Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học phần II-Sinh học tế bào, Sinh học 10 Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 110 trang )

t






ĐINH THỊ HỒNG NHUNG



RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH KĨ NĂNG
SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG DẠY HỌC PHẦN II -
SINH HỌC TẾ BÀO, SINH HỌC 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM SINH HỌC



Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN SINH HỌC)
Mã số: 60 14 10






HÀ NỘI - 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC










ĐINH THỊ HỒNG NHUNG



RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH KĨ NĂNG
SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG DẠY HỌC PHẦN II -
SINH HỌC TẾ BÀO, SINH HỌC 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM SINH HỌC



Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN SINH HỌC)
Mã số: 60 14 10


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC THÀNH





HÀ NỘI - 2012
v
MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các biểu đồ
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
6

1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
6
1.1.1. Thế giới
6
1.1.2. Việt Nam
7
1.2. Cơ sở lý luận
9
1.2.1. Khái niệm về kĩ năng
9
1.2.2. Khái niệm về sách giáo khoa
10
1.2.3. Khái niệm về kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
12
1.2.4. Khả năng hình thành cho học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo
khoa trong dạy học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học
phổ thông


14
1.3. Cơ sở thực tiễn
17
1.3.1. Phương pháp xác định thực trạng
17
1.3.2. Nội dung xác định thực trạng
18
1.3.3. Kết quả
18
Chương 2: RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH KĨ NĂNG SỬ DỤNG
SÁCH GIÁO KHOA TRONG DẠY HỌC PHẦN SINH HỌC TẾ

BÀO, SINH HỌC 10, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


25
2.1. Chuẩn kiến thức kĩ năng phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10,
Trung học phổ thông

25
2.2. Các nguyên tắc rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông

28
2.2.1. Nguyên tắc hình thành những kĩ năng cơ bản làm cơ sở cho
việc tổ hợp các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa Sinh học 10

28
vi
2.2.2. Nguyên tắc rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa phù hợp
với đặc điểm nội dung và mục tiêu dạy học Sinh học 10

29
2.2.3. Nguyên tắc rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa phù hợp
với khả năng của học sinh

30
2.2.4. Nguyên tắc rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa phải phát
triển năng lực tự học

30
2.3. Hệ thống các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cần có trong dạy

học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông

31
2.3.1. Kĩ năng tìm ý trả lời câu hỏi dựa vào sách giáo khoa
31
2.3.2. Kĩ năng tách nội dung chính, bản chất từ sách giáo khoa
32
2.3.3. Kĩ năng xác định mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức
34
2.3.4. Kĩ năng diễn đạt kiến thức đã thu nhận được
34
2.4. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy
học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông

38
2.4.1. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy
học kiến thức mới - khâu chuẩn bị bài ở nhà

38
2.4.2. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy
học kiến thức mới trên lớp

43
2.4.3. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong củng
cố, ôn tập

47
2.5. Thiết kế một số bài soạn phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10,
Trung học phổ thông có sử dụng các biện pháp rèn luyện kỹ năng sử
dụng sách giáo khoa



52
2.5.1. Bài về kiến thức cấu trúc
52
2.5.2. Bài về kiến thức hoạt động sinh lí
60
2.5.3. Bài ôn tập chương
69
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
73
3.1. Mục đích thực nghiệm
73
3.2. Nội dung thực nghiệm
73
3.2.1. Nội dung của các bài dạy thực nghiệm
73
3.2.2. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm
73
3.3. Phương pháp thực nghiệm
73
vii
3.3.1. Chọn mẫu
73
3.3.2. Phương pháp bố trí thực nghiệm
74
3.3.3. Xử lý số liệu bằng thống kê toán học
75
3.4. Kết quả thực nghiệm
77

3.4.1. Kết quả định lượng
77
3.4.2. Kết quả định tính
83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
87
1. Kết luận
87
2. Khuyến nghị
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
91




















ii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Đọc là

ĐC
Đối chứng
ĐHSP
Đại học sư phạm
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
NDNC
Nội dung nghiên cứu
SGK
Sách giáo khoa
THPT
Trung học phổ thông
TN
Thực nghiệm


















iii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1. Kết quả điều tra nhận thức của giáo viên về việc rèn kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học sinh học

18
Bảng 1.2. Kết quả điều tra tình hình hướng dẫn học sinh sử dụng
sách giáo khoa trong dạy học Sinh học của giáo viên

20
Bảng 1.3. Kết quả điều tra ý thức học tập, tình hình sử dụng sách
giáo khoa Sinh học của học sinh

22
Bảng 2.1. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học kiến thức mới - khâu chuẩn bị bài ở nhà


39
Bảng 2.2. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học kiến thức mới trên lớp

43
Bảng 2.3. Quy trình rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
củng cố, ôn tập

47
Bảng 3.1. Thống kê tần số điểm kiểm tra từ 1 đến 10 của học sinh
qua 3 lần kiểm tra trong thực nghiệm

78
Bảng 3.2. So sánh định lượng kết quả nhóm thực nghiệm và đối
chứng qua các lần kiểm tra trong thực nghiệm

78
Bảng 3.3. Phân loại trình độ học sinh qua các lần kiểm tra trong thực
nghiệm

79
Bảng 3.4. Thống kê tần số điểm kiểm tra từ 1 đến 10 của học sinh
qua 2 lần kiểm tra sau thực nghiệm

81
Bảng 3.5. So sánh kết quả lần kiểm tra sau thực nghiệm
81
Bảng 3.6. Phân loại trình độ học sinh qua các lần kiểm tra sau thực
nghiệm


82



iv
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang
Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả kiểm tra trong thực nghiệm của 2 nhóm
thực nghiệm và đối chứng

80
Biểu đồ 3.2. So sánh kết quả sau thực nghiệm của 2 nhóm TN và ĐC
83
























1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học
Đất nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự
thách thức trước nguy cơ tụt hậu về cạnh tranh trí tuệ đòi hỏi phải đổi mới
giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học. Luật
giáo dục công bố năm 2005, điều 28.2 có ghi “Phương pháp dạy học phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề quan trọng này.
Nghị Quyết Trung ương IV (khóa VII, 1/1993) chỉ rõ: “phải khuyến khích tự
học”, “phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Trong dạy học
có thể nói những yếu tố kiềm tỏa phương pháp dạy học để tạo kết quả dạy tốt
đó là: mục đích dạy học, nội dung dạy học và đối tượng dạy học. Việc dạy
học chỉ có thể đạt kết quả cao khi người dạy biết khơi dậy và phát huy những
tiềm năng vốn có ở mỗi người học. Nghị quyết Trung ương II khóa VII
(12/1996) tiếp tục khẳng định “phải đổi mới phương pháp giáo dục và đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo

của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học,
tự nghiên cứu cho học sinh”. Hay trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 -
2010 của Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam có
đoạn: “Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục, chuyển từ truyền đạt
tri thức thụ động, giáo viên giảng, học sinh ghi sang hướng dẫn người học chủ
động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp
2
tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích,
tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tự
chủ của học sinh ”. Như vậy giáo viên có vai trò tổ chức hoạt động nhận
thức của học sinh theo tiếp cận hướng vào người học, dạy cách học thông qua
quá trình dạy, tạo năng lực học tập cho học sinh, qua đó vừa phát huy tính tích
cực nhận thức vừa rèn luyện phương pháp tự học, chuyển thành phong cách
học tập độc lập, sáng tạo, thành năng lực để học suốt đời.
Bên cạnh đó, trẻ em ngày nay thu lượm thông tin rất nhanh và chia sẻ
thông tin trong xã hội với tốc độ chóng mặt, mỗi trẻ em có khả năng tìm kiếm
thông tin theo các cách khác nhau. Cách dạy học cũ, phong cách học cũ đã
không còn phù hợp, việc đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng cấp thiết.
1.2. Từ vai trò của việc rèn kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
Đối với học sinh phổ thông, thông tin từ sách giáo khoa là nguồn quan
trọng nhất. Sách giáo khoa là tài liệu có nội dung cơ bản, hiện đại của khoa
học tương ứng, là tài liệu chính thống để học sinh học tập. Một trong những
phương tiện để tổ chức hoạt động tự học, phát huy tính tích cực của học sinh
là sách giáo khoa. Rèn luyện cho học sinh có kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
sẽ giúp học sinh có thể nắm vững kiến thức và biết tự học sáng tạo, học một
biết mười. Kĩ năng sử dụng sách giáo khoa là kĩ năng rất thiết thực mà học
sinh cần có được từ trong nhà trường phổ thông. Để rèn luyện tốt kĩ năng đó
cho học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải thiết kế được các biện pháp và sử
dụng các biện pháp một cách hợp lý để tổ chức cho học sinh có kĩ năng làm

việc với sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác.
1.3. Do đặc điểm nội dung của phần Sinh học tế bào, Sinh học 10, Trung
học phổ thông
Tế bào là đơn vị cơ bản cấu tạo nên mọi cơ thể sống. Vì vậy sinh học tế
bào là một phần đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực sinh học. Phần sinh học tế
bào giới thiệu các đặc điểm đặc trưng cơ bản của sự sống ở cấp độ tế bào.
3
Căn cứ vào đặc điểm nội dung kiến thức phần sinh học tế bào - Sinh
học 10 Trung học phổ thông bao gồm những kiến thức về cấu trúc trong đó
nặng về mô tả các thành phần cấu tạo và các kiến thức cơ chế nhưng đều được
mô hình hóa. Do đó phần sinh học tế bào là một trong những phần kiến thức
của chương trình Sinh học 10 Trung học phổ thông có khả năng rèn luyện cho
các em kĩ năng sử dụng sách giáo khoa ở các mức độ khác nhau như tự ghi
nhớ nội dung, tự tóm tắt, tự sơ đồ hóa, tự tìm ý trả lời câu hỏi, kết hợp với
cách biên soạn của sách giáo khoa theo hướng giúp học sinh tự học, tự tìm tòi
khám phá với sự trợ giúp của giáo viên.
1.4. Do thực trạng kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lớp 10 hiện nay của học sinh
Do đa số học sinh hiện nay chỉ coi môn học là nhiệm vụ, không chịu
đầu tư thời gian vào tìm hiểu, chưa thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng về mặt
khoa học và giáo dục của môn học nên thường chỉ học với thái độ đối phó mà
không thực sự hứng thú, say mê môn học. Một số ít học sinh có ý thức tự giác
với môn học nhưng đa số không có kĩ năng sử dụng sách giáo khoa do đó
chưa khai thác triệt để nội dung sách giáo khoa một cách chủ động, sáng tạo.
Xuất phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học phần II - Sinh học
tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông.”
2. Mục đích nghiên cứu
Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học
phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông, nhằm phát triển
năng lực tự học và nắm vững kiến thức.

3. Giả thuyết khoa học
Sử dụng câu hỏi, bài tập, phiếu học tập sẽ rèn luyện được cho học sinh
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong học tập, từ đó phát triển năng lực tự học
và nắm vững kiến thức.

4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
4.2. Xác định thực trạng sử dụng sách giáo khoa của học sinh trong dạy
học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông
4.3. Phân tích cấu trúc nội dung phần Sinh học tế bào, Sinh học 10, Trung
học phổ thông làm cơ sở để xác định các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
cần có và các biện pháp rèn luyện cho học sinh
4.4. Xác định hệ thống kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cần có để học phần
Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông
4.5. Xây dựng biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học phần Sinh học tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông nói riêng,
trong dạy học Sinh học nói chung
4.6. Thực nghiệm sư phạm nhằm chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết
khoa học đã đề ra
5. Các phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu liên quan để làm cơ sở lý luận cho đề tài như:
Các Nghị quyết, các văn bản chỉ đạo của ngành, các công trình nghiên cứu về
sử dụng sách giáo khoa.
5.2. Phương pháp điều tra sư phạm
Điều tra trực tiếp bằng cách dự giờ, phỏng vấn, phiếu điều tra về biện pháp
dạy học mà giáo viên thường sử dụng hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa
tự học trong dạy học Sinh học tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông.
Tìm hiểu phương pháp học tập của học sinh và thực trạng sử dụng sách

giáo khoa trong học tập qua phiếu điều tra.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Mục đích thực nghiệm sư phạm: nhằm xác định hiệu quả của các biện
pháp đã đề xuất.
5
- Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng thống kê toán học để xác định kết
quả định lượng.
- Phân tích định tính: kết quả rèn luyện các kĩ năng sử dụng sách giáo
khoa đã hình thành.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn dự kiến được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
trong dạy học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm









6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Thế giới

Vấn đề sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập đã được nhiều nước
quan tâm, đặc biệt là ở Liên Xô (cũ) từ năm 1920 vấn đề tổ chức hoạt động
độc lập của học sinh với sách giáo khoa trong giảng dạy đã được đề cập. Thời
kì này đã quan tâm nhiều đến việc tổ chức hoạt động tự lập của học sinh nhằm
hiểu sâu và nắm vững tài liệu nghiên cứu, trong đó có cả việc dùng sách giáo
khoa. Tuy nhiên đến năm 1932, phương pháp học tập này bị lãng quên vì họ
cho rằng phương pháp này đã hạ thấp vai trò của giáo viên và học sinh không
đủ khả năng tự lực phân tích và hiểu thấu tài liệu trong sách giáo khoa. Năm
1956 - 1957, quan điểm dùng sách giáo khoa lại dần dần thâm nhập vào lý
luận dạy học đại cương và lý luận dạy học bộ môn, nhưng khi sử dụng vẫn
còn một số hạn chế. Theo E.I. Goolan cho rằng “Việc nghiên cứu sách giáo
khoa một cách cơ bản ở các lớp 5 đến lớp 10 được tiến hành không phải trong
giờ lên lớp mà trong quá trình chuẩn bị các bài tập ở nhà”.[5, tr 34]. I.A.
Cairốp (1956) chỉ mới đề cập đến hình thức sử dụng sách giáo khoa trong giờ
lên lớp ở những phần nào khó tiếp thu của bài học, nó chưa phải là hình thức
cơ bản.
Tình hình bắt đầu thay đổi khi vấn đề nâng cao chất lượng kiến thức
của học sinh được đặt ra một cách gay gắt. Năm 1958, B.P.Exipop và
L.P.Arictova đã kêu gọi các giáo viên “Hãy mở sách giáo khoa ra” trong các
giờ lên lớp và áp dụng các hình thức làm việc khác nhau với sách giáo khoa
nhằm mục đích phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh. Từ
đó đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc sử dụng rộng rãi sách
giáo khoa và hoàn thiện phương pháp làm việc với sách trong quá trình học
tập ở lớp.
7
Viện sĩ Viện hàn lâm giáo dục Nga G.G.Granhik, lãnh đạo nhóm “xây
dựng sách giáo khoa” của Viện tâm lý thuộc Viện hàn lâm Giáo dục Nga
trong cuộc hội thảo bàn tròn với chủ đề “Những vấn đề sách giáo khoa” do
tạp chí Pedagogika của Viện hàn lâm giáo dục Nga tổ chức từ năm 1999 đã
nói: “Ở buổi giao thời thế kỉ này vấn đề xây dựng sách giáo khoa dạng mới là

quan trọng nhất. Nhóm xây dựng sách giáo khoa Viện tâm lí đang nghiên cứu
vấn đề thay đổi chức năng sách giáo khoa. Sách trước hết quy định 2 chức
năng: thông báo - củng cố kiến thức thu thập ở lớp và luyện tập. Quan niệm
đó tồn tại cho đến nay như sách giáo khoa gồm những tài liệu để giáo viên sử
dụng các biện pháp dạy học thuyết giảng tại lớp, dùng những bài tập để củng
cố kiến thức và hình thành một số kĩ năng xác định. Nhưng nay sách giáo khoa
cần đổi mới, phải giúp giáo viên hình thành và phát triển các hoạt động tâm lí
học sinh như quan sát, chú ý, biểu tượng, sự tự kiểm tra, tư duy, trí nhớ kích
thích và trợ giúp hứng thú nhận thức của các em, đặc biệt coi trọng vấn đề học
sinh làm việc với sách trên lớp. Sách có hai bước giới thiệu tài liệu: bắt đầu là
đặt vấn đề, tiếp đó là giải thích minh họa nhưng phải chọn lọc, không quá tải.
Bởi vậy sách phải đa dạng, đa chức năng, sinh động, linh hoạt, chú ý đưa yếu
tố học tập cá thể hóa để học sinh tự tìm kiếm kiến thức”.
Từ năm 1990 ở Mỹ việc rèn luyện “Kĩ năng đọc nghiên cứu” đã trở
thành một trong những nhiệm vụ đào tạo cực kì quan trọng trong nhà trường
phổ thông. Trong các kì nghỉ hè và công tác hỗ trợ học tập, người ta thường
thành lập rất nhiều trung tâm “Kĩ năng đọc nghiên cứu”. Ai đã từng tham gia
các trung tâm ấy đều khẳng định đó là nơi học sinh được học tập nhiều cách
thức đọc khác nhau. Đó là nền tảng để phát triển việc đọc có tính chất nghiên
cứu thông qua việc đọc đúng, đọc làm nổi bật từng cấp độ ý nghĩa.
1.1.2. Việt Nam
Ở Việt Nam, từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh - người khởi xướng, tấm gương sáng về tinh thần và phương pháp
tự học đã dạy: “về cách học, phải lấy tự học làm cốt”.
8
Việc nghiên cứu lý luận về các phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực của học sinh nói chung, về vấn đề sử dụng sách giáo khoa nói riêng,
đã được nhiều nhà khoa học sư phạm quan tâm nghiên cứu từ lâu, đặc biệt
một số tác giả đã áp dụng lý luận đó vào nghiên cứu thực tiễn dạy học.
Trong nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách Giáo dục (11/1/1979) đã

viết: “Cần coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú thói quen và phương pháp tự
học cho học sinh, hướng dẫn học sinh biết cách nghiên cứu sách giáo khoa,
thảo luận chuyên đề ghi chép tư liệu, tập làm thực nghiệm khoa học”.
Trong cuốn “Lý luận dạy học Sinh học đại cương” - Đinh Quang Báo,
Nguyễn Đức Thành; “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy Sinh học” -
Đinh Quang Báo, Đặng Thị Dạ Thủy, Nguyễn Thị Nghĩa, các tác giả đã
nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận của phương pháp sử dụng sách giáo khoa
trong dạy học Sinh học, và đã đưa ra hệ thống các kĩ năng đọc sách cần trang
bị cho học sinh ở trường phổ thông.
Các đề tài nghiên cứu khoa học của các tác giả: Đặng Dạ Thủy “Sử
dụng công tác độc lập với sách giáo khoa để phát huy tính tích cực của học
sinh trong khâu nghiên cứu tài liệu mới phần Sinh thái học lớp 11 cải cách
giáo dục”, Hoàng Phồn Hưng với “Sử dụng câu hỏi để tổ chức học sinh làm
việc với sách giáo khoa Sinh học 11 khi dạy các quy luật di truyền”, Phạm
Thị Xuyến với “Hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa trong dạy
học văn học sử”, Nguyễn Thị Khiên với “Quy trình sử dụng câu hỏi tình
huống có vấn đề giúp học sinh tự lực nghiên cứu sách giáo khoa trong dạy
học phần tiến hóa Sinh học 12”. Các tác giả đã nghiên cứu xây dựng các câu
hỏi, bài tập, bài toán nhận thức, bài tập tình huống để học sinh tự lực nghiên
cứu sách giáo khoa thu nhận tri thức mới. Hay tác giả Trần Văn Hiếu đã
nghiên cứu đề tài khoa học và xây dựng quy trình làm việc độc lập với sách
và tài liệu học tập cho sinh viên.
9
Như vậy, qua các thực nghiệm sư phạm của các đề tài đó có thể ít nhiều
cũng đã hình thành ở người đọc kĩ năng làm việc độc lập với sách. Tuy nhiên
để trong bất cứ hoàn cảnh nào học sinh đều có thể vận dụng thành thục các kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa, đạt hiệu quả cao nhất trong việc chiếm lĩnh các
tri thức của nhân loại, thì việc nghiên cứu và xây dựng các biện pháp rèn
luyện học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển năng lực tự
học và nắm vững kiến thức cho học sinh ngay ở bậc phổ thông là việc làm hết

sức cần thiết.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm về kĩ năng
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về kĩ năng. Khi thì kĩ năng được xem xét
ở khía cạnh kĩ thuật của hành động, có khi kĩ năng được xem xét ở bình diện
năng lực thực hiện hành động và kĩ năng còn được xem xét ở khả năng thực
hiện đúng hành động nhất định.
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam - tác giả Nguyễn Lân (2000), kĩ năng
là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn.
Theo Trần Bá Hoành - Tài liệu tham khảo “Đổi mới phương pháp đào tạo
ở các trường CĐSP ngành sinh học” - Hà Nội 6/2005, kĩ năng là khả năng vận
dụng những tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn.
Theo Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê (2000), Khả năng được
hiểu là “tính chất của người có những điều kiện tự nhiên hoặc do hoàn thiện,
học tập hay kinh nghiệm tạo ra để làm được hoặc làm tốt việc gì”.
Như vậy khả năng là một khái niệm rộng. Khả năng không chỉ bao gồm
những điều kiện cho phép cá nhân thực hiện được hành động (như kiến thức
về kĩ năng, những kĩ năng đã được hình thành trước đấy làm nền tảng để hình
thành các kĩ năng mới, những tố chất phù hợp với hành động), sự nhận thức
về mục tiêu của hành động mà cá nhân đạt đến, mà còn bao hàm cả các mức
độ thực hiện hành động - các mức độ của kĩ năng.
10
Từ cách hiểu trên, chúng tôi rút ra hai nhận xét sau:
- Kĩ năng là từ dùng để chỉ mức độ nhất định của khả năng thực hiện có
hiệu quả những yêu cầu của một hoạt động nhất định. Trong một kĩ năng cụ
thể lại bao gồm nhiều kĩ năng nhỏ hơn - các kĩ năng bộ phận.
- Kĩ năng có thể và hoàn toàn có thể hình thành nhờ tác động của dạy
học. Nhờ học tập và rèn luyện mà cá nhân có được kĩ năng của một hoạt động
nhất định. Điều này thực sự có ý nghĩa với việc hình thành và hoàn thiện kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa của học sinh.

Từ những phân tích trên, theo chúng tôi kĩ năng có thể hiểu là khả năng
thực hiện thành thạo, linh hoạt và có kết quả một hành động nào đó bằng
cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù
hợp với từng điều kiện cụ thể.
Trong chuyên đề: Tổ chức hoạt động học tập trong dạy học Sinh học ở
trường THPT - trường ĐHSP (2006), PGS.TS Nguyễn Đức Thành có viết “Kĩ
năng bao gồm những kĩ năng hoạt động chân tay và kĩ năng hoạt động trí tuệ,
các loại kĩ năng có ở các mức từ thấp đến cao như: bắt chước làm theo, sáng
tạo, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. Mỗi loại kĩ năng được rèn
luyện trong suốt một cuộc đời, nhưng trong quá trình học tập được rèn luyện
thì kĩ năng ngày càng được hoàn thiện, càng trở nên chính xác và hiệu quả,
hoạt động ngày càng được nâng cao. Như vậy, kiến thức được phát triển. kĩ
năng cũng được phát triển theo, đó là kết quả của quá trình học tập, đó cũng là
sản phẩm của quá trình dạy học.”
1.2.2. Khái niệm về sách giáo khoa
Sách giáo khoa là tài liệu quan trọng vì đó là nguồn kiến thức chủ yếu
để học sinh học tập. Nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã khẳng định rằng sách giáo
khoa giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục và nâng cao trình độ văn
hóa cho mỗi con người trong việc tiếp thu những kho tàng giá trị tinh thần của
xã hội.
11
Ở nước ta hiện nay sách giáo khoa do Bộ giáo dục và đào tạo tổ chức
biên soạn và được thẩm định bởi Hội đồng quốc gia do nhiều nhà khoa học,
nhiều nhà sư phạm có kinh nghiệm cũng như nhiều tổ chức khoa học, tổ chức
giáo dục có uy tín.
Trong quá trình dạy học, sách giáo khoa là nguồn cung cấp kiến thức
cơ bản, là phương tiện hỗ trợ đắc lực, tài liệu chính thống đối với giáo viên và
học sinh.
Đối với học sinh:
- Sách giáo khoa là tài liệu học tập có nội dung kiến thức được trình

bày một cách ngắn gọn, súc tích, rõ ràng nhất để học sinh dựa vào đó chiếm
lĩnh mục tiêu chương trình môn học. Nói cách khác, sách giáo khoa là nguồn
cung cấp kiến thức cơ bản cho học sinh trong dạy học.
- Sách giáo khoa cung cấp thông tin bao gồm những sự vật hiện tượng
cụ thể, những khái niệm, định luật, quy tắc, luận thuyết về tự nhiên và xã hội
của môn học và khoa học tương ứng giúp học sinh tra cứu chính xác số liệu,
định lý, định nghĩa, công thức hay các sự kiện trong quá trình tự học.
- Sách giáo khoa phát triển những kĩ năng làm bài tập thực hành thí
nghiệm, kĩ năng lao động Hình thành và phát triển ở học sinh phương pháp
học tập nghiên cứu khoa học và thu thập, xử lý thông tin.
- Sách giáo khoa giúp cho học sinh có thể tự kiểm tra, tự đánh giá được
kết quả học tập của mình. Từ đó có biện pháp cụ thể để bổ sung kiến thức và
kĩ năng cho bản thân.
- Sách giáo khoa chỉ ra mục đích học, giúp học sinh hiểu sâu những tri
thức lĩnh hội, bồi dưỡng kĩ năng tư duy logic, hứng thú học tập, yêu thích
môn học và có thái độ đúng đắn với thế giới xung quanh cũng như với bản
thân mình.
Đối với giáo viên:
- Sách giáo khoa gợi ra phạm vi, mức độ kiến thức, kĩ năng mà người
dạy cần hình thành ở học sinh.
12
- Sách giáo khoa gợi cho giáo viên về phương pháp tổ chức hoạt động
nhận thức phù hợp giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung học tập và phát huy khả
năng tự học của học sinh.
- Sách giáo khoa hỗ trợ rất đắc lực cho giáo viên trong hoạt động dạy
trên lớp, giáo viên không thể giảng hết mọi điều mà đối với những vấn đề
không quá khó thì giáo viên hướng dẫn HS để họ về nhà hoàn thành các
nhiệm vụ học tập thông qua làm việc độc lập với sách giáo khoa.
- Sách giáo khoa là công cụ hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình soạn
giáo án, tiến hành bài dạy, tổ chức điều khiển lớp.

Dưới sự tổ chức định hướng của giáo viên, có thể tổ chức hoạt động tự
lực nghiên cứu sách giáo khoa của học sinh từ việc nghiên cứu sách giáo khoa
để ghi nhớ tái hiện sự kiện tư liệu, đến việc nghiên cứu sách giáo khoa để giải
quyết một nhiệm vụ nhận thức sáng tạo.
Sách giáo khoa không chỉ là công cụ của học sinh mà còn là công cụ
của giáo viên. Sách giáo khoa không chỉ được sử dụng trên lớp mà còn được
sử dụng đắc lực để học sinh tự lực nghiên cứu trước nội dung bài mới ở nhà,
không chỉ để ôn tập mà còn để tiếp thu kiến thức mới một cách hệ thống.
Như vậy, sách giáo khoa là nguồn tài liệu chính thống, chứa đựng kiến
thức cô đọng, logic và phương pháp học kiến thức đó, nên sử dụng sách giáo
khoa để thực hiện việc học. Do đó, trong quá trình dạy học, để học sinh phát
triển năng lực tự học và nắm vững kiến thức thì việc rèn luyện kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa cho học sinh là biện pháp quan trọng.
1.2.3. Khái niệm về kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
1.2.3.1. Kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
Căn cứ vào khái niệm kĩ năng, ta có thể hiểu rằng: Kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa là khả năng của học sinh dùng sách giáo khoa làm nguồn thu
nhận, xử lý thông tin, chiếm lĩnh kiến thức được diễn đạt trong sách giáo
khoa và biến kiến thức đó thành vốn kiến thức riêng của mình, qua hoạt động
tự lực, tích cực với sách giáo khoa.
13
Những kĩ năng sử dụng sách giáo khoa bao gồm:
- Kĩ năng tìm ý trả lời câu hỏi dựa vào sách giáo khoa;
- Kĩ năng tách nội dung chính, bản chất từ sách giáo khoa;
- Kĩ năng xác định mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức;
- Kĩ năng diễn đạt những kiến thức thu nhận được.
1.2.3.2. Vai trò của kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
- Học sinh có kĩ năng sử dụng sách giáo khoa sẽ phát huy cao hiệu quả
của việc tự học, tự hình thành được kiến thức mới cho bản thân. Trong quá
trình học tập, nếu chỉ nghe, nhìn thầy giảng, sự thu nhận thông tin tối đa đạt

20%; nếu được làm thí nghiệm, thảo luận và tái hiện thì thu được 75% kiến
thức, nhưng nếu giảng lại cho người khác, vận dụng kiến thức thì thu nhận
thông tin tối đa 90% kiến thức. Như vậy nếu tự lực tìm kiếm kiến thức qua
nguồn thông tin từ sách giáo khoa và được trao đổi cùng bạn, cùng thầy thì
kết quả học tập sẽ cao.
- Học sinh có kĩ năng sử dụng sách giáo khoa sẽ có thể tra cứu được tư
liệu, tự lĩnh hội tri thức khoa học. Sách là do một ông thầy nào đó viết ra. Học
với sách là học với ông thầy là tác giả của sách. Nhưng người học cũng cần
động não mới biết rằng mình đang đọc loại sách gì, sách nào cần phải đọc,
nếu cần thì tìm loại sách đó ở đâu, làm sao mà tìm được. Tìm được sách rồi
lại phải chọn những chương nào, trang nào trong đó để đọc. Trong lúc đọc lại
thấy cần phải đọc thêm một sách khác nữa. Biết tìm sách mà đọc, biết độc lập
làm việc với sách chính là biết “hỏi sách”. Cần phải biết “hỏi sách” vì đây là
điều kiện không thể thiếu để tự học hoàn toàn, tự học suốt đời. Đây là một
hoạt động đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao thì mới
đạt được kết quả.
- Học sinh có kĩ năng sử dụng sách giáo khoa sẽ có thể tự ôn tập, hệ
thống hóa kiến thức, khái quát hóa nội dung.
14
Vì vậy, kĩ năng sử dụng sách giáo khoa là một yếu tố vô cùng quan
trọng trong năng lực tự học. Dạy tự học thực chất là rèn luyện kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa.
1.2.4. Khả năng hình thành cho học sinh kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
trong dạy học phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10, Trung học phổ thông
1.2.4.1. Đặc điểm nội dung Sinh học 10 Trung học phổ thông
Chương trình sách giáo khoa Sinh học 10 hiện nay được viết theo
chương trình đổi mới, gồm 3 phần:
- Phần I: Giới thiệu chung về thế giới sống.
- Phần II: Sinh học tế bào
- Phần III: Sinh học vi sinh vật.

Sinh học 10 được xây dựng trên quan điểm:
- Quan điểm cấu trúc: cấu trúc luôn đi đôi với chức năng thể hiện ở tất
cả các cấp độ tổ chức từ phân tử đến hệ sinh thái.
- Quan điểm về tế bào: tế bào cũng như cơ thể sống là hệ thống mở
luôn trao đổi chất, năng lượng và thông tin với môi trường sống của chúng.
Đây cũng là quan điểm sinh vật luôn thích nghi với môi trường, môi trường
sống là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của sinh vật nhưng
đồng thời sinh vật cũng làm biến đổi môi trường. Mối tương quan hai chiều
này không chỉ thể hiện ở mức độ cơ thể mà thể hiện ở tất cả các cấp độ tổ
chức sống.
- Quan điểm tiếp cận hệ thống: lớp 10 - Sinh học tế bào, lớp 11 - Sinh
học cơ thể, lớp 12 - Sinh học quần thể, quần xã, hệ sinh thái cùng đặc tính di
truyền và tiến hóa của cả hệ thống sống. Quan điểm này thể hiện tính cơ bản
và tính hiện đại của Sinh học ngày nay.
- Quan điểm về cấp độ tổ chức của thế giới sống: sinh học 10 chủ yếu
nghiên cứu về tổ chức sống ở cấp độ tế bào.
Căn cứ vào đặc điểm nội dung kiến thức phần sinh học tế bào - Sinh
học 10 THPT:
15
- Tế bào được nghiên cứu từ cấu trúc đến cơ chế hoạt động của các bào
quan, do đó hiểu được cấu trúc tế bào học sinh cũng biết được các chức năng
của các bào quan.
- Hệ thống các phần, các bài, các chương tương đối hợp lí, đảm bảo
nguyên tắc hệ thống, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ trong ra ngoài, từ các bộ
phận, thành phần nhỏ đến cái chung, khái quát giúp cho HS có một cái nhìn
tổng thể, có thể tự nghiên cứu sách giáo khoa để nắm được kiến thức.
- Trong sách giáo khoa Sinh 10, thông tin cung cấp cho học sinh không
chỉ có kênh chữ mà còn có thông tin từ kênh hình, kênh số, sơ đồ nhằm làm
sáng tỏ kiến thức giúp HS tiếp cận thông tin thuận lợi hơn. Các hình ảnh được
in màu, dễ quan sát, có tính thẩm mĩ cao, tăng tính hấp dẫn của môn học góp

phần giúp HS học tốt hơn.
- Sách giáo khoa Sinh học 10 THPT còn có các kí hiệu tam giác là các
lệnh hướng dẫn tìm kiếm thông tin để học sinh nắm được những vấn đề cơ
bản, mấu chốt. Cuối mỗi bài học có khung tóm tắt nội dung bài học để học
sinh học được cách thức chọn lọc kiến thức trọng tâm và tóm tắt được nội
dung bài. Trong sách giáo khoa còn có mục “Em có biết” để cung cấp thêm
cho học sinh các thông tin lí thú và hấp dẫn, biết thêm các thành tựu mới nhất
của sinh học, tăng hứng thú tìm hiểu kiến thức môn học cho học sinh.
- Những vấn đề khó như thành phần cấu tạo của các bào quan và các
kiến thức cơ chế nhưng đều được mô hình hóa và có những sơ đồ làm sáng tỏ
ở kênh hình. Ví dụ ở bài hô hấp tế bào, SGK trình bày 3 quá trình Đường
phân, chu trình Krep và Chuỗi truyền điện tử. Đây là những kiến thức mới và
khó. Nếu HS chỉ làm việc với kênh chữ thì khó có thể hình dung được. Nhờ
có kết hợp tìm hiểu 2 sơ đồ hình 16.2 và 16.3 ( trang 64, 65 - SGK Sinh học
10) mà năng lực cụ thể hóa kiến thức dễ được hình thành.
Như vậy với mục tiêu cần phải nắm được của phần Sinh học tế bào,
Sinh học 10 THPT, sách giáo khoa đã trình bày khá rõ ràng và logic các nội
16
dung kiến thức. Nếu có kĩ năng đọc sách giáo khoa thì tự HS sẽ nắm vững
được các mục tiêu kiến thức.
Do đó phần sinh học tế bào là một trong những phần kiến thức của
chương trình Sinh học 10, Trung học phổ thông có khả năng rèn luyện cho
các em kĩ năng sử dụng sách giáo khoa ở các mức độ khác nhau như tự ghi
nhớ nội dung, tự tóm tắt, tự sơ đồ hóa, tự tìm ý trả lời câu hỏi, kết hợp với
cách biên soạn của sách giáo khoa theo hướng giúp học sinh tự học, tự tìm tòi
khám phá với sự trợ giúp của giáo viên.
1.2.4.2. Đặc điểm học sinh lớp 10
Lứa tuổi học sinh lớp 10 là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, một số
phẩm chất cơ bản của nhân cách đã được định hình. Điều này thể hiện trước
hết ở sự phát triển tính độc lập và lòng khao khát tự khẳng định mình, tự chịu

trách nhiệm về cái “tôi” của mình bằng khả năng quan sát, phân tích, so sánh,
tự đánh giá với hoạt động của bạn bè và người lớn. Học sinh Trung học phổ
thông còn thể hiện sự tự ý thức về nhu cầu nhận thức, rèn luyện, tự đánh giá
các phẩm chất năng lực trong nhân cách của mình không chỉ theo yêu cầu
hiện tại mà cả trong tương lai. [12, tr.82 - 84]
Căn cứ vào đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 10 thích tự lập, có
khả năng tư duy và tự nghiên cứu, nếu các thầy cô giáo có phương pháp dạy
học tích cực sẽ kích thích được sự ham học, tìm tòi khám phá tri thức ở các
em, giúp các em hình thành kĩ năng sử dụng sách giáo khoa để phát triển năng
lực tự học và nắm vững kiến thức, tự khẳng định được cái “tôi” với bạn bè và
mọi người xung quanh.
1.2.4.3. Khả năng sử dụng sách giáo khoa của học sinh lớp 10
Với đặc điểm thiết kế rõ ràng, logic của sách giáo khoa cộng với đặc
điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 10 đang phát triển tính độc lập và khao khát
khẳng định mình, học sinh lớp 10 có khả năng sử dụng sách giáo khoa để tự
chiếm lĩnh tri thức.
17
Với sự hướng dẫn của giáo viên, khả năng hình thành cho học sinh kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học phần Sinh học tế bào, Sinh học 10
để hình thành kiến thức mới thông qua thu nhận, xử lí kiến thức về cấu trúc
sống, hoạt động sinh lí, quá trình sinh trưởng, phát triển của tế bào, là hoàn
toàn có thể.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Phương pháp xác định thực trạng
Để tìm hiểu thực trạng dạy học Sinh học nói chung, phần Sinh học tế
bào nói riêng ở THPT chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Điều tra qua phiếu
Chúng tôi đã dùng phiếu phỏng vấn để khảo sát 33 GV Sinh học đã và
đang trực tiếp dạy học Sinh học THPT thuộc 6 trường THPT thành phố Hải
Phòng, năm học 2012 - 2013.

Chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu trên đối tượng là học sinh khối 10
của 2 trường: THPT Tân An và THPT Phan Đăng Lưu, thành phố Hải Phòng.
Chúng tôi đã thiết kế và sử dụng 3 phiếu khảo sát. Trong đó phiếu số 1
và 2 dành cho giáo viên, phiếu số 3 dành cho học sinh.
Phiếu số 1: Khảo sát nhận thức của giáo viên về việc rèn kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học sinh học (xem phụ lục 1)
Phiếu số 2: Khảo sát tình hình hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo
khoa trong dạy học Sinh học của giáo viên (xem phụ lục 1)
Phiếu số 3: Khảo sát về ý thức học tập, tình hình sử dụng sách giáo
khoa Sinh học của học sinh (xem phụ lục 1)
- Quan sát qua dự giờ
Chúng tôi đã tham gia dự giờ của giáo viên dạy Sinh học ở cả 2 trường,
tổng số dự được 17 giờ. Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành trao đổi, tham khảo
bài soạn với giáo viên bộ môn ở cả 2 trường thực nghiệm THPT Tân An và
THPT Phan Đăng Lưu, thành phố Hải Phòng.

×