Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn cho học sinh kỹ năng viết đúng chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.85 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TRANG
Mở đầu 2
Lý do chọn đề tài 2
Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3
Đối tượng , phạm vi nghiên cứu 3
Phương pháp nghiên cứu 3
Chương 1 6
Nguyên nhân - Biện pháp khắc phục 5
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều: 6
Nguyên nhân: 6
Biện pháp khắc phục: 7
Chương 2 9
Thống kê – nguyên nhân – biện pháp 11
Kết quả thống kê lỗi:
11
Nguyên nhân mắc lỗi:
11
Một số biện pháp khắc phục lỗi:
13
Các bài tập chính tả:
14
Kết luận 20
MỞ BÀI
1. Lý do chọn đề tài
1
Sở dĩ chúng tôi chọn đề tài:” Rèn cho học sinh kỹ năng viết đúng chính tả” là vì
tôi nghĩ chúng ta là người Việt Nam nên Tiếng Việt là một công cụ tư duy giúp học sinh
diễn đạt ý tưởng của mình một cách rõ ràng, đúng nghĩa và sáng sủa hơn. Nếu HS không
hiểu rõû ý nghĩa của tiếng Việt thì các em không dễ dàng cảm nhận cái hay cái đẹp của
bài văn, bài thơ và khó hòa mình vào cuộc sống. Hơn nữa, tiếng Việt cũng ảnh hưởng rất


lớn đến trình độ học toán và các môn học khác. Vì thế phải làm thế nào để rèn kỹ năng
ngôn ngữ cho HS như: nghe, nói, đọc, viết… nhằm giúp các em sử dụng tiếng Việt có
hiệu quả trong học tập và giao tiếp hàng ngày tốt hơn. Trong môn tiếng Việt thì phân
môn chính tả có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn tiếng Việt ở trường phổ
thông nhất là ở trường tiểu học. Năm nay, tôi dạy lớp 3, phân môn chính tả là môn chính
của môn tiếng Việt ( mỗi tuần có 2 tiết chính tả) các em tiếp tục hoàn thiện kỹ năng viết
đúng chính tả đã học ở lớp 1 và lớp 2. Nhưng trên thực tế nhiều HS chưa nắm vững qui
tắt viết đúng chính tả và hay viết sai, thậm chí một số em khi viết chính tả ( Tập chép)
nhìn vào sách hoặc nhìn bảng để viết mà vẫn viết sai lỗi chính tả. Với những HS thường
xuyên viết sai lỗi chính tả, tôi luôn quan tâm để giúp các em viết đúng hơn. Từ đo,ù các
em sẽ học tốt hơn môn tiếng việt và các môn học khác.
HS viết sai lỗi chính tả nhiều có thể là do ở lớp 1 và lớp 2 các em chưa được rèn
luyện kỹ năng viết đúng chính tả tới nơi tới chốn. Các em chỉ được viết chính tả trong
tiết chính tả. Khi các em viết sai lỗi chính tả chưa được sửa kỹ. Do một số em đã học lớp
3 nhưng vẫn đọc bài chưa trôi chảy vừa đọc vừa đánh vần những từ khó. Các em đọc
không tốt sẽ viết không viết đúng chính tả.
Nếu các em nắm vững cách viết chính tảø và viết đúng chính tả thì các em sẽ học tốt
phân môn luyện từ và câu và quan trọng nhất là các em sẽ viết câu văn, đoạn văn , bài
văn tốt hơn. Đồng thời các môn học khác cũng không bị ảnh hưởng đến kết quả học tập
vì lỗi chính tả.
Ngược lại, nếu các em không viết đúng chính tả thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết
quả học tập của các em. Vì trong thang điểm của các câu hỏi phần luyện từ và câu, phần
đọc thầm và đoạn văn, bài văn đều bị trừ điểm lỗi chính ta. Vì thế, cho dù các em viết
đoạn văn, bài văn hay, đủ ý nhưng viết sai lỗi chính tả nhiều thì điểm cũng không đạt
cao. Còn đối với môn toán, khi làm các bài toán có lời giải nếùu các em viết sai lỗi chính
tả trong lời giải thì các em sẽ bị trừ điểm hoặc mất cả điểm lời giải nếu lỗi chính tả sai
2
trm trng ( Vớ d: S tm vi hoa . . . vit thnh: S tm di qua . . .). Núi chung, trong
tt c cỏc mụn hc khi lm bi m HS vit sai li chớnh t quỏ nhiu thỡ u nh hng
n kt qu hc tp ca cỏc em.

Trong nhiu trng hp vit sai li chớnh t, HS dng nh khụng ý thc c vỡ
sao mỡnh li vit sai v vit sai ch no t sa cha. Dn dn thnh thúi quen nờn
hay vit sai li chớnh t. Khi vit bi sai nhiu li chớnh t, lỳc c li bi cỏc em cng
khụng bit mỡnh ó vit gỡ nờn khụng hiu bi v khú cú th nm c kin thc ca bi.
Lõu dn s lm cho cỏc em chỏn nn, khụng thớch hoùc moõn tieỏng Vit v luụn c cỏc
mụn hc khỏc. T ú s dn n tỡnh trng HS mt cn bn, chỏn hc v trm trng nht
l cỏc em b hc.
2. Lch s vn nghiờn cu
HS vit ỳng chớnh t thỡ kt qu hc tp ( im ca cỏc mụn hc: Tp lm vn,
Luyn t cõu, toỏn . . . ) s trn vn hn vỡ khụng b tr im sai li chớnh t. iu quan
trng nht l mt HS khi nghe c v vit ỳng chớnh t ú l mt du hiu cho thy s
nhn thc v õm, vn, du thanh, v ngụn ng v c v tri thc vn húa ca em ú ó
trng thnh.
3-i tng , phm vi nghiờn cu
Vi ti: Rốn cho hc sinh k nng vit ỳng chớnh t ny. Tụi ch mi thc
hin rốn luyn cho HS trong lp mỡnh ang ch nhim ( lp: 4

cú 35 HS) thng vit
sai chớnh t, giỳp cỏc em dn dn cú thúi quen v k nng vit ỳng chớnh t.
Nhng bi m cỏc e thng vit sai l ::
Nhng t cú thanh hi ( ? ) v thanh ngó ( ừ ).
Gia nhng t cú cỏc ph õm: g gh, ng ngh, tr ch, d gi r, s x,
v d ( HS min Nam), l n ( HS ngoi Bc chuyn vo).
Gia cỏc õm chớnh: ờ iờ
Gia nhng vn cú õm cui: n ng, c t
4. Phng phỏp nghiờn cu
Phng phỏp quan sỏt
Phng phỏp ỏnh giỏ
Phng phỏp so sỏnh
Phng phỏp tri nghim

3
5.Cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Nguyên nhân - Biện pháp khắc phục
Chương 2: Thống kê -Nguyên nhân - Biện pháp
Số liệu thống kê của khối:
Khảo sát đầu năm: Tổng số học sinh: 223.

Điểm 6
5,5 5 4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
HS 35
31 28 25 26 16 12 17 13 9 11
Tỉ lệ 15,7 13,9 12,6 11,2 11,7 7,2 5,4 7,6 5,8 4,0 4,9
Giữa học kì I: Tổng số học sinh: 224.
Điểm 5
4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
Họcsinh 133 24
28 11 13 4 6 2 3
Tỉ lệ % 59,4 10,7 12,5 4,9 5,8 1,9 2,7 0,9 1,2
Cuối học kì I: Tổng số học sinh: 224.
Điểm 5
4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
Họcsinh 112 43
35 15 12 7 0 0 0
Tỉ lệ % 50,0 19,2 15,6 6,7 5,4 3,1 0 0 0
Giữa học kì II: Tổng số học sinh: 224.
Điểm 5
4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
Họcsinh 125 4
35 27 16 12 2 2 1

Tỉ lệ % 55,8 1,9 15,6 12,0 7,1 5,4 0,9 0,9 0,4
Cuối học kì II: Tổng số học sinh: 224.
Điểm 5
4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
Họcsinh 164 0
21 23 12 4 0 0 0
Tỉ lệ % 73,2 0 9,3 10,2 5,4 1,9 0 0 0
4
- Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có
những quy tắc, quy định riêng. Muốn viết đúng chính tả Tiếng Việt, ta phải
tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập.
- Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết
sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 60 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn,
tôi không thể hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi
chính tả. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng
Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất
tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát.
- Vì lý do đó, tôi đã cố gắng thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân
và đưa ra một số biện pháp khắc phục “để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính
tả”, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo
những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển
hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1
Nguyên nhân - Biện pháp khắc phục
Nguyên nhân
5
1. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều
Như chúng ta đã biết, Tiếng việt của chúng ta rất đa dạng và phong phú. Hơn nữa,
cùng trên một lãnh thổ nhưng giọng nói của từng vùng từng miền lại có âm sắc, đặc

trưng riêng. Khi nghe giọng nói thì chúng ta xác định được người đó ở miền nào. Nước
Việt Nam có ba miền chính yếu: Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam. Vì thế, Tiếng
Việt cũng có ít nhất là ba vùng phương ngữ lớn. Đó là phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ và
Nam Bộ. Trường tôi dạy trong địa bàn dân cư khá đa dạng, đa số học sinh là dân nhập cư
( thuê nhà, tạm trú) từ mọi miền đất nước đến. HS chưa nghe và nói được đúng từ, như
các em miền Bắc chuyển vào thì thường viết nhầm lẫn các từ có âm l – n ( Ví dụ: “ lồng
lộng” nói là “ nồng nộng”). Các em ở Nam bộ thì lại hay nhầm lẫn v – d – gi (Ví dụ
như: “vui vẻû” nói là “dui dẻûø”, “ròng rã” nói là “dòng dã” , “đám giỗ” nói là “ đám
dỗ” . . . ) nên các em cứ viết chữ theo giọng đọc của mình. Có trường hợp giọng nói của
cô giáo lại khác hẳn với giọng nói của các em điều đó cũng gây không ít khó khăn cho
các em khi nghe và viết chính tả.
Để viết đúng chính tả, ngoài giờ học ở lớp, khi ở nhà, các em cần phải đọc sách báo
lành mạnh để trao dồi thêm môn Tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng.
Nhưng thực tế thì khi rảnh rỗi các em lại say mê trò chơi điện tử, xem phim hoạt hình
hơn là xem sách báo, truyện lành mạnh… để trao dồi tiếng mẹ đẻ.
Những nguyên nhân trên ảnh hưởng đến trình độ nhận thức về Tiếng Việt của học
sinh. Nếu như các em chưa có cảm nhận được sự phong phú của tiếng Việt nói chung, thì
các em không thể học tốt phân môn chính tả mà cụ thể là viết đúng chính tả.
Trên đây là những nguyên nhân chung dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Đối
với lớp tôi phụ trách thì việc học sinh viết sai lỗi chính tả do những nguyên nhân cụ thể
sau:
Học sinh khi viết vẫn còn mắc lỗi chính tả về âm đầu: như giữa các tiếng có âm
đầu g-gh; ng-ngh. tr – ch (“ trách nhiệm” viết là “ chách nhiệm”), r-d-gi,s-x (“vừa xong”
viết là “dừa xong”)
Mắc sai lỗi chính tả về âm cuối của vần: c-t (“sắc đẹp” viết là “sắt đẹp”; “công
việc” viết là “công việt”…), n-ng (“lan man” viết là “lang mang”); (“cầu thang” viết là
“cầu than”…)
6
Ngoài ra học sinh còn mắc một số lỗi chính tả khác như:êu - iu – iêu – ưu – ươu
(“kêu cứu” viết là “kiêu cứu”; “con diều” viết là “con diâu”); ên-ênh (“lênh láng” viết là

“lên láng”; “chênh vênh” viết là “chên vên”)
Sai lỗi chính tả về thanh hỏi ( ? ), thanh ngã ( õ): (VD “ sửa bài” viết thành “ sữa
bài”, “ lỗi lầm” viết là “ lổi lầm”… )
Do chưa nắm vững qui tắc chính tả cũng như chưa nhớ mặt chữ ( vì trong lớp còn
một vài em đọc bài chậm còn đánh vần từ khó) nên dễ dẫn đế việc ghép âm một số tiếng
tùy tiện hoặc do không nắm vững luật chính tả.
Do cách phát âm chưa chuẩn và do có tính cẩu thả, nghe không chính xác vẫn cứ
viết bừa không chú ý đến nghĩa từ vựng hay cấu trúc của câu. Bên cạnh đó yếu tố tâm lý
ảnh hưởng không nhỏ, biết mình viết sai cũng không dám hỏi giáo viên .
Đôi khi chính giáo viên cũng không chú ý để sửa ngay những lỗi chính tả mà học
sinh mắc phải qua các bài kiểm tra như toán, tập làm văn, từ ngữ, ngữ pháp, tự nhiên xã
hội… Nhiều HS khi lên các lớp trên vẫn còn viết sai chính tả. Không thẻâ để tình trạng
này kéo dài mãi. Tôi nghĩ là giáo viên tiểu học chúng ta hãy cố gắng rèn cho các em viết
đúng chính tả.
Biện pháp khắc phục:
Với những nguyên nhân dẫn đến việc viết sai chính tả của học sinh mà chúng tôi đã trình
bày ở trên. Đây là một số biện pháp nhằém khắc phục tình trạng viết sai lỗi chính tả và
rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh.
Khi dạy phân môn chính tả (đây là môn học quan trọng nhất để rèn kĩ năng viết đúng
chính tả) .Ở các bước rèn kĩ năng viết đúng chính tả, chúng tôi hướng dẫn cho học sinh
nắm vững các qui tắc chính tả về sự phân biệt giữa các âm đầu, âm cuối, dấu thanh và
chúng tôi chọn phương pháp dạy thích hợp cho mỗi kiểu bài chính tả.Chúng tôi chú
trọng nhất là các bước luyện viết từ khó, sửa lỗi, luyện tập để các em nắm được cách viết
từ.
Để giúp các em phân biệt về âm đầu giữa các tiếng có âm đầu: ch – tr, d – gi – r, s – x
và lỗi về các tiếng có âm cuối: c – t, n - ng
Ví dụ:Trong bài:
“ Vầng trăng quê em” có từ: làn gió, làng quê.
“ Cảnh đẹp non sông” có từ: nước biếc, bát ngát.
7

Để giúp các em phân biệt các từ có vần: êu – iu – iêu – ưu – ươu,
Ví dụ:Trong bài:
“ Ông tổ nghề thêu” có từ: thêu, triều đình
“ Ê – đi – xơn” có từ: kì diệu, điều tốt.
Chúng tôi thường đặt các từ đó vào thế đối lặp từ vựng ngữ nghĩa ( VD: trở –
chở, tre – che, trúc – chúc, trèo – chèo, xanh – sanh, thêu – thiêu, kì diều – dịu dàng,
điều – đều) để các em phân biệt từ và hiểu được cách viết. Đồng thời lưu ý các em phải
chú ý nghe cách đọc của GV.(VD:khi đọc từ có âm tr, s thầy cô đọc sẽ cong đầu lưỡi và
âm thanh phát ra nghe nặng hơn khi đọc âm ch , x)
Khi gặp các tiếng có âm đầu: g – gh, ng – ngh.
Ví dụ: trong bài:
“ Chiều trên sông Hương” có từ: nghi ngút
“ Đôi bạn” có tư:ø ngần ngại
“ Đối đáp với vua” có từ: nghĩ ngợi
“ Hội đua voi ở Tây Nguyên” có từ: gan dạ, ghìm đà
Chúng tôi thường yêu cầu các em nhắc lại luật viết chính tả:
+ Viết âm đầu: gh – ngh trước i, e, ê, iê
+ Viết âm đầu: g – ng trước a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
mà cô đã hướng dẫn để các em nắm vững hơn cách viết các từ có âm gh – ngh, g – ng.
Khi gặp các tiếng mà âm đầu có 3 cách viết như là: c – k – q
Ví dụ:Trong bài:
“ Đôi bạn” có tư:ø có, kể, quê, cứu người.
“ Cuộc chạy đua trong rừng” có từ: cuộc, nguyệt quế, kiểm tra.
“ Người liên lạc nhỏ” có từ: ông Ké, cào cỏ.
Chúng tôi hướng dẫn kĩ cho các em trường hợp âm đầu có 3 cách viết:
+ Viết bằng chữ “k” khi đứng trước i, e, ê, iê, y . ( kể, kiểm, Ké)
+ Viết bằng con chữ “q” khi nó đứng trước bán nguyên âm là âm đệm.
( quê, quế, quà)
+ Viết bằng chữ “c” khi nó đứng trước a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư . ( có, cứu, cuộc,
cào cỏ)

8
Hầu hết các bài đều có từ có dấu thanh hỏi – ngã. Để giúp các em phân biệt chúng tôi
cũng thường đặt các từ đó vào thế đối lặp từ vựng ngữ nghĩa ( VD: sôi nổi – nỗi lòng,
sửa bài – giọt sữa, san sẻ- sạch sẽ ). Hơn nữa phải lưu ý các em nghe giọng đọc của
GV để phân biệt cách viết.
Luyện viết từ khó: chúng tôi hướng dẫn học sinh chọn từ khó để tránh các em chọn lan
man, chọn những cặp từ với phụ âm đầu, vần hoặc thanh mà học sinh thường mắc lỗi cho
học sinh tập viết vào bảng con. học sinh phân tích các bộ phận của tiếng. Nếu nhiều học
sinh viết sai cùng một số từ tôi sẽ sửa lỗi chung cho cả lớp.
-Việc đầu tiên chúng tôi sẽ chọn ra những học sinh thường viết sai chính tả ra để dễ
theo dõi, rèn luyện cho các em và giúp các em nhận ra lỗi viết sai của mình mà tự sửa
chữa. Chúng tôi tập trung vào việc khắc phục những lỗi mà học sinh hay mắc phải như
đã nêu trên. Cũng như khi viết chính tả lúc sửa lỗi về một số vần chúng tôi cũng thường
đặt các từ vào thế đối lập từ vựng ngữ nghĩa để các em dễ phân biệt từ và hiểu được chỗ
sai của mình.
( VD: ân cần – cằn cõi) và nhấn mạnh lại các qui tắc viết chính tả nếu các em vẫn còn
viết sai.
Lúc chấm điểm các môn học khác. Chúng tôi cũng chú trọng lỗi chính tả. Nếu học sinh
nào sai nhiều, chúng tôi sẽ yêu cầu các em sửa lỗi ngay.
Khi dạy Tập đọc chúng tôi luôn chú trọng giúp cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ
khó để học sinh nắm vững từ, nhờ vậy các em viết chính tả ít bị sai. Đồng thời dạy học
sinh cách phát âm vì khi các em làm tập làm văn, luyện từ và câu … các em phải tự làm,
những lúc ấy các em phải tự nhớ lại cách phát âm mà viết cho đúng chính tả để kết quả
bài làm không bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, chúng tôi luôn khuyến khích học sinh đọc báo Nhi đồng, sách truyện có nội
dung lành mạnh để tập nhớ mặt chữ và mở rộng vốn từ. Trước khi viết chính tả, chúng
tôi dặn các em đọc trước bài ở nhà nhiều lần. Tập viết những từ em cho là khó, mỗi từ
viết hai hàng. Nhờ vậy, các em viết ít sai lỗi chính tả .
Với những biện pháp vừa nêu cùng với những nổ lực cố gắng của học sinh nên tỷ lệ học
sinh viết chính tả dưới năm lỗi trong một bài đã giảm xuống rõ rệt. Nhìn chung, HS viết

chính tả đã có nhiều tiến bộ hơn so với đầu năm.
Tích cực:
9
Với những biện pháp nêu trên sẽ giúp cho học sinh nắm được kĩ năng viết đúng chính tả,
từ đó các em thấy được tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả. Các em sẽ có ý thức
rèn luyện kĩ năng viết đúng chính tả cho chính bản thân. Qua đó, các em đã có những suy
nghĩ đúng đắn và cảm nhận được sự phong phú, đa dạng và của Tiếng Việt, có trách
nhiệm hơn trong việc rèn luyện kĩ năng học tập. Vì thế, việc tiếp thu kiến thức của các
môn học khác cũng tiến bộ rõ rệt. Kết quả bài thi các môn học viết sai lỗi chính tả rất ít.
Nhược điểm
Khi áp dụng các biện pháp nêu trên chỉ khắc phục được một số lỗi về âm đầu, âm
cuối và thanh. Còn những lỗi chính tả khác thì chúng ta thực sự chưa hướng dẫn các em
sửa tỉ mỉ được nếu có thì cũng chỉ là lướt qua.
Chúng ta phải giành nhiều thời gian cho những học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều nên
làm mất thời gian chung của lớp. Phần nhiều chỉ đạt kết quả cao khi học sinh viết các
bài chính tả có trong chương trình học, hoặc viết bài đã được đọc trước, tập chép trước.
Còn với những bài các em chưa từng được đọc qua hoặc những bài có nhiều từ khó thì
học sinh vẫn còn viết sai.
Chương 2
THỐNG KÊ – NGUYÊN NHÂN – BIỆN PHÁP
1. Kết quả thống kê lỗi
10
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, chúng tôi thấy học sinh thường mắc
phải các loại lỗi sau:
1.1. Về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều
học sinh không phân biệt được 3 thanh hỏi, ngã, sắc. Tuy chỉ có 3 thanh
nhưng số lượng tiếng mang 3 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả
những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lấn lộn, lẩn lộn,…

1.2. Về âm đầu:
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ l/n: đi nàm, no nắng …
+ c/k: Céo cờ…
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ…
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…
+ s/x: Cây xả , xa mạc…
- Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, l/n đối với lớp tôi chủ nhiệm là phổ
biến hơn cả.
1.3. Về âm cuối:
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc…
+ at/ac: lang bạc, lường gạc, rẻ mạc…
+ ăt/ăc: giặc giũ, mặt quần áo…
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên…
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…
+êt/êch: trắng bệt…
2.Nguyên nhân mắc lỗi
2.1. Về thanh điệu:
Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân
biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và
11
Nam không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá
lớn. Do đó lỗi về dấu câu rất phổ biến. Một số học sinh miền Bắc thường hay
lẫn lộn 2 thanh sắc, ngã với nhau.
2.2. Về âm đầu:
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu
ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài

ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví
dụ: /k/ ghi bằng c / k /qu …) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi
dạng,
nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn.
2.3. Về âm chính:
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên
âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi / ie,
ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya,
biên - tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm lại được ghi bằng 2 con chữ u
và o (ví dụ: huệ, hoa).
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ
đối với các âm chính trong hầu hết các vần trên.
2.4. Về âm cuối:
Người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm
cuối n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai
bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong:
sau/sao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực
phía Nam.
2.5. Quy tắc viết hoa danh từ riêng:
Học sinh thường hay mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên
riêng nước ngoài, học sinh lớp chúng tôi chủ nhiệm có khoảng 1/4 hay mắc lỗi
này, nhất là những học sinh yếu nếu không được giáo viên nhắc nhở khi đang
viết chính tả.
3.Một số biện pháp khắc phục lỗi
12
3.1 Luyện phát âm:
- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm
cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ
quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.

- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được
thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập làm văn…
- Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp…)
giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo
viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh
viết đúng được.
3.2. Phân tích, so sánh
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo
tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để
học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo
viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Muống = M + uông + thanh sắc
- Muốn = M + uôn + thanh sắc.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng
“muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ
không viết sai.
3.3. Giải nghĩa từ
- Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa
từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập
đọc, Tập làm văn… nhưng nó cũng là viêc làm rất cần thiết trong tiết Chính
tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích
cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học
sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu
13
nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật
thật, mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên

+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh
cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn,
đánh bằng dùi, âm thanh vang dội).
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên
hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức
ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ
thể để giải nghĩa từ.
3.4. Ghi nhớ mẹo luật chính tả
- Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi
phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách
rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn
giản như: các âm đầu k,gh,ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie.
Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác
như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên
con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén,
chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn
chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều
bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn
trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu,
sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
+ Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2
yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ
được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
14
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh

huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng
trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc
ngược lại).
Ví dụ: Bổng
Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…
Trầm:
Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã
Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập
ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh
choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng,
loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng,
ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập
cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng
đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh
huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
3.5. Làm các bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học
sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn
cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả
để các em ghi nhớ.
- Bài tập trắc nghiệm:
- Khoanh tròn vào chữ cai trước những chữ viết đúng chính tả:

15
a. Hướng dẩn b. Hướng dẫn
c. Giải lụa d. Dải lụa
e. Oan uổng f. Oan uổn
- Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào
ô trống trước những chữ viết sai chính tả:
Rau muốn Rau muống
Chải chuốc Chải chuốt
Giặc quần áo Giặt quần áo
- Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết
đúng chính tả:
A B
bênh trái
bên vực
bện tật
bệnh tóc
- Bài tập chọn lựa:
- Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)
Học sinh … mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
Đôi …… này đế rất …… (giày, dày)
Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)
Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Học sinh …. đèn học bài… đêm khuya. (trong, chong)
Lan thích nghe kể……….hơn đọc……… (truyện, chuyện)
Trời nhiều …… , gió heo ………lại về. (mây, may)
- Bài tập phát hiện:
- Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng.
Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.

Lá vàng bay liệng trong gió chiều.
Bức tườn bị nức ngang nức dọc.
16
- Bài tập điền khuyết:
- Điền vào chỗ trống:
l/n: lành…. ặn, nao…úng,…anh lảnh
s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.
ươn / ương: bay l… , b…. chải, bốn ph… , chán ch……
iêt/ iêc: đi biền b… , thấy tiêng t…
/
, xanh biêng b…
Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống:
Hắn bỡ…… trước cuộc sống mới lạ.
Buổi trưa hè, trời nắng chói …….
Dây leo chằng………, chắn cả lối đi.
Tiếng gà kêu quang ………
- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua
gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa….
- Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:
Thi không đỗ:
Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:
- Tìm các từ chỉ hoạt động:
Chứa tiếng bắt đầu bằng r:
Chứa tiếng bắt đầu bằng d:
Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:
Chứa tiếng có vần ươt:
Chứa tiếng có vần ươc:
- Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:

Trái nghĩa với từ thật thà:
Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
Cây trồng để làm đẹp:
Khung gỗ để dệt vải:
- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
17
nồi - lồi
no - lo
bàn - bàng
ngả - ngã
- Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt… òn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng… ên cao
Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?
(là gì?)
- Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải
câu đố sau:
Cánh gì cánh chăng biết bay
Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi
Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi
Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi.
(là gì?)
4. Kiểm nghiệm - Tự nhận xét kết quả:
Trong quá trình đứng lớp, chúng tôi đã áp dụng các biện pháp trên và
nhận thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn
khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9,
10 lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi, những em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2

lỗi… Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học sinh
giảm bớt lỗi chính tả” là một quá trình lâu dài song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì
công việc mình làm đã bước đầu có hiệu quả.
- Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa
ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình
dạy - học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là
có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả
một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được
18
nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có
những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài
tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì
chắc chắn sẽ thất bại.
- Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên
hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc
ghi âm chữ quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến
sai sót.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra, … từ đó
phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc
phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
- “Ở đâu có thầy giỏi. ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên cần phải
không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề.
Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc
phục lỗi một cách có hiệu quả.
19
KẾT LUẬN
Với kết quả nghiên cứu của mình, chúng tôi không có tham vọng đưa ra
các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ xin nêu một
số kinh nghiệm ít ỏi của chúng tôi tích luỹ được trong quá trình giảng dạy,
mong muốn được cùng chia sẻ với các “bạn đồng nghiệp”.

Khi dạy chính tả, giáo viên cần nắm vững tính chất nhiệm vụ của phân môn chính
tả, tính chất nổi bật của nó là tính thực hành. Chúng ta cần rèn luyện kĩ năng viết đúng
chính tả cho học sinh thông qua các bài luyện tập thực hành.
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của từng kiểu bài, để từ đó có thể lựa chọn
phương pháp giảng dạy cho phù hợp với trình độ của học sinh, phù hợp với nội dung mà
giáo viên đã chọn đểû rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh
20
Nhất là người giáo viên luôn phải kiên nhẫn sửa lỗi chính tả và hướng dẫn cho học sinh
sửa lỗi của mình trong mọi trường hợp. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần phải lưu ý tới
vấn đề phương ngữ và việc nắm nghĩa của từ, đó là một trong những cơ sở giúp học sinh
viết đúng chính tả.
Ngoài ra, chúng ta phải rèn cho học sinh có ý thức tự sửa chữa, tự rèn luyện để
viết đúng chính tả. Muốn vậy, chúng ta phải rèn cho học sinh nắm vững các qui tắc chính
tả, bằng con đường từ vựng hoặc ngữ nghĩa.Những biện pháp đã nêu nhằm rèn cho học
sinh kĩ năng viết đúng chính tả để nâng cao năng lực nói và viết vì nó chính là dấu hiệu
trưởng thành về mặt ngôn ngữ của học sinh là nội dung chính của để tài: “ MỘT SỐ
LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG GẶP CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC- NGUYÊN NHÂN
VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC ”. Vì vậy việc rèn cho một HS không được viết sai lỗi
chính tả là một quá trình gian khổ, lâu dài và đầy phức tạp, công việc này không chỉ giới
hạn trong phạm vi nhà trường, không chỉ là nhiệm vụ riêng của thầy cô giáo mà phải có
sự phối hợp giữa gia đình _ nhà trường. Chúng ta phải giúp cho phụ huynh nhận thức
được việc viết đúng chính tả của một học sinh là cực kỳ quan trọng, có như vậy họ mới
phối hợp với GV bằng cách tạo điều kiện, động viên con em mình: đọc bài, viết từ, đọc
sách báo lành mạnh … Nhưng nhất là bản thân của học sinh phải có sự nổ lực và ý thức
rèn luyện để viết đúng chính tả. Vì việc viết đúng chính tả gắn liền với quá trình hình
thành và nắm vững các qui tắc chính tả, đồng thời biết so sánh nghĩa của từ để tự biết sửa
chữa lỗi và hình thành thói quen viết đúng chính tả của một học sinh
Kỹ năng viết đúng chính tả còn tùy thuộc vào khối lượng tri thức mà học sinh
đó tiếp thu được trong quá trình học tập trên ghế nhà trường, cùng với những tri thức do
chính các em thu được trong hành trình nhận thức đó.



21

×