Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

skkn một số sáng kiến kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng trẻ thừa cân – béo phì trường mần non HOÀNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.02 KB, 33 trang )

Đặt vấn đề.
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, mỗi người chúng ta ngày nay đều có
cuộc sống đầy đủ sung túc hơn. Chính vì vậy trẻ em ngày nay được hưởng sự
chăm sóc đặc biệt của gia đình và toàn xã hội . nhiều người cho rằng có điều
kiện cho con ăn nhiều là cái tốt con mình càng mập mạp, càng bụ bẫm thì
càng tốt nên đến khi cha mẹ phát hiện con mình thừa cân quá nhiều thì đã
muộn. Trong lúc mức độ báo động và cần thiết quan tâm của xã hội đối với
trẻ thừa cân béo phì hiện nay được ưu tiên hàng đầu, song hành với trẻ suy
dinh dưỡng thì “ các trường hiện đang phải tự thực hiện chế độ chăm sóc trẻ
béo phì theo cách riêng của mình chứ không có một mức chuẩn chung”. Bên
cạnh đó các trường phổ thông đều quan niệm nhiệm vụ chính là dạy học,
chuyện ăn uống là phụ chỉ cần đủ chất , đủ lượng calo theo độ tuổi là được.
Còn tại các trường mầm non vấn đề dinh dưỡng cho học sinh là mục tiêu
quan tâm đầu tiên nhưng tình hình vẫn không khá hơn là bao, vì tại đây các
cháu được ăn từ 8000đ đến 10.000đ/ngày/3bữa. Chế độ này được áp dụng
đại trà cho tất cả cá học sinh, vì thế số trẻ thừ cân có chỉ số ngày càng cao.
Đây là một vấn đề cần được nhiều người quan tâm trong xã hội. Bản thân tôi
là một giáo viên mầm non lâu năm tôi luôn trăn trở trước thực trạng trẻ em
thừa cân béo phì hiện nay và từ đó tìm mọi cách chăm sóc trẻ có một kết quả
tốt nhất. Tôi luôn phối hợp các nhóm thực phẩm một cách hợp lý với độ tuổi
kết hợp tạo cho trẻ có thói quen tốt trong ăn uống. Có như vậy trẻ mới phát
triển toàn diện cân đối giữa chiều cao/cân nặng, cân nặng/tháng tuổi…
Chính vì vậy từ việc làm hàng ngày tôi đã tìm ra: “Một số biện pháp chăm sóc
trẻ thừa cân của lớp mình trong năm học 2007-2008.
II. Giải quyết vấn đề.
Năm học 2007-2008 tôi được nhà trường phân công dạy các cháu lớp B2 lứa
tuổi 24-36 tháng. Khi nhận lớp tôi thấy có một số khó khăn và thuận lợi sau:
1. Thuận lợi.
- Nhà trường: Ban giám hiệu chỉ đạo sát sao, luôn thăm lớp dự giờ đóng góp
những ý kiến bổ ích cho từng hoạt động trong ngày đặ biệt là giờ ăng của
lớp. Qua đó giáo viên trong lớp đã kịp thời rút kinh nghiệm và khắc phục tồn


tại ngay.
- Giáo viên: Giáo viên trong lớp nhiệt tình có kinh nghiệm lâu năm khi chăm
sóc trẻ nhỏ. Hai cô phối hợp nhịp nhàng, năm được tâm lý trẻ từ đó có biện
pháp tốt nhất đối với từng trẻ.
- Học sinh: Số trẻ vừa đủ với diện tích phòng học và số cô trong lớp. Các cháu
ngoan có nề nếp đặc biệt là trong giờ ăn.
- Cơ sở vật chất: Tương đối đầy để phục vụ tốt trẻ trong tất cả các hoạt động.
- Phụ huynh: Nhiệt tình quan tâm đến các hoạt động chung tại lớp va fluôn
lăng nghe những bài tuyên truyền bổ ích của nhà trường và cô giáo.
2. Khó khăn.
- Đây học sinh ở lứa tuổi nhỏ nhất trường, để tạo cho trẻ có thói quen tốt là
rất khó khăn, mất nhiều thời gian.
- Số cháu thừa cân trong lớp tương đối nhiều 4/22 trẻ.
- Chế độ ăn của trường không có chế độ riêng cho trẻ thừa cân béo phì.
- Quan niệm của phụ huynh còn khác nhau (trái ngược nhau).
Từ những thực tế trên ttôi đã rút ra được một số biện pháp sau để chăm sóc
trẻ thừa cân trong lớp.
3. Một số biện pháp chăm sóc trẻ thừa cân lứa tuổi 24-36 tháng.
Tình trạng trẻ em béo phì, thừa cân ngày cang phổ biến, nhất là các cháu
trong độ tuổi mầm non, cấp một. Đa số bệnh phát hiện là nhờ các trường có
cán bộ y tế sát sao tận tình, có chương trình dinh dưỡng theo dõi sức khoẻ
của trẻ em báo động cho cha mẹ. Qua chăm sóc trẻ hàng ngày tôi thấy trẻ có
cân nặng nhiều hơn so với độ tuổi là những trẻ rất thích ăn hay tích cực ăn
dưới mọi hình thức. Điều này không có nghĩa là ta phải đảm bảo nhu cầu
riêng của trẻ. Trái lại với những trẻ này tôi phải giúp trẻ ăn uống điều độ hơn
mà vẫn đảm bảo nhu cầu chung về dinh dưỡng, năng lượng mà trẻ vẫn cảm
thấy thích.
* Biện pháp 1: Giảm năng lượng khẩu phần ăn từng bước một, mõi tuần giảm
kkhoảng 300 calo so với khẩu phần ăn trước đó cho đến khi đạt năng lượng
tương ứng.

Đối với trẻ nhỏ năng lượng calo mồi ngày của trẻ được tương ứng giữa tỷ lệ
của các chất như: P 10-15%, L 12-13%, G 71-72%. Có nhiều hình thức cho trẻ
giảm bớt năng lượng nhưng vẫn đảm bảo cho trẻ được no, khoẻ mạnh và tích
cực tham gia các họt động trong ngày đó là việc kết hợp nhiều loại thức ăn
trong ngày thay thế cho thực phẩm chính.
Ví dụ 1: Theo chế độ nhà trường 9h15’ là được uống sữa, toi đã không báo số
trẻthừa cân béo phì cho KT nhà ăn biết và tăng thêm lượng sữa cho trẻ đó ở
bữa này
Ví dụ 2: Đến giờ ăn bữa chính 10h30 phút tôi lại tiếp tục giảm lượng tinh bột
cho trẻ (cơm) thay vào đó là tăng cường cho trẻ ăn rau củ. Như vậy với
lượng sữa trẻ uống thêm và lượng cơm giảm đi tôi thấy lượng calo đã giảm
được một phần nhưng sức khoẻ của trẻ vẫn được đảm bảo.
Với hình thức này tôi cũng gặp mộy số khó khăn vì thực tế nhữnh trẻ đó rất
thích ăn cơm, trẻ muốn ăn thêm nữa nhưng với lời giải thích nhẹ nhàng dần
dần trẻ đã hiểu ra và nghe lời cô giáo ăn nhiều rau củ cho má hồng môi xinh,
da tráng như thế bé trông lại càng đáng yêu hơn.
* Biện pháp 2: Ăn ít chất béo,chất bột.
- Năng lượng (calo) đưa vào cơ thể qua thức ăn, thức uốngđược hấp thu và
được oxy hoá để tạo thành nhiệt lượng.
- Năng lượng ăn quá nhu cầu sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ. chế độ ăn giàu
chất béo hoặc đạm, nhiệt độ cao có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỷ lệ béo
phì. Các thức ăn giàu chất béo thường dễ ăn nên người ta ăn quá thừa mà
không biết. vì vậy khẩu phần nhiều mỡ dư số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa
calo nên chỉ ăn nhiều mỡ thịt mà ăn nhiều chất bột đường, đò ngọt đều có thể
gây béo.
- Qua khảo sát ta nhận thấy: Những trẻ thích ăn chất béo, chất bột luôn tăng
cân nhanh hơn so với trẻ khác từ 0,7- 0,8 kg trong một tháng. Nên trong quá
trình chăm sóc trẻ thừa cần ta cũng cần chú ý đến những trẻ này qua các
hình thức. Kết hợp với nhà bếp khi lựa chọn thực phẩm khônh có mỡ, khi chế
biến các món ăn không dùng bằng dầu ăn thì lượng chất béo trong thành

phần cũng được giảm bớt đáng kể.
- Chất bột ta cũng phải giảm cho trẻ trong quá trình chăm sóc.
Ví dụ: Trong bữa ăn nên giảmcơmcho trẻ, hạn chế ăn nước thịt, khoai tây và
bí ngô v…v… để tăng cường ăn rau và các chất sơ.
- Để biện pháp này có kết quả cao tôi thường kết hợp với cha mẹ trẻ và đề cao
vai trò của những người mẹ đối với trẻ.
Ví dụ: Hướng dẫn các mẹ cho con ăn điều độ, khônh cho trẻ uống nhiều nước
ngọt. Ăn sáng nhiều hơn là buổi tối.
Buổi tối cho các con ăn thức ăn dễ tiêu hơn vì buổi tối các con ít làm việc và
vận động hơn. Cần nhất là cha mẹ phải coi lại chế độ ăn uống của con em
mình, hạn chế nhưng chất dầu mỡ, chiên sào và năng cho các cháu tập thể
dục.
* Biện pháp 3: ăn đủ chất đạm, vitamin, muối khoáng. Cần bổ xung viên đa
vitamin và vi lượng tổng hợp.
Để biện pháp này thự sự có hiệu quả bản thân tôi đã kết hợp tốt với cán bộ y
tế để lấy được những chuẩn mực rõ ràng về cách đánh giá trẻ thừa cân béo
phì dưới 6 tuổi. Cán bộ cho rằng để có kết quả tốt người ta chủ yếu dựa vào
cân nặng so với chiều cao và lớp mỡ dưới da (tuy nhiên ở lứa tuổi này lớp mỡ
dưới dacủa trẻ chưa ổn định, việc đo lớp mỡ dưới da của trẻ dưới 6 tuổi và
trẻ quá béolà thiếu chính xác hơn nữa trẻ thừa cân thường là béo phì. Do đó
theo WHO về mặt đánh giá cộng đồng trẻ thừa cân được xem là béo phì độ 1.
Từ những kết luận của cán bộ y tế tôi đã yêu cầu họ cung cấp cho một số loại
thuốc phù hợp với trẻ để từ đó trẻ có thể bổ sung thêm vitamin, vi lượng tổng
hợp mà cân không tăng nhiều, sức khoẻ vẫn đảm bảo tốt.
Vai trò của cán bộ y tế rất quan trọng nhưng không kém phần quan trọng đó
là vai trò của người mẹ, người cha phải biết tuân thủ theo đúng chỉ định của
bác sĩ. Có như vậy việc thực hiện giúp trẻ hạn chế tăng cân cho trẻ mới có
hiệu quả cao.
*Biện pháp 4: Tăng cường ăn rau và hoa quả.
Đúng như vậy rau quả là một loại thức ăn vô cùng quan trọng nó góp phần

tăng sức đề kháng cho cơ thể, cung cấp một số vitamin cần thiết giúp cơ thể
hấp thu được nhiều loại thức ăn khác nhau.
Tuy nhiên để rau quả thực sự có tác dụngcho cơ thể ta cần phải chú ý đến
cách chế biến và thời gian ăn các loại quả.
Ví dụ 1: Khi ta chế biến các loại rau củ cần phải đảm bảo còn đủ lượng
vitamin cần thiết cho đến lúc trẻ ăn.
Ví dụ 2: Ta không xào giá đỗ với gan lợn vì sẽ làm mất hết chất tươi của giá
và các chất bổ trong gan lợn cũng bị phân huỷ nhiều.
- Khi chọn thực phẩm phải tươi ngon, không có chất kích thích, chất xúc tác,
rau ngon đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tất cả các vấn dề trên đều đã được đảm bảo tốt vì Trường mầm non Hoạ Mi
nhiều năm nay đạt danh hiệu tổ nuôi xuất sắc và đã ký hợp đồng với công ty
cung cấp thực phẩm sạch an toàn có uy tín của thành phố.
Ví dụ 3: Khi ăn hoa quả nên ăn trước bữa ăn thì hoa quả có tác dụng trực tiếp
trong quá trình tiêu hoá thức ăn sau naỳ của cơ thể.
* Biện pháp 5: Bổ sung gia vị cho trẻ như muối, mì chính 6g/ngày nếu trẻ
tăng huyết áp chỉ dùng 4g/ngày.
Gia vị là nguồn thực phẩm không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày
của chúng ta. Một bữa ăn ngon là ta biết kết hợp các loại gia vị vào thức ăn
cho phù hợp từ đó sẽ kích thích được các giácquan như khứu giác, vị giác, thị
giác… và bữa ăn của ta trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng đối với trẻ thừa cân béo
phì thì việc sử dụng gia vị lại là cả vấn đề quan trọng. Đa số trẻ thừa cân
thường ăn mặn hơn so với những trẻ khác nên khi chế biến thức ăn chỉ nên
dừng lại ở mức độ 6gmuối, mì chính / 1 ngày là đủ.
Muốn biện pháp này có kết quả tôi đã kết hợp với nhiều đối tượng khác để
cùng nhau chăm sóc trẻ.
- Kết hợp với tổ nuôi: Nấu riêng thức ăn cho những trẻ thừa cân và béo phì.
trước khi cho trẻ ăn tôi phải nếm thử thức ăn xem đã đủ đậm, ngọt chưa như
thế mới có thể điều chỉnh kịp thời lượng gia vị từ các bữa ăn sau.
- Kết hợp với gia đình: Để phụ huynh hiểu sâu hơn về vấn đề này tôi thường

tư vấn cho cha mẹ trẻ cách nấu ăn như thế nào cho trẻ với những bữa ăn ở
nhà để trẻ ăn ngon miệng mà vẫn đảm bảo được mục đích giảm khả năng
tăng cân cho trẻ.
* Biện pháp 6: Tạo thói quen ăn uống đúng chế độ.
Để điều chị và dự phòng trẻ thừa cân béo phì một cách có hiệu quả trước hết
cần hiểu rõ do đâu mà trẻ bị mập phì. Hiện tượng thừa cân béo phì xảy ra khi
năng lượng hấp thu lớn hơn năng lượng tiêu hao. Một chế độ ăn nhiều năng
lượng (thường là nhiều chất béo), ít vận độngdễ dẫn đến thừa cân béo phì.
Các yếu tố về nội tiết, chuyển hoá và gia đình cũng liên quan đến tình trạng
béo phì của trẻ . Để điều chỉnh chế độ ăn uống, bắt các con không phải là
chuỵen dễ dàng, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì, nhẹ nhàng giảng giải cho trẻ
mỗi khi đến giờ ăn . Ngoài ra tôi còn kết hợp với các thành phần khác để
cùng nhau chăm sóc trẻ. Điềuđó được thể hiện rất rõ đối với công việc của tôi
trong ngày.
Tôi đã kết hợp tốt, linh hoạt với cô giáo trong lớp nghiêm túc thực hiện chế
độ sinh hoạt một ngày của trẻ, thực hiện đúng thời gian cho các hoạt động
theo quy định có sự giám sát chặt chẽ của ban giám hiệu nhà trường. Có như
vậy tôi đã tạo cho trẻ được một thói quen tốt giờ nào việc nấy.
Kết hợp với kế toán nhà ăn: Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình tôi còn kết
hợp với kế toán nhà ăn luôn thay đổi thực đơn theo mùa, theo tuần chẵn, lẻ…
có thực đơn riêng cho trẻ thừa cân béo phì. Có như thế thức ăn trong mỗi bữa
ăn của trẻ được thay đổi liên tục không bị trùng nhau giúp trẻ ăn ngon, ăn
hết xuất và đặc biệt là vẫn đảm bảo được năng lượng cần thiết cho trẻ trong
mồi ngày đến trường. Sau đây là 1 số thực đơn mà tôi đã thực hiện có hiệu
quả trong quá trình chăm sóc trẻ thừa can béo phì.
Thực đơn 1:09h15’: Sữa 80ml/trẻ.
10h30’: Xào thập cẩm, canh mọc nấu chua thả giá, cơm tám.
15h00’: Phở gà.
Thực đơn 2:09h15’: Sữa 80ml/trẻ.
10h30’: Thịt bò (lợn) hầm hạt sen, rau củ nấu xương, cơm tám.

15h00’: Cháo thị củ quả.
Thực đơn 3:09h15’: Sữa 80ml/trẻ.
10h30’: Chả cá BASA + thịt, rau cải cúc nấu thịt bò, cơm tám.
15h00’: Xôi + thịt kho tầu.
Thực đơn 4:09h15’: Sữa 80ml/trẻ.
10h30’: Trứng đúc thịt, Bắp cải nấu thịt, cơm tám.
15h00’: Cháo gà.
Thực đơn 5:09h15’: Sữa 80ml/trẻ.
10h30’: Thịt sốt đậu, Canh rau nấu cua, cơm tám.
15h00’: Cháo thập cẩm.
Kết hợp với tổ nuôi: Chỉ có cô giáo thực hiện tốt thì vẫn chưa đủ mà tôi còn
kết hợp với các cô trong tổ nuôi để chế biến thức ăn sao cho đúng giờ là trẻ
có cơm ăn đối với lứa tuổi 24-36 tháng giờ uống sữa là 9h15’, ăn trưa
10h30’, ăn chiều là 15h00’.
ý kiến của tôi đưa ra được các cô bác trong tổ nuôi nhất trí luôn và tất cả các
đồng chí trong tổ phối hợp với nhau rất nhịp nhàng linh hoạt có hiệu quả cao
để đảm bảo chung yêu cầu của các cô giáo cũng như yêu cầu của nhà trường.
III. kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm.
1. Kết quả thực hiện:
Qua một thời giandài kiên trì, tận tình kết hợp với một số biện pháp khoa học
trên mà tôi đã làm, một phần nào đó đã giảm được tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì
trong lớp giảm rõ ràng. Đầu năm lớp tôi có 3 cháu trong diện thừa cân béo
phì đến tháng 03/2008 đã không còn cháu nào. Đây là một kết quả đáng
mừng cho cô và trò lớp tôi. Điều đáng mừng hơn cả là sức khoẻ của trẻ đã
đạt được mức chung của lứa tuổi. Mẹ cháu Phương tâm sự: “ Thật cảm ơn
các cô giáo, lần đầu tôi cứ nghĩ con mình béo khoẻ thế này là tốt quá rồi chứ
đâu có lường trước được một số bệnh do béo phì gây nên. Nay nhờ các cô
cháu không những có một thân hình khoẻ đẹp mà cháu còn nhanh nhẹn hơn
hứng thú tham gia vào các hoạt động chung với cô, với lớp”. Đây là một
thành công lớn của tôi cũng như của các cô giáo trong quá trình chăm sóc và

giáo dục trẻ. Từ đây trẻ được phát triển toàn diện cả về thể lực và trí tuệ góp
phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ.
2. Bài học kinh nghiệm.
Việc điều trị béo phì ở trẻ em đòi hỏi có thời gian, kết hợp sự điều chỉnh hợp
lý chế độ ăn của trẻ và các hoạt động. Với trẻ dưới 6 tuổi biện pháp chủ yếu là
giảm tốc độ tăng cân ( không phải là làm cho trẻ giảm cân hoặc không tăng
cân), bằng cach lựa chọn áp dụng những thực đơn đã được tính toán phù
hợp với trẻ. Ngoài ra cần khuyến khích trẻ hoạt động như chạy, nhảy hoạt
động, đi bộ hoặc thông qua các trò chơi vận động phù hợp hạn chế các trò
chơi ít vận động như xem tivi. Đối với các bậc cha mẹ trước tiên cần phải
giáo dục làm thay đổi quan niệm “ béo là khoẻ, phát tướng, …” giúp họ hiểu
được nguyên nhân tai hại cánh phòng bệnh boé phì đặc biệt là cacnhs phòng
bệnh boé phì ở trẻ em. Hướng dẫn cho mẹ biết cách theo dõi sự tăng trưởng
của con mình, và cách cho con ăn uống, hoạt động hợp lý nhằm phòng chống
cả suy dinh dưỡng và béo phì ở trẻ em.
Đúng như vậy với lương tâm của một nhà giáo tôi luôpn tự nhủ mình dù
trong bất cớ hoàn cảnh nào cũng phải đặt nhiệm vụ chăm sóc các cháu lên
hàng đầucoi các cháu như con ruột của mình. Vui khi khoẻ buồn khi con đau.
Đến nay các cháu lớp tôi rất khoẻ mạnh luôn vượt tỷ lệ chuyên cần của
trường đề ra. Phụ huynh yêu quý trường lớp ngày càng cho con đi học đều
hơn. Bên cạnh đó qua trao đổi với cô giáo phụ huynh đã biết cách chăm sóc
trẻ thừa cân khi ở nhà. Với kinh nghiệm của tôi đã được phụ huynh học tập
và nhân rộng ra hơn với các gia đình khác. Đặc biệt các biện pháp này của tôi
đã được áp dụng trong 2 năm nay.
Rất mong sự góp ý của đồng nghiệp để những kinh nghiệm của tôi ngày một
có hiệu quả hơn đó cũng chính là góp phần chăm sóc và giáo dục trẻ trong
trường mầm non ở giai đoạn phát triển hiện nay.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
MN Hoạ Mi, Ngày 28 tháng 02 năm 2008



* Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng có thói quen trong ăn uống
I. Đặt vấn đề.
Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân.
Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng,
hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu
cầu của bản thân.
Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực
tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và
để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường họctập
cho phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác
nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ
trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh
nghiệm học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí
lực của trẻ có thể bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài
đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha
mẹ, ông bà và cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó
trẻ sẽ hành động trong mộtmôi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô
giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm
yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả
năng bẩm sinh sẵn có của mình.
Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống
trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp
đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục thành phố
Hà Nội đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục
tại các trường Mầm non. Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề “Nâng cao
chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm” đã thu được
kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong
ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ
ở trường. Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt

trong ăn uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những
tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật…. do đó góp phần quan
trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho trẻ. Nếu trẻ có một thói quen
ăn uống xấu khôngnhững ảnh hưởng đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh
hưởng đến sự hấp thụ dinh dưỡng cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất
thiết phải chú ý, bồi dưỡng thói quen ăn uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Chính vì vậy
tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ từ 24 -36 tháng có thói quen tốt
trong ăn uống”
II. Giải quyết vấn đề.
1. Đặc điểm chung.
Đầu năm lớp tôi có 30trẻ – 2 giáo viên. Trong quá trình chăm sóc và dạy trẻ
chúng tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
- Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ. Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát xao việc tổ chức
chăm sóc, thực hiện quy chế chuyên môn.
- Bản thân tôi là một giáo viên tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm nhà trẻ Mẫu
giáo rất yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kinh nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Phụ huynh rất nhiệt tình, quan tâm đến bữa ăn của trẻ.
b. Khó khăn:
- Lớp có 91% trẻ mới đi học lần đầu chưa có có ý thức, đa số trẻ thích làm gì
làm đấy, khôngcó nề nếp trong mọi hoạt động.
- Trong giờ ăn trẻ còn có nhiều thói quen xấu. Bốc thức ăn gõ bát, uống nước
canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn
- Một số phụ huynh nhận thức saicho rằng: Trẻ quá nhỏ để đưa vào nề nếp và
cần phải cho trẻ ăn những thứ trẻ thích miễn sao ăn nhiều. Đặc biệt giữa pH
chưa có sự phối hợp cùng giáo viên để dạy trẻ có mộtthói quen trong ăn
uống.
Xuất phát từ thực trạng này một lần nữa tôi khẳng định nhất thiết phải đưa
ra một số biện pháp: “Giúp trẻ có thói quen tốt trongăn uống”

2. Một số biện pháp.
Biện pháp 1: ăn uống đúng vị trí, thời gian, số lượng, sắp xếp hợp lý số
bữa ăn mỗi ngày.
*Biện pháp này rất quan trọng vì nhưthế khi ốm bé hình thành phản xạ có
điều kiện, đến giờ ăn nhất định, vị trí môi trường đã định, thì đại não sẽ chỉ
huy các cơ quan tổ chức toàn thân làm tốt công việc chuẩn bị vào bữa tiếp
thu thức ăn.
VD: Tiết nước bọt tăng, đường dạ dày bắt đầu nhu động, các loại men tiêu
hoá do đường tiêu hoá tiết ra tăng lên, khiến bé tăng cảm giác đói. Có được
chuẩn bị về tâm lý, sinh lý này thì bé có thể ăn được một cách chủ động ăn
chăm chú, ngon miệng.
* Để biện pháp này có hiệu lực quả của tôi đã biết phối hợp với giáo viên
trong lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ (khôngcắt
xén, thay đổi tùy tiện) thực hiện đúng thời gian ăn theo quy định. Có như thế
mới tạo cho trẻ thói quen tốt giờ nào việc ấy. Bên cạnh đó tôi còn phối hợp
các cô giáo trong tổ nuôi còn phối hợp tuyên truyền với pH để có những ngày
nghỉ ở nhà pH cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có như vậy quá trình rèn
luyện của trẻ mới khôngbị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Việc làm này đã làm
tăng sự gần gũi giữa gia đình và lớp trong việc tạo nên thói quen tốt cho trẻ.
Biện pháp 2: Động viên trẻ tự xúc ăn, cố gắng tập cho trẻ sớm sử dụng
thìa, đũa để nâng cao hứng thú ăn cho bé.
Thật vậy, cứ đến bữa ăn của gia đình mà trẻ được ngồi cùng mâm, cũng có
bát thìa để ăn thì bé thích lắm, chúng luôn tay sử dụng thìa để xúc cơm, thức
ăn (mặc dù được ít). Một số phụ huynh sự con bẩn nên khôngcho trẻ dùng bát
thìa hoặc tự xúc nhưvậy vô tình chúng ta đã kìm hãm ham muốn ăn uống của
trẻ. Để trẻ tập xúc ăn còn khi ăn nên xới cho trẻ một ít ăn trước, ăn hết lại xới
thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho bé. Tránh ép bé ăn, để tránh sinh ra
bực bội mà trẻ chán ăn.
- Phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, kiên trì như hướng dẫn trong
giờ ăn.

- Kết hợpvới phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như
vậy việc dạy trẻ củacô giáo mới có kết quả cao.
VD: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cô nói con cầm thìa xúc cơm thật khéo như vậy
tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được đi biểu
diễn ở nhiều nơi được nhiều người biết đến và yêu quý.
Biện pháp 3: Tạo khôngkhí vào bữa ăn nhẹ nhàng, vui vẻ, khiến bé giữ
được tình cảm vui vẻ, yên tĩnh nhẹ nhõm.
Cũng như người lớn việc tạo cảm giác thiếu thú trước khi ăn là vô cùng quan
trọng, khôngthể thiếu được vì nếu trước bữa ăn mà buồn, chán thì trong suốt
bữa ăn đó trẻ cũng không vui vẻ luôn ở trạng thái uể oải, khôngtập trung. Do
đó trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyệnvui, liên quan
đến cách ăn uống mang tính giáo dục cao hoặc cho trẻ đọc thơ, hát vui vẻ.
Khôngnhững thế trong lúc còn tôi cùng giáo viên trong lớp luôn dùng lời lẽ
nhẹ nhàng động viên khen ngợi kịp thời mỗi khi trẻ ăn ngoan, nghe lời cô. Và
cũng như vậy tôi tuyên truyền tới từng phụ huynh về cách làm này để phụ
huynh hưởng ứng và giúp đỡ cô thêm những lúc ở nhà.
Biện pháp 4: Các biện pháp khác
* Vận động phụ huynh cố gắng cho conăn ít thậm chi khôngăn quà vặt,
ít ăn ngọt.
Những bé thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu cảm giác đói,
khôngthèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá cứ ở trạng thái làm việc khôngcó cơ
hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hoá rối loạn.
- Theo thực tế ở lớp tôi đầu năm học các cháu thường hay mang quà bánh
đến lớp phần lớn là kẹo, bim bim, bánh ngọt….
- Mặt khác được phụ huynh trao đổi là ở nhà cháu lười ăn, thời gian ăn quá
dài từ 1,5h – 2h /bữa.
- Đến giờ ăn ở lớp trẻ ăn rất ít phần lớn là ngậm cơm, bỏ xuất.
Nắm được tình hình này tôi đã trao đổi với phụ huynh, vận động phụ huynh
phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ.
+ Bước đầu tôi yêu cầu phụ huynh khôngcho con mang quà vào lớp, cô giáo

tìm hình thức khác nhau để dỗ trẻ như: trò chuyện chơi cùng trẻ như một
người bạn, gần gũi trao đổi để đáp ứng nhu cầu chơi mà học của trẻ.
+ Kéo dài giờ ăn hơn đối vớit trẻ ăn chậm, lười ăn.
VD. Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm/ 1 bữa
nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó tôi chia ra làm những phần
nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, tôi còn động viên trẻ kịp
thời nói cho trẻ biết nếu ăn ngoan, hết xuất rẽ rất xinh học giỏi được cô yêu…
Truy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn tôi khônghề thúc giục mà cứ để trẻ ăn từ từ
nhai kỹ nhưng có những khích lệ kịp thời để trẻ ăn nhanh hơn bạn khác.
+ Phân công giáo viên phụ trách từng trẻ lười ăn, ăn chậm từ đó nắm
đượcđặc điểm riêng cá tính của từng trẻ.
Đúng như vậy nhờ sự sát xao tới từng trẻ của từng cô giáo trong lớp mà tôi
đã biết được cá tính riêng của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh.
VD: Cháu Long hay ngậm cơm, nhả bã thịt, cháu Trung hay uống nước canh,
cháu Chi chỉ ăn được một miếng cơm rất bé
Đối với những cháu này trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe một số câu
chuyện nói về các bạn có những nết ăn cháu trong lớp qua đó giáo dục trẻ.
Bên cạnh đó tôi còn hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc con ở nhà (những
ngày nghỉ hoặc buổi chiều về) .
VD: Tôi đưa tới tận tay từng phụ huynh có con lười ăn chế độ sinh hoạt một
ngày của trẻ đặcbiệt nhấn mạnh giờ ăn các buổi cho phụ huynh rõ. Đồng thời
tôi cung cấp cho phụ huynh những tài liệu nói về TD của hoa quả đối với bữa
ăn của trẻ như thế nào và thời điểm nào cho trẻ ăn hoa quả là hợp lý nhất.
Bằng nhiều hình thức trên tôi đã được phụ huynh phản ánh là nhờ sựgiúp đỡ
hướng dẫn của cô giáo mà kết quả các bữa ăn của con tôi ở nhà có tiến bộ rõ
rệt à trong bữa ăn trẻ ăn được nhiều hơn.
* Tạo môi trường lớp học phong phú
- Luôn tạo môi trường lớp học phong phú với những mảng từng gây sự tò mò
cho trẻ đặc biệt là những bức tranh về ăn uống. Do đó giáo dục trẻ liên hệ
thực tế trong bữa ăn của mình.

ảnh minh hoạ tạo môi trường lớp học
Ví dụ : Trong chủ điểm gia đình tôi trang trí lớp bằng những tranh ngộ
nghĩnh đang ngồi ăn rất ngoan , hay ở chủ điểm thực vật tôI lại trang trí lớp
bằng những bức tranh rau hoa quả đẹp có màu sắc cư bản hấp dẫn trẻ. Chính
vì vậy đã góp phần giáo dục trẻ rất tốt trong bữa ăn.
* Xây dựng góc tuyên truyền của lớp :
Nội dung tuyên truyền thay đổi theo mùa đặc biệt là rất phong phú về nội
dung các bài, gần gũi với cuộc sống. Qua đó đã giúp phụ huynh hiểu rõ hơn
tầm quan trọng của bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt (chất lượng – số lượng) và
bổ sung thêm kiến thức về nuôi dạy con.











ảnh minh hoạ góc tuyên truyền lớp
* Phối hợp với nhà trường :
Tuyên truyền trên loa truyền thanh của trường những bài nói về dinh dưỡng,
cách chăm sóc con hoặc những bài thuốc hay à củng cố thêm kiến thức cho
phụ huynh, từ đó một lần nữa cô giáo trong trường cũng được học tập và
hiểu thêm về nhiệm vụ, công việc nuôi dạy trẻ. Sau đây là một số bài viết minh
hoạ:




Bài 1: Vì sao trẻ biếng ăn?
Rất nhiều bà mẹ trẻ bày tỏ sự băn khoăn khônghiểu tại sao con mình biếng
ăn, mặc dù bản thân đãcố gắng hết sức để chăm bẵm con và đã chú ý cho con
ăn đa dạng, đầy đủ, thơm ngon.
1. Thức ăn khônghợp khẩu vị, khônghợp với lứa tuổi của trẻ.
Một số ông bố bà mẹ cho rằng chỉ có một số loại thức ăn bổ và tốt với trẻ
như: Thịt, trứng, sữa, cá quả… và với niềm tin này, họ tích cực cho cục cưng
ăn các thức ăn bổ này hết ngày này qua ngày khác. Nếu cộng thêm kiểu nấu
lặp đi lặp lại thì việc trẻ biếng ăn là điều dễ hiểu.
Thựctế, trẻ cần ăn đa dạng các loại thức ăn, vì khi phối hợp nhiều loại thực
phẩm, chúng sẽ hỗ trợ cho nhau tạo nên khẩu phần cân đối, trẻ ăn sẽ ngon
miệng hơn, và dễ hấp thụ các chất dinh dưỡng hơn.
Ngoài thịt, trứng, sữa, phụ huyh nên cho trẻ ăn thêm đậu, đỗ vừng, lạc, tôm,
cua, lươn, rau xanh, quả chín… Khi trẻ còn bé từ 7-12 tháng thì nấu bột, nấu
cháo với các loại thức ăn đa dạng trong 4 nhóm thực phẩm (đạm, béo,
đường, vitamin và muối khoáng), nhưng khi trẻ lớn hơn (từ sau 12 tháng) đã
có đủ răng cửa và một số răng hàm nếu trẻ chán ăn bột, cháo thì có thể cho
trẻ ăn bún, phở, mì… nếu với các thực phẩm đa dạng.
2. Trẻ bị ép sẽ ăntheo một chế độ cứng nhắc, tạo nên tâm lý sợ ăn.
Do tâm lý sợ con đói, con còi, nên khi thấy bé ănko hết bát bột, bát cháo là
nhiều bà mẹ cố nhồi, ép bé ăn cho đủ mỗi bữa. Nhiều lần như vậy, bé sẽ đam
ra chán và sợ ăn, dần dần hình thành phản xạ, nên cứ thấy bưng thức ăn ra
là khôngmuốn ăn.
Chúng ta nên biết rằng khi trẻ có tâm lý thoải mái, vui thú, nhất là có tâm lý
ganh đua khi ăn thì kích thích các tuyến tiêu hoá, hoạt động, tăng bài tiết
men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng hơn. Điều này lý giải tại sao nhà con
đàn “dễ nuôi” hơncon một.
Các ông bố, bà mẹ tạo nên điều kiện cho con mình hoà nhập với các bạn cùng
trang lứa trong vui chơi, sinh hoạt ăn uống để tạo cho trẻ có tâm lý chia sẻ và

ganh đua sẽ giúp trẻ thích ăn hơn.
3. Trẻ hay ăn uống vặt và khôngđược ăn đúng bữa.
ăn các loại bánh kẹo, nước ngọt trước bữa ăn sẽ làm tăng đường huyết và
gây cảm giác “no giả tạo” nhưng thực chất là trẻ vẫn đói và vẫn bị nhiễm
dinh dưỡng. Do vậy, chỉ cho trẻ ăn, uống đồ ngọt sau bữa ăn với số lượng hạn
chế. Nên cho trẻ ăn đúng giờ giấc mỗi ngày.
4. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun móc, giun kim…
thường chán ăn và gầy yếu, xanh xao. Nên tẩy giun cho trẻ theo định kỳ 6
tháng một lần và giữ vệ sinh trong ăn uống, nơi ở cho trẻ.
5. Thiếu một số vitamin.
Các vitamin A,B,C… và một số yếu tố vi lượng (sắt, kẽm…) tham gia hình
thành các men tiêu hoá và quá trình chuyền hoá, hấp thu thức ăn. Các chất
dinh dưỡng này có trong thức ăn động vật (thịt, trứng, cá …) và thức ăn thực
vật (đỗ, đậu, rau quả và ngũ cốc) nhưng do trẻ lười ăn, ăn ít hoặc ăn kiêng,
nên bị thiếu.
Việc bổ sung vitamin và vi chất dinh dưỡng dưới dạng polyvitamin theo đúng
chỉ dẫn của bác sĩ có thể cải thiện được tình trạng chán ăn của trẻ. Tuy nhiên,
khôngnên dùng thuốc kéo dài vì sẽ thừa và có hại đén sức khoẻ của trẻ.
6. Trẻđang bị bệnh.
Khi trẻ bị bệnh như viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản, tiêu chảy, viêm
tai giữa… thì sẽ mệt mỏi và chán ăn.
Chăm sóc ăn uống cho trẻ lúc này rất quan trọng, giúp trẻ mau khỏi bệnh và
bình phục.
Khi trẻ ốm, cần cho ăn các thức ăn chế biến mềm, giàu chất dinh dưỡng.
Chọn loại thức ăn mà trẻ ưa thích và kiên trì dỗ dành cho trẻ ăn ít một, ăn
làm nhiều bữa.
Nếu bé của bạn biếng ăn khôngdo các nguyên nhân trên thì có thể nghĩ tới bé
lười ăn do thiếu men tiêu hoá.
Trẻ bị thiếu men tiêu hoá phân thường khôngmịn, có những hạt trắng lổn

nhổn, gọi là “phân sống”. Bình thường, trong cơ thể trẻ có rất nhiều loại men
tiêu hoá để giúp cơ thể tiêu hoá và hấp thụ các loại thức ăn làm cho trẻ chóng
đói, muốn ăn và ăn ngon miệng.
Nếu bị thiếu men tiêu hoá, phụ huynh có thể cho trẻ uống thêm men tiêu hoá
theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Tuy nhiên, chỉ nên cho trẻ dùng men tiêu hoá trong một thời gian ngắn (từ 1-
2 tuần)
Khôngnên cho trẻ dùng men tiêu hoá kéo dài, vì sẽ gây ức chế các tuyến tiêu
hoá trong cơ thể sản xuất men. Với trẻ sau 6 tháng, hàng ngày nên cho trẻ
thêm sữa chua (yaourt)
Muốncho trẻ hay ăn, chóng lớn, cần quan tâm chăm sóc trẻ một cách tỉ mỉ,
khoa học, tạo cho trẻ những bữa ăn đủ dinh dưỡng, ngon miệng. Khi trẻ
biếng ăn, cần bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục. Cần dặc biệt chú
ý đến yếu tố tâm lý của trẻ.
Bài 2: Bạn cần làm gì khi trẻ biếng ăn?
Việc cho bé ăn là một nghệ thuật thực sự: Nhiều lần bạn đặt câu hỏi vì sao
con người ta thì ăn uống dễ dàng thế kia còn con mình phải dùng đủ các biện
pháp mà vẫn chẳng chịu ăn bạn cần làm gì khi trẻ biếng ăn.
Những lời khuyên dưới đây giúp ban khắc phục tình trạng biếng ăn của trẻ.
Nếu con ban ăn ít hơn những đứa trẻ khác, nhưng con bạn vẫn phát triển
bình thường thì bạn không có gì phải lo lắng.
Con bạn hầu như không đói. Thật vậy! Bọn trẻ sinh ra với bản năng sinh tồn,
điều đó khiến cho chúng ăn những cái mà cơ thể chúng cần với một lượng
nhất định. Do đó bạn nên chấm dứt chế độ độc tài bên bàn ăn. Hãy để cho trẻ
quyết định nó sẽ ăn gì. Mặt khác, dạ dày của trẻ nhỏ hơn của người lớn rất
nhiều nên khẩu phần ăn của chúng nhiều nhất chỉ bằng một nửa của người
lớn.
Biếng ăn thường gặp ở trẻ 2,3 tuổi. ở độ tuổi này trẻ bắt đầu muốnkhảng
định mình.Bé để ý thấy những gì nó làm, nó nói đều tác động đến những
người xung quanh. Giờ đây bé muốn thử “tự vệ”. Bạn hãy cố gắng đừng để lộ

ra là bé phải ăn hết bát cơm vì như vậy dễ xảy ra điều ngược lại khi trẻ muốn
“tự khảng định mình”. Dần dần rồi bé sẽ hiểu ra rằng nó không ăn chỉ để mẹ
vui, mà vì để không bị đói.
Sự biếng ăn của trẻ đôi khi lại xuất phát từ những nguyên nhân khác.Thông
thườngkhi nấu nướng, bạn chế biến món ăn theo khẩu vị của mình. Nghĩa
làbạn nấu món ăn mà chính bạn thích. Nhưng biết đâu, bé lại có khẩu vị hoàn
toàn khác và cái món “chủlực” của bạn thì bé lại ghét cay ghét đắng?
- Bạn chỉ nên gợi ý cho bé ăn khi nó đói. Trẻ em thường chối bỏ thức ăn chẳng
qua vì chúng chưa kịp đói.Thằng bé lười ăn của bạn hình như không bao giờ
thấy đói? Cũng có thể do bạn không cho bé cơ hội ấy? Bạn hãy thử trong vài
ngàyliền không liên tục ép bé ăn. Hãy đợi để tự bé phải nhắc tới bữa ăn.
Khi quan sát được lúc nào bé thường thấy đói, bạn hãy cho bé ăn vào những
giờ phụ hợp, tạo cho trẻ lớp sống điều độ.
- Hãy giảmsố bữa ăn. Một đứa trẻ 3 tuổi thực sự khôngcần đến 5 bữa ăn mỗi
ngày. Giữa bữa ăn sáng và bữa ăn trưa, thay vì cho bé ăn cháo hay một lưng
cơm , bạn hãy cho bé ăn một quả chuối hay miếng đu đủ, có thể sau đó bé sẽ
ăn trưa một cách ngon lành.
- Hãy quan tâm đến tính đa dạng của các món ăn. Nếu ngày nào bạn cũng
dọn cho bé món trứng đúc thịt, thì chẳng có gì ngạc nhiên khi nó không muốn
ăn. Nếu bữa sau, bạn cho bé một khúc cá rán hay một bát súp sườn hầm
khoai tay, củ cải bạn sẽ thấy là ít ra là bé sẽ thử.
- Bạn hãy cố gắng sắp xếp bàn ăn, món ăn đẹp và “ngon mắt”. Bên cạnh
những búp súp lơ trắng là những cánh hoa cà rốt màu cam, bên cạnh những
khúc đậu đũa xanh có cà chua đỏ. Một sáng kiến rất hay là món sa lát thập
cẩm: cà rốt, ớt ngọt, giá đỗ, khoai tây, dưa chuột,…
- Hãy chấp nhận một số ýthích trái khoáy của bé. Nếu bé nhất định đòi làm
điều bực mình, hãy làm cho bé ăn. Đấy chẳng qua là khẩu vị . Nếu bé chỉ thích
ăn bánh mỳ kẹp hình tam giác hay uống sữa bằng ống hút, bạn cứ chiều theo
ý thích của bé, chắc chắn rồi đến lúc bé sẽ chán.
- Đừng ép bé ăn cái gì mà nó không thích. Thay vì thịt, bạn có thể cho bé ăn

trứng, cá hoặc giò, xúc xích. Nếu bé sợ rau, thì thay vì bực bội, bạn hay cho bé
ăn thêm trái cây.
- Bạn đừng cố giấu những thứ bé không thích ăn vào các món ăn. Vì chắc
chắn bé sẽ phát hiện và sẽ không chịu ăn nữa. Và nguy nhất là bạn đã làm nó
ghét cái món ăn mà đến nay nó vẫn thích.
- Bạn có thể dùng chiến thuật ” bình rượu mới cũ”. Thay vìcho bé ăn thịt với
cơm, bạn kẹp thịt vào bánh mỳ. Bạn có thể cho canh vào cốc như một thứ đồ
uống thay vì để bát như thường lệ.
- Bạn thử xay trái cây cho vào ngăn đá cho đông sệtlại, có thể bé sẽ thích hơn.
- Chỉ cho bé uống sau bữa ăn, chứ không vừa ăn vừa uống, đặc biệt là trước
bữa ăn. Nếu trước bữa ăn, dạ dày bé tẹo của bé đã được làm đầy bằng nước
ngọt thì đương nhiên là suất ăn trưa không còn quyền cư trú trong đó nữa.
- Cứ để cho bé ăn lâu như bé thích. Việc bé nhẩn nha cả buổi trưa không có
nghĩa là bé biếng ăn. Có thể việc tự ăn vẫn là quá khó đối với bé. Thậm chí cả
khi bạn thấy bữa ăn dường như không bao giờ kết thúc, thì đừng tỏ ra sốt
ruột. Bé chỉ cần biết là bạn muốn kết thúc bữa ăn, nó sẽ ẩn bát cơm ra xa
ngay. Vì điều đó dễ hơn so với việc xúc cơm vào miệng, rồi phải ngậm, nhai,
nuốt!
- Các ban hãy cùng ngồi ăn bên bàn ăn gia đình. Ngồi ăn một mình thật buồn
chán. Người bố kể chuyện một con chim đến làm tổ trong vuờn nhà như thế
nào, mẹ thì kể một câu chuyện vui khi đi chợ,… Thế là bé vừa ăn vừa giỏng tai
nghe, quên khuấy cái bát cơm đáng ghét.
- Bạn hãy để cho trẻ tự ăn. Phần lớn trẻ 2,3 tuổi sẽ ăn nhiều hơn nếu mẹ để
chúng tự ăn. Nếu mẹ cứ bón mãi, dần dần bé nhận thấy rằng đúng là một việc
khó chịu, chẳng khác gội đầu hay uống thuốc, cũng là mẹ làm cho bé. Hãy làm
sao để bé thấy rằng được ăn là niềm vui giống như một trò chơi vậy.
- Không nên ép bé ăn thêm thìa cơm cuối cùng. Nếu bé nói rằng nó đã no, hãy
để bé đặt bát xuống, còn bạn không bình luận gì về chuyện đó.
- Hãy để bé cùng tham gia nấu nướng. Bé sẽ thấy rau muống mà bé tự tay
nhặt, hay món thịt bé tự tay trộn gia vị sẽ ngon hơn rất nhiều.

- Bạn hãy quan tâm đến không khí bữa ăn . Sựvội vã, lộn xộn , những xung
khắc hàng ngày giữa bố và mẹ sẽ làm bé ăn mất ngon.
- Bé không nhất thiết phải ăn hầu hết khẩu phần ngay một lúc. Bạn hãy thử
chia nhỏ khẩu phần ăn của bé, ví dụ bé có thể ăn giữa bữa giữa buổi sau lúc
đi dạo, hoặc một bát cháo nhỏ trước lúc bé ra sân chơi với bạn bè. Có thể
không khí trong lành sẽ khiến món thịt bò xào mà bé rất ghét trở lên ngon
hơn.
Bài 3: Giáo dục tự lập cho trẻ
Sai lầm mà hầu hết các bậc cha mẹ đều mắc phải nhất là thường chăm
chútcho con mình quá mức. Sau đây là một vài lời khuyêngiúp tránh điều này.
+ Hãy cho bé một số quyền tự lập nào đó: tự mặc quần áo, tự mang giầy, tự
ăn và ngủ. Đây là những bước đầu tiên để tập cho bé có được tính tự lập.
+ Hãy cho bé có cơ hội được lựa chọn. Điều này sẽ giúp bé phát triển tư duy.
Khi bé bắt đầu biết đi, hãy để cho bé tự chọn quần áo để mặc. Nhờ vậy, bé
quen với việc lựa chọn tranh phục riêng cho mình. Khi lớn lên, bé sẽ không
bắt chước một cách mù quáng những điều mà người khác làm.
+ Hãy để cho bé có một trách nhiệm nhỏ nào đó. Chẳng hạn như yêu cầu bé
chăm sóc một cây trồng. Điều này tập cho bé có tinh thần trách nhiệm. Đừng
la rầy bé nếu không làm tốt nhiệm vụ này. Bé cần được dạy dỗ nhiều hơn. Nếu
có thể, hãy để cho bé tự biết một vài hậu quả từ công việc của mình làm.
Bài 4: Dùng cam như thế nào để có lợi cho sứckhỏe?
Cam là một trong những loại quả có giá trị bổ dưỡng cao nên rất được ưa
chuộng trong đời sống hàng ngày. Trước đây do còn khan hiếm và giá đắt
nên chỉ những người bệnh thuộc hàng trung lưu trở nên mới thường được
dùng cam để bồi bổ và khôi phục sức khoẻ. Nhưng ngày nay cam đã không
còn là một loại quả “quý tộc” nữa. Cam đang là một loại trái cây có mặt khá
thường xuyên trên bàn ăn của gia đình. Tuy nhiên, cách dùng cam như thế
nào cho thật đúng, cho thậtkhoa học để tận dụng hếttác dụng bổ dưỡng của
trái cây quý giá này đồng thời hạn chế được những mặt tráikhi dùng không
đúng cách thì không phải ai cũng biết. Nhiều người, nhấtlà những người có

khả năng kinh tế, đã dùng cam hơi thái quá, không những không phát huy
được những mặt tốt của cam mà còn xảy ra những “tác dụng phụ”, những tác
dụng không mong muốn như có cảm giác khó tiêu hay nóng rát ở vùng dạ
dày hoặc ít ra là hạn chế lợi ích vốn có của trái cam. Vì thế việc dùng cam cần
tuân thủ một số nguyên tắc, hay nói cách khác, là một nghệ thuật dùng cam.
Múi cam cà dịch cam có giá trị bổ dưỡng đối với sức khoẻ con người. Nhiều
nhà khoa học trên thế giới đã dành công sức để chứng minh và phát hiện ra
những giá trị mới của trái cây này trong việc phòng và chống lại nhiều bệnh
tật. Cam là một loại quả có múi và chứa chất dịch có màu vàng da cam, có vị
hơi chua và ngọt dịu kết hợp với mùi thơm đặc trưng, dịch cam có độ PH hơi
axít nên nếu những người bị viêm hay loét dạ dày nếu dùng cam vào lúc đói
sẽ làm tăng thêm cảm giác cồn cào và nóng rát. Cùi cam chứa nhiều chất
xenlulô hay còn gọi là chất xơ rất có giá trị trong việc nhuận tràng, kích
thíchsự co bóp của ruột nên có tác dụng chống táo bón. Chất xơ trong cam có
tác dụng hấp thụ lượng chất cholesterol hay chất béo có hại trong ruột và
đóng vai trò như một chiếc chổi quét chất độc hạitheo phân thải ra khỏi cơ
thể. Một thông tin gần đây nhất cho biết, chỉ cần một vài trái cam trong một
ngày (dùng theo cách gọt vỏ và ăn cả cùi) là đã có khả năng phòng chống
được bệnh ung thu ruột già và các bệnh tim mạch. Nếu có khoái khẩu thì chỉ
nên dùng 2,3 quả cam trong một ngày và theo cách gọt vỏ ăn cả cùi. Nếu
dùng nhiều hơn thì nên vắt lấy dịch kết hợp với ăn cùi, vì nếu dùng quá nhiều
chất xơ có thể có tai biến gây tắc ruột. Những người đang bị các chứng bệnh
như viêm loét dạ dày, tá tràng, viêm ruột không nên dùng cam vào lúc đói và
dùng dịch cam quá nhiều trong ngày. Tốt nhất là nên dùng cam sau bữa ăn
theo kiểu ăn tráng miệng. Nếu dùng Tetracyclin thì không nên dùng nhiều
cam vì dịch cam sẽ làm giảm bớt thậm chí cam sẽ làm mất tác dụng trị bệnh
của thuốc.
Bài 5: Lời khuyên về vấn đề ăn uống của trẻ em
Để làm cho trẻ ăn được ngon miệng, ăn được nhiều thức ăn dễ hấp thụ hơn,
điều trước tiên khi đi mua bạn phải chọn thực phẩm tươi mới, còn nhiều sinh

tố và muối khoáng.
Các thực phẩm mua về ăn liền như bánh mì, các loại bánh ngọt phải đựng
trong bao sạch tránh bụi bậm, ruồi nhặng. Rau củ mang về, bạn bỏ hết phần
không dùng được, rửa sạch rồi mới đem thái nhỏ (tuyệt đối không nên thái
nhỏ trước khi rửa)
Khi nấu bạn nên xào thịt, rau củ trước khi cho vào nấu. Phi hành mỡ cho
thơm trước khi xào thịt, rau củ sẽ làm cho các sinh tố tan trong mỡ được hấp
thụ hết và kích thích trẻ ăn ngon miệng.
Màu sắc của thức ăn cũng hấp dẫn trẻ, bạn nên sắp xếp để sao cho bát cơm
của trẻ cómàu sắc. Màu như: màu vàng của trứng, màu xanh của rau lá, màu
đỏ của cà rốt, màu nâu của thịt cá.
Khi nấu, bạn đậy vung kín (không nên quấy, đảo nhiều) thức ăn sẽ mau chín
và giữ được sinh tố. Thức ăn của trẻ phải nấu chín, không cho trẻ ăn thức ăn
tái hoặc sống dễ gây tiêu chảy, nhiễm trùng, giun sán.
Thức ăn chín nên cho trẻ ăn trong ngày, đến chiều trước khi cho trẻ ăn cũng
phải hâm lại. Không được để thức ăn quá lâu ngày và hâm đi hâm lại, thức ăn
sẽ mất dinh dưỡng và đặc biệt là nhiễm độc thức ăn gây nguy hiểm cho trẻ.
Không nên cho trẻ ăn các loại rau, quả còn sống, chua các loại gia vị như: ớt,
tiêu, tỏi, các loại nước uống kích thích như cà phê, bia, rượu,
Thức ăn của trẻ phải mềm, khi trẻ có đủ răng bạn có thể cho trẻ ăn thức ăn
cứng hơn.
Không nên cho trẻ ăn quá nhiều trong một bữa, trẻ sẽ chán ăn mất ngon, hôm
khác gặp thức ăn ấy trẻ sẽ sợ, chưa kể đến trẻ bị đầy bụng, khó tiêu. Nếu trẻ
bồi dưỡng nhiều, bạn nên cho trẻ ăn thành nhiều bữa trong ngày, trẻ sẽ hấp
thụ hết.
Tập cho trẻ ăn đủ loại thức ăn mà ở lứa tuồi trẻ có thể ăn được, không nên để
trẻ quen ăn đơn điệu với một loại thức ăn. Nếu bạn chỉ tập cho trẻ ăn cơm với
thịt hoặc trứng không thì lớn lên trẻ sẽ rất ghét và không thích, không biết ăn
cá, tôm, cua,….
Bạn cũng không nên cho trẻ ăn đồ ngọt vào trước bữa ăn chính gây chán ăn.

Không nên cho trẻ ăn quá no trước khi đi ngủ, nhất là ban đêm vì gây tiết
dịch tiêu hoá, làm tăng hưng phấn thần kinh, khiến trẻ khó ngủ. Buổi tối chỉ
nên cho trẻ ăn nhẹ các loại trái cây, bánh ngọt, uống sữa trước khi đi ngủ.
Khi trẻ ăn, bạn nên tập cho trẻ ăn đúng giờ, ngồi vào bàn ghế vừa tầm, tập
cho trẻ tự xúc, nhắc trẻ ăn chậm nhai kỹ. Tuyệt đối không nên dỗ trẻ ăn bằng
cách bế trẻ đi rong ngoài đường vì sẽ hình thành một tính xấu, rất khó sửa
cho trẻ.
Khi sốt cao, trẻ rất khát nước vì đổ mồ hôi, thở nhanh cho nên trẻ uống nhiều
nước dưới các hình thức:nước chín, trà pha loãng, nước chanh sữa,…
Cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu cung cấp đủ chất dinh dưỡng: chất đạm, béo,
bột, đường, rau, củ,…dưới dạng cháo lỏng, cháo thịt băm, cơm canh hoặc súp.
* Vận động phụ huynh sưu tầm các bài viết có liên quan đến việc chăm sóc và
nuôi dạy trẻ theo khoa học để đóng góp thêm tài liệu vào góc tuyên truyền
của lớp
Sau đây là một số bài có chất lượng mà phụ huynh đã sưu tầm được phổ biến
ở góc tuyên truyền của lớp.
Bài 1: Những việc cần làm đối với trẻ khó tập trung chú ý
Chú ý của trẻ mẫu giáo là phản ứng thích thú của trẻ đối với những đối
tượng xung quanh và những hành động của trẻ đối với những đối tượng đó.
Trẻ tập trung chú ý vào một đối tượng nào đó khi trẻ đang thích thú nó,
nhưng khi xuất hiện một đối tượng mới lập tức sự chú ý của trẻ được chuyển
sang đối tượng mới. Khả năng chú ý được tính bằng chiều dài thời gian thực
hiện một hành động từ đầu cho đến cuối. Đối với những trẻ có khả năng chú ý
ngắn thì mỗi việc trẻ tập trung được một lúc, sau đó lại chuyển sang việc
khác và như vậy là trẻ không hoàn thành được việc nào và rất dễ bị phân tán
tư tưởng.
1. Nguyên nhân
- Những hoạt động mang tính chất đơn điệu và không hấp dẫn trẻ.
- Những trẻ có tính cách dễ dao động, không kiên nhẫn, bền bỉ và thiếu tự tin
vào bản thân mình

- Do sự chậm hoàn thiện chức năng não bộ
- Đứa trẻ lười biếng, kết hợp với khả năng tiếp thu chậm, sự chậm chễ hay lo
lắng.
2. Làm thế nào để ngăn chặn:
- Tạo cơ hội giúp trẻ đạt được sự thành công trong hoạt động chú ý bằng
cách cho trẻ tự lựa chọn những việc mà trẻ thích. Khuyến khích và khen
thưởng cho bất kỳ sự cố gắng nào của trẻ trong việc thực hiện nhiệm vụ.
- Dạy và rèn luyện cho trẻ khả năng tập trung vào công việc
3. Những việc cần làm
- Tổ chức các hoạt động có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển chú ý có
chủ định như cho trẻ quan sát các sự vật xung quanh, khuyến khích trẻ tham
gia tích cực vào các trò chơi, khuyến khích trẻ hoạt động tạo hình, hát múa,
- Giao cho trẻ những công việc thích hợp và đặt trẻ những công việc cụ thể,
nghĩa là tạo điều kiện va chạm thường xuyên hơn với những tình huống buộc
trẻ phải chú ý thì mới hoàn thành được nhiệm vụ (ví dụ trẻ phải chú ý quan
sát kỹ mới tìm đủ lượng số con vật trong một bức tranh phong cảnh, hay
phát hiện những chi tiết thừa (thiếu) khi nghe một câu chuyện quen thuộc,…)
- Khi giao nhiệm vụ cho trẻ cần phải cụ thể, chi tiết, lời nói rõ ràng, ngắn gọn,
sau đó cho trẻ nhắc lại nhiệm vụ được giao.
Bài 2: Ăn nhai sẽ giúp trẻ ngon miệng
Bắt đầu ăn dặm, phải cho trẻ ăn lỏng, ăn mềm, vì lúc này đường tiêu hoá của
trẻ còn non yếu. Nhưng khi trẻ đã mọc răng thì cần tập dần để trẻ ăn nhai.
Một số bà mẹ cứ cho thức ăn vào cối xay sinh tố để nghiền nhỏ thành một hỗn
hợp bột mịn cho con ăn ngay cả khi con mình đã có đẩy đủ răng. Điều này
khôngtốt, khôngtạo cho trẻcảm giác ngon miệng và ảnh hưởng tới quá trình
tiêu hoá và hấp thu.
Nhai rất quan trọng đối với sự tiêu hoá của mọi loại thức ăn. Khi nhai sẽ kích
thích sự bài biết các men tiêu hóa.
Tại miệng kích thích sự bài tiết nước bọt, trong nước bọt có men ptyalin có
tác dụng phân giải tinh bột chín thành đường maltose.

Tại dạ dày kích thích bài tiết dịch vị, trong đó có men pepsin và men lipase.
Men pepsin có tác dụng tiêu hoá chất đạm, men lipase có tác dụng tiêu hoá
mỡ yếu. Ngoài các men tiêu hoá, dịch vị còn có một thành phần rất quan
trọng là axit clohydric. Axit này có vai trò quan trọng tạo môi trường axit
thuận lợi cho men pepsin hoạt động, có tác dụng sát khuẩn.
Tại ruột kích thích các men tiêu hoá của dịch tuỵ, dịchruột. Men tiêu hoá của
dịch tuỵ, dịch ruột kết hợp với muối mật, có tác dụng giúp tiêu hoá các thành
phần của thức ăn đến giai đoạn cuối cùng.
Nhờ các men tiêu hoá của dịch vị, dịch tuỵ dịch ruột và muối mật, các thức ăn
là chất đạm, chất béo, chất bột được tiêu hoá thành các axit amin, axit béo,
đường đơn để cơ thể hấp thu. Như vậy, khi trẻ có răng, cần chế biến các thức
ăn thích hợp để giúp trẻ tập ăn nhai. Nếu mọi thứ đều cho vào cối xay nhuyễ,
tạo thành một hỗn hợp mềm, mịn, trẻ khôngcần nhai chỉ nuốt. Các cơnhai và
hàm răng khôngđược tập luyện sẽ yếu và quá trình tiêu hoá, hấp thu cũng sẽ
khôngtriệt để vì men tiêu hoá khôngđược kích thích bài tiết đủ. Đó cũng là lý
do tại sao nhiều cháu nhỏ chán ăn, hay ngậm khôngmuốn nuốt thức ăn dưới
dạng hỗn hợp xay mềm.
Bài 3: Cháu thấp bé nhẹ cân có phải do di truyền không?
Sự tăng trưởng và phát triển của tr không chỉ phụ thuộc hoàn toàn do yếu tố
di truyền mà còn chịu sự chi phối rất lớn của chế độ dinh dưỡng và môi
trường, đặc biệt khi trẻ còn nhỏ dưới 6 tuổi.
Một đứa trẻ nuôi dưỡng trong môi trường vệsinh kém và chế độ sinh dưỡng
kém, sẽ khôngthể đạt được cân nặng và chiều cao bình thường.
Chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng rõ rệt đếnsự phát triển của trẻ trong hai
năm đầu và tuổi dậy thì. Bởi vậy trong giai đoạn này cần cho trẻ ăn đủ và
đúng để đáp ứng nhu cầu cơ thể đang lớn nhanh.
Trong những năm đầu của cuộc sống, con của các ông bố, bà mẹ thấp bé vẫn
có tốc độ lớn như trẻ bình thường nếu trẻ được ăn uống đầy đủ và đúng cách.
Bởi vậy cháu quá nhỏ so với tuổi, bạn cần đưa trẻ tới cơ sở y tế khám để có
lời khuyên dinh dưỡng hợp lý.

Bài 4. Hỏi đáp về dinh dưỡng và sức khoẻ của bé.
* Với những trẻ kém ăn.
Sở thích về ăn uống của trẻ thường thay đổi, bữa thì ăn rất nhiều một món
nào đó bữa lại chê bai nó.
Sự thèm ăn và sự đói là hai vấn đề khác nhau. Đó là tình trạng cơ thể cần
“nhiên liệu”. Còn sự thèm ăn hay ăn ngon miệng là một thái độ bao gồm sự

×