trình, thể hiện mức độ
nắm bắt vấn đề, cũng như giải pháp và thời hạn khắc phục vấn đề. Nếu không,
bước tiếp theo sẽ là quy trách nhiệm – có thể dưới hình thức một nghị quyết (mà
bỏ phiếu tín nhiệm chỉ là một trong những hình thức quy trách nhiệm). Tuy
nhiên, chế tài cao nhất mà hoạt động chất vấn có thể dẫn đến là bỏ phiếu tín
nhiệm ít khi được áp dụng. Do đó, tác dụng lớn nhất của chất vấn là tạo nên một
sức ép áp đặt trách nhiệm lên những người trả lời chất vấn. Chất vấn là nhằm để
các bộ trưởng luôn cảm thấy áp lực đó mà làm việc tốt hơn.
Hoạt động chất vấn của Quốc hội nước ta vẫn chưa thực sự hoàn thiện vì vẫn còn
nhiều mặt hạn chế. Chính bởi vậy, ta cần liên tục nghiên cứu về thực trạng của
hoạt động này để rút ra được giải pháp giúp hoạt động chính trị quan trọng này
đem lại ý nghĩa và đạt tới hiệu quả tốt nhất có thể.
1
II. Giải quyết vấn đề.
1. Hệ quả của chất vấn.


Trước hết, chất vấn dẫn đến hệ quả chính trị. Chất vấn là công cụ giám sát mạnh
nhất của nghị viện các nước, vì nó quy trách nhiệm, có khi buộc tội các thành
viên Chính phủ. Chất vấn có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản đối
hoạt động của Chính phủ. Thậm chí có thể có việc đưa ra nghị quyết bất tín
nhiệm và dẫn đến sự từ chức của Chính phủ. Chẳng hạn, theo Khoản 2, Điều
111, Hiến pháp Tây Ban Nha, “Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do để
đưa ra nghị quyết, qua đó các viện phản ánh quan điểm của mình”.
Ở các nước thuộc chính thể đại nghị hoặc chính thể hỗn hợp, hình thức chất vấn
có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản đối hoạt động của Chính phủ.
Thậm chí có thể có việc đưa ra nghị quyết bất tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức
của Chính phủ. “Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do để đưa ra nghị
quyết, qua đó các viện phản ánh quan điểm của mình” (Phần 2, Điều 111, Hiến
pháp Tây Ban Nha). Do những hậu quả nghiêm trọng như vậy, qui tắc và qui chế
của các viện có những qui định phức tạp về việc đưa ra và thảo luận chất vấn.
Ở một số nước, việc chất vấn có thể dẫn đến việc Quốc hội biểu quyết thông qua
kiến nghị (motion) đưa ra thảo luận tại Quốc hội về trách nhiệm của một quan
chức nào đó. Và cao hơn nữa, một số nước quy định khi kiến nghị thu được một
số lượng chữ ký nhất định thì vị quan chức này phải điều trần trước Quốc hội và
có thể bị cách chức, thậm chí Quốc hội có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một
chính sách của Chính phủ. Ví dụ ở Pháp có quy định: nếu một kiến nghị bất tín
nhiệm Chính phủ thu nhận được chữ ký của ít nhất 10 nghị sĩ thì vấn đề đó sẽ
được đưa ra thảo luận. Một số nước khác quy định cần có khoảng 20 hoặc 50
chữ ký…
Hệ quả chính trị của chất vấn cũng thể hiện ở chỗ, chất vấn xét về một khía cạnh
nào đó là sự cảnh báo của Quốc hội về một vấn đề hay một tình trạng cần được
lưu ý giải quyết. Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự đoán và trách nhiệm
phải nhìn nhận trước vấn đề của các cơ quan quản lý.
Cuối cùng, trên phương diện hệ quả chính trị, chất vấn cũng có mục đích cung
cấp thông tin và tạo cơ hội cho Quốc hội đánh giá, phê bình Chính phủ vì làm
hay không làm điều gì đó. Bằng cách này các đại biểu có thể buộc các bộ trưởng

chia sẻ thông tin. Ngay cả khi đơn thuần hỏi-đáp mà không biểu quyết về thái độ
của nghị viện đối với trả lời của chính phủ, họat động này của nghị viện cũng đã
2
buộc chính phủ phải giải trình đã được gì, chưa làm được gì, tại sao, và định làm
gì trong tương lai.
Chất vấn cũng mang lại hệ quả xã hội to lớn, thường là có tác động rộng rãi hơn
hệ quả chính trị. Chất vấn thu hút sự chú ý rộng rãi của công luận về vấn đề nào
đó, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để nó được giải quyết nhanh hơn. Chẳng hạn,
mỗi năm Nghị viện Canada họp khoảng 150 ngày. Trong thời gian đó, hàng ngày
Nghị viện đều có lịch chất vấn. Phần lớn ý kiến của cử tri về Chính phủ được
hình thành trên cơ sở những gì họ thấy từ những buổi chất vấn này (và từ các
hoạt động khác của Nghị viện) được phản ánh qua truyền hình và báo chí. Việc
truyền hình hay truyền thanh trực tiếp và các bình luận của báo chí về những
buổi trả lời chất vấn của các quan chức Chính phủ đã tạo nên một luồng công
luận mạnh mẽ và gây áp lực xã hội to lớn. Vì vậy, ở một số nước đa số bộ trưởng
phải từ chức do áp lực của công luận chứ không nhất thiết là áp lực từ phía nghị
viện.
2. Thực trạng và giải pháp của hoạt động chất vấn Quốc hội.
a. Thực trạng.
Thực tế tại các kỳ họp Quốc hội cho thấy, 3 ngày chất vấn tại Hội trường vẫn
nhắc lại nhiều những vấn đề đã nêu tại các lần chất vấn trước, thậm chí những
“câu chuyện cũ” vẫn phải để lại đến kỳ họp sau. Một vài quan chức có thể không
hài lòng và cho rằng sự việc nào đó đã được “hỏi” và đã được “trả lời”, nên
không cần phải hỏi lại. Nhưng rõ ràng biết rồi không có nghĩa là đã giải quyết
xong. Bởi vậy, các vị đại biểu Quốc hội có thể chất vấn nhiều lần về một vấn đề,
cho đến khi nó được xử lý mới thôi. Thế nhưng, làm điều đó đối với đại biểu
không dễ vì những nguyên nhân sau đây:
Trước hết là vì thời gian có hạn, mà vấn đề thì quá nhiều. Trong ba ngày chất
vấn khoảng 6-7 thành viên Chính phủ sẽ đăng đàn, mỗi người trả lời đã trên dưới
chục vấn đề lớn nhỏ; như vậy, sẽ có hàng chục vấn đề được đưa ra. Do đó,

thường ngay sau khi Bộ trưởng trả lời xong một câu hỏi, nội dung chất vấn nhiều
khả năng chuyển sang hướng khác với một câu hỏi khác của một đại biểu khác.
Thứ hai là vì đại biểu thường ít khi giành được quyền chất vấn vòng hai. Sau
phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển ngày
14/11/2003, đại biểu Nguyễn Đức Dũng trả lời báo chí: “Rất tiếc là tôi đã đăng
ký tranh luận, chất vấn tiếp nhưng không được phát biểu. Nếu chủ tọa cho phép
3
nói thêm, tôi sẽ bày tỏ quan điểm của mình về phần trả lời của đồng chí bộ
trưởng”.
Khi chất vấn về vấn đề tỷ lệ đầu tư công vào nông nghiệp hiện nay và hiệu quả
chương trình đánh bắt xa bờ chưa cao, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII một
đại biểu đã hỏi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Vậy quan
điểm Bộ trưởng như thế nào và trách nhiệm của Bộ trưởng ra sao, giải pháp tới
thì Bộ trưởng sẽ đề xuất với Chính phủ về việc phân bổ ngân sách này như thế
nào? Bộ trưởng có giải pháp gì giúp cho ngư dân?...”.
Vị Bộ trưởng dễ dàng vượt qua với câu trả lời: “Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cũng đang phối hợp với các bộ ngành dự thảo cơ chế chính sách và
trong ngày hôm nay đồng chí Thứ trưởng đã ký gửi để xin ý kiến chính thức của
các bộ trước khi chúng tôi trình Chính phủ phê duyệt”.
Còn khi chất vấn về tình trạng cấp phép sân golf tràn lan, đại biểu đã đặt câu hỏi:
“Tôi xin hỏi Bộ trưởng việc cấp phép như vậy có vi phạm Luật Đất đai hay
không? Ai vi phạm? Xử lý như thế nào? Trách nhiệm thuộc về ai?”. Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời ngay: “Đừng nói rằng trách nhiệm ở ai, trách
nhiệm chính là ở người cấp đất, ai cấp đất là trách nhiệm ở người đó… Anh nào
cấp giấy phép đầu tư thì chịu trách nhiệm về cấp giấy phép đầu tư”.
Rất nhiều đại biểu đã chất vấn tương tự như vậy. Cách chất vấn và trả lời
chất vấn trên tạo cho chúng ta cảm giác như đây là một cuộc họp của Chính
phủ đúng hơn là một kỳ họp Quốc hội yêu cầu Chính phủ giải trình hoạt động
điều hành của mình trước Quốc hội, trước nhân dân.
Với cơ chế giải trình trách nhiệm như trên, khoản 2, điều 84 Hiến pháp quy định:

Quốc hội “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao”.
Như vậy, đối tượng chất vấn của Quốc hội phải là Chính phủ chứ không thể là
một ông bộ trưởng nào đó cho dù Quốc hội với quyền lực của mình có thể làm
điều đó. Kể cả khi bộ trưởng thực hiện báo cáo, trả lời chất vấn trước Quốc hội
thì cũng với tư cách là người được Chính phủ ủy quyền thay mặt chứ không phải
với tư cách là người đứng đầu ngành mà mình quản lý.
Nếu chất vấn theo cách như vẫn thường làm thì Quốc hội một mặt đang làm thay
vai trò của Thủ tướng Chính phủ, mặt khác, quan trọng hơn là không tạo điều
4
kiện cho Chính phủ giải trình trách nhiệm của mình trước Quốc hội, trước toàn
dân.
Ví dụ như khi bị truy vấn về việc chia nhỏ các dự án trong dự án khai thác
bauxite ở Tây Nguyên, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã trả lời: “Chúng tôi không
có thẩm quyền mà đây là quy hoạch phát triển công nghiệp bauxite đã được
Chính phủ phê duyệt”. Mặc dù ai cũng thấy rõ trách nhiệm được “chuyển giao”
sang cho Chính phủ nhưng câu trả lời của ông Bộ trưởng là không sai vì đại biểu
chỉ chất vấn trách nhiệm của Bộ trưởng chứ có truy trách nhiệm của Chính phủ
đâu.
Rõ ràng, nếu đánh giá về mặt hiệu quả thì việc chất vấn như trên sẽ không đem
lại kết quả vì mục đích chất vấn ở đây là nhằm yêu cầu giải trình trách nhiệm
trong dự án bauxite đã không hề đạt được. Do vậy, để đạt chất lượng cao hơn,
hoạt động chất vấn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cần thiết phải được
thay đổi và việc thay đổi trước hết phải bắt đầu từ việc chất vấn ai và trong vai
trò như thế nào?
Qua kì họp vừa rồi, có nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động chất vấn của Quốc hội
đã có nhiểu tiến bộ so với trước đây, dân chủ hơn, thẳng thắn, xây dựng và trách
nhiệm. Hoạt động hỏi và trả lời nhìn chung đã vào đúng trọng tâm, ngắn gọn

hơn, có tranh luận khá liên tục, sôi nổi. Qua đó một số vấn đề lớn cơ bản đã được
làm rõ thêm ở nhiều góc độ, giúp mọi người hiểu sâu hơn về thực chất, nguyên
nhân của vấn đề, thấy rõ hơn trách nhiệm của người được chất vấn và cả người
chất vấn. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nắm bắt sát thực tiễn, lắng nghe kiến
nghị của cử tri và nghiên cứu khá sâu để nêu những câu hỏi sắc sảo và theo sát
các vấn đề thảo luận để tranh luận, trao đổi đến cùng. Nhiều vị Bộ trưởng,
trưởng ngành đã chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng để trả lời một cách nghiêm túc,
chân thành, thẳng thắn nhận trách nhiệm không né tránh, đùn đẩy.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt được ấy, vẫn cần tiếp tục đổi mới, cải tiến, nâng cao
chất lượng và hiệu quả của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Nội dung một
số câu hỏi vẫn chưa thật tập trung theo nhóm vấn đề đã xác định, một số vấn đề
chưa được phân tích đến nơi đến chốn. Vẫn còn những trường hợp hỏi dài, hỏi
không rõ ý, hỏi ra ngoài chủ đề đang tập trung hay vẫn còn những trường hợp trả
lời theo kiểu giải thích chi tiết. Đó là điều các đại biểu cần rút kinh nghiệm, cải
tiến để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động chất vấn.
Ta có thể khẳng định chất vấn là vấn đề cần thiết và quan trọng nhưng hậu chất
vấn còn quan trọng hơn, bởi vì đây là khâu thực hiện và kiểm nghiệm hiệu quả
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×