Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.64 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN













TRẦN BÍCH NGỌC




GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU


Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn






Cán bộ hướng dẫn: Ths. PHAN THỊ MỸ HẰNG











Đề cương tổng quát:
Cần Thơ, 05 /2009
GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số quan niệm về giọng điệu văn chương
1.1.1. Ở góc độ lí luận văn học
1.1.2. Ở góc độ nghiên cứu văn học
1.1.3.Ở góc độ thi pháp học
1.2. Một vài nhận xét chung về giọng điệu
1.3. Khái niệm

1.3.1. Giọng điệu văn chương
1.3.2. Giọng điệu văn chương trung đại
1.4. Thơ Nguyễn Đình Chiểu – Sự kết hợp truyền thống và đổi mới trên một số lĩnh
vực hình thức thơ
1.4.1. Lời thơ
1.4.2. Nhạc điệu
1.4.3. Nhịp thơ
Chương 2: TÍNH CHẤT TRỮ TÌNH, ĐA THANH, NHIỀU CUNG BẬC TRONG
GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
2.1. Giọng trữ tình đạo đức
2.1.1. Giọng triết lí, trải đời
2.1.2. Giọng nhẹ nhàng, gián tiếp
2.1.3. Giọng lạc quan, tự tin
2.2. Giọng trữ tình sử thi
2.2.1. Giọng sôi nổi, hào hùng
2.2.2. Giọng cổ điển, trang trọng
2.2.3. Giọng bi hùng
Chương 3: YẾU TỐ HÌNH THỨC TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI GIỌNG
ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
3.1.1. Phương ngữ Nam bộ
3.1.2. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao
3.1.3. Từ Hán Việt
3.1.4. Điển tích, điển cố
3.2. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh
3.2.1. Hình ảnh so sánh dân gian
3.2.2. Hình ảnh so sánh ẩn dụ, tượng trưng
3.3. Các biện pháp nghệ thuật khác
3.3.1. Liệt kê
3.3.2. Tương phản

3.3.3. Phép láy PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN









































1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn yêu nước, một chiến sĩ của lý tưởng nhân
nghĩa. Ông có một lòng thương yêu sâu sắc đối với nước, với dân, ông có một thái độ
dứt khoát đối với kẻ thù, luôn luôn nêu cao khí phách của một nhà nho chân chính
trước uy vũ của quân địch. Suốt đời ông đã mượn giấy bút chiến đấu không biết mệt
mỏi để bảo vệ cho chính nghĩa được toàn thắng, cho đạo lý được bảo toàn, cho nhân
dân được yên ổn. Thơ văn của ông giúp ta thấy rõ thêm quá trình đấu tranh anh dũng
của dân tộc trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó nung nấu chí
căm thù giặc và tay sai lên cao độ. Nó kích thích và động viên tinh thần chiến đấu tiêu
diệt quân thù. Một trong yếu tố nghệ thuật góp phần truyền tải tất cả nội dung đó đến
người đọc, làm nên giá trị tác phẩm cũng như tạo nên phong cách riêng của Nguyễn
Đình Chiểu phải kể đến giọng điệu trong thơ văn của ông.
Như chúng ta biết, ngôn ngữ thơ diệu kỳ và phức tạp. Trong cái diệu kỳ ấy, có
một nguồn hết sức quan trọng làm nên thi ca, đó là giọng điệu. Chính giọng điệu là
một trong những yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa nhất trong thi pháp cũng như phong
cách nhà văn. Tạo ra một giọng điệu trong sáng tác là thể hiện tài năng nghệ sĩ, phong

cách riêng của một nhà thơ.
Đối với người thưởng thức có khám phá ra thế giới riêng biệt của nhà thơ mới
hiểu được chân giá trị thẩm mỹ trong sáng tác của họ. Cùng với niềm yêu thích thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu, cũng như thấy được tầm quan trọng của đề tài, chúng tôi đã
chọn “Giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là tác giả tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ mà còn
là nhà thơ nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Dù cuộc đời riêng gặp nhiều bất hạnh
nhưng không vì thế mà ông buông xuôi. Nguyễn Đình Chiểu đã khiến cho mọi người
khâm phục cả về tài năng và ý chí vươn lên của bản thân ông. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng nhận xét: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt
của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng sáng. Văn thơ
Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.[4;36] Có thể điểm qua một số nhà nghiên cứu, phê
bình: Nguyễn Phong Nam, Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai,…, nhận xét về Nguyễn
Đình Chiểu ở nhiều lĩnh vực khác nhau qua một số công trình tiêu biểu: Nguyễn Đình
Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của nhà
thơ; Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình; Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm
thi pháp học; Từ ngữ - thơ văn Nguyễn Đình Chiểu; Nguyễn Đình Chiểu thân thế, sự
nghiệp và tác phẩm,…Cụ thể:
Công trình đầu tiên có thể kể đến đó là quyển “Nguyễn Đình Chiểu tấm gương
yêu nước và lao động nghệ thuật, kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của nhà thơ (1822-
1972)” [29] có: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc kỷ niệm ngày sinh Nguyễn
Đình Chiểu; Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu; Diễn văn của Hà Huy Giáp “Bài học sống,
chiến đấu và sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu” đọc trong lễ kỷ
niệm lần thứ 150 ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu; Bài viết của cố thủ thướng Phạm Văn
Đồng, và những các bài nghiên cứu, phê bình về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu xoay
quanh vấn đề Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật. Trần
Thanh Mại có nhận định: “Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu khi thì hùng
hồn, cảm khái, khi thì tha thiết lâm li, nhiều đoạn uyển chuyển du dương, nhiều đoạn
lại sôi nổi, mạnh mẽ. So với giai đoạn trước xâm lăng, rõ ràng Nguyễn Đình Chiểu có

một bước tiến mới về nghệ thuật, điều này thể hiện bước tiến mới của nhà thơ về tư
tưởng” [29;289]. Như vậy, tác giả đã đề cập đến hơi thơ trong thơ văn của Cụ Đồ
Chiểu có sự thay đổi tùy theo từng hoàn cảnh phản ánh cụ thể.
Trong quyển “Lịch sử văn học Việt Nam tâp 4A. Giai đoạn I:1858 – Đầu thế kỉ
XX [22], Phan Côn và Lê Trí Viễn có viết: “Về mặt ngôn ngữ, ông dùng nhiều từ địa
phương, nhiều điển tích, nhất là ở những đoạn thuyết minh về đạo lý” [22;67].
Công trình “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng của người tri thức Việt Nam
[10], Vũ Khiêu – Nguyễn Đức Sự đã nghiên cứu về những truyền thống của người tri
thức Việt Nam, sự ảnh hưởng của Nho giáo, việc vận dụng Nho giáo trong thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu và thái độ của Nguyễn Đình Chiểu đứng trước nạn ngoại xâm,
khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc sống và trong thơ văn của ông.
Các tác giả đã viết: “…Trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã luôn tỏa sáng một
tinh thần lạc quan, lòng yêu quý nhân dân, niềm tin sâu sắc ở thắng lợi của chính
nghĩa, ở tài năng và đạo đức của con người”[10;35].
Bài viết của Nguyễn Phong Nam - “Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp
học” [13], đã nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu về góc độ thi pháp ở phương
diện đề tài, kết cấu, ngôn ngữ trong các truyện Nôm, một trong những cống hiến quan
trọng của Nguyễn Đình Chiểu cho nền văn học dân tộc. Tác giả bài viết có đề cập đến
giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: “Tác phẩm của ông không phải để tiêu nhàn,
mà nhằm răn đời, để hướng đạo cho mọi người. Cái mục đích này đã ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tổ chức lời văn trong tác phẩm của ông. Truyện Nôm Nguyễn Đình Chiểu
là những bài giảng giải, trình bày, luận bàn về đạo lí, đạo đức cho một đối tượng giả
định, một công chúng đang hướng về, đang quan tâm tới những vấn đề thiết cốt đối
với tất cả mọi người. Bởi thế, ngay từ câu mở đầu ở các tác phẩm, giọng điệu giáo
huấn đã được cất lên một cách công khai [13;112-113] . Như vậy, công trình đã có
phần nào đề cập đến giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhưng bài viết chỉ mới
đề cập ở truyện Nôm, còn giọng điệu trong các tác phẩm khác chưa được nhắc đến.
Cuốn “Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình” [20], tác giả Tuấn Thành và
Anh Vũ đã giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu, và trích dẫn một số bài nghiên cứu
phê bình về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ở các khía cạnh khác nhau. Bài viết của Đặng

Thai Mai có nhận định: “Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là “khúc ca hùng tráng của
phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp” ngay từ những ngày đầu chúng mới
đặt chân lên xâm lược đất nước Việt Nam [20;177]. Cũng trong cuốn sách này, Hoài
Thanh đã nhận xét về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: “Từ ngày đất nước bị xâm lăng,
toàn bộ văn thơ Nguyễn Đình Chiểu chỉ xoay quanh một vấn đề là vấn đề mất nước.
Từ tiếng chửi, lời ca, tiếng khóc đến lời ước mơ đều hướng về một mục tiêu duy nhất.
Nội sự chuyển hướng về đề tài ấy cũng đã là một bài học.. Tiếng chửi giờ đây không
còn là chửi vào những chuyện bội bạc, phản phúc hay hưởng lạc dâm ô, chửi vào các
loại Võ Thể Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Chỉ còn một tiếng chửi Tây và những đứa
theo Tây” [20;196]. Chính sự thay đổi về nội dung sẽ có sự thay đổi về nghệ thuật
trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, và điều đó làm cho thơ văn ông mang nhiều giọng
điệu khác nhau.
Quyển “Tác giả trong nhà trường Nguyễn Đình Chiểu”[23], có bài viết của
Hồng Dân – “Nguyễn Đình Chiểu cái mốc lớn trên tiến trình của Tiếng việt văn học”
đã nghiên cứu về một khía cạnh nghệ thuật thơ văn Nguyễn Đình Chiểu “Ta có thể bắt
gặp ở đây những từ ngữ cửa miệng, những từ phương ngôn, những thành ngữ, tục
ngữ, những cách nói chung, của nhân dân Nam Bộ nói riêng … Chính những từ ngữ
này, đến lượt nó lại góp phần làm cho văn thơ Nguyễn Đình Chiểu, nhất là những áng
văn thơ yêu nước chống Pháp chứa chan hơi thở của đời sống hiện thực … Chính đặc điểm
trên đây đã tạo nên nét độc đáo trong phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Đình
Chiểu”[23;207].
Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu nhìn chung đã có rất nhiều công trình, bài
viết với đầy đủ các quy mô khác nhau, phản ánh nhiều góc độ khác nhau về cuộc đời
và sự nghiệp, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật,... Nhưng giọng điệu thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu chưa được khảo sát như một chuyên luận. Tuy nhiên, những công trình
trên là những cứ liệu phong phú trong quá trình nghiên cứu đề tài, và với kiến thức còn
hạn hẹp chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu sâu hơn về giọng điệu cũng như các yếu tố hình
thức trong mối tương quan với giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sẽ giúp chúng tôi hiểu rõ hơn các giọng điệu đặc trưng trong thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu, các hình thức nghệ thuật tương quan với giọng điệu. Bên cạnh
đó, việc tìm hiểu đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu giá trị thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài giúp chúng tôi tích lũy thêm
kiến thức sâu hơn, toàn diện hơn về tác giả mà mình yêu thích, và tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác giảng dạy thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi sẽ khảo sát “giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu” ở phương diện nội dung và phương thức thể hiện trong các tác phẩm của
Nguyễn Đình Chiểu qua hai giai đoạn sáng tác của ông.
Để làm nổi bật “giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”, chúng tôi nghiên cứu
thêm giọng điệu của một số nhà thơ trung đại cùng thời: Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
…, để làm nổi bật vấn đề.
Chúng tôi sử dụng nhiều tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu đề tài:
 Các dẫn chứng thơ được trích trong các quyển:
1. Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình [20]
2. Bài giảng văn học Việt Nam trung đại 3 [7]
3. Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận [24]
 Các tư liệu liên quan khác”:
1. Từ điển thuật ngữ văn học [6]
2. Từ ngữ - Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu [5]
3. Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học [13] 4. 99 phương tiện và biện pháp tu
từ [11]
5. Nguyễn Đình Chiểu thân thế, sự nghiệp và tác phẩm [1]
6. Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng của người tri thức Việt Nam
[10]
7. Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nhân dịp
kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu [28]
8. Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật
- Kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của nhà thơ [29]
9. Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (Tập 1 & 2) [26]

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tập hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu,
phê bình về những vấn đề có liên quan đến giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và
các yếu tố hình thức nghệ thuật trong mối tương quan.
Phương pháp chủ yếu sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là phương pháp
phân tích tổng hợp kết hợp với chứng minh. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng thao tác
so sánh, đối chiếu để làm nổi bật các giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.















Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1.Một số quan niệm về giọng điệu văn chương
Khái niệm giọng điệu đã được nhắc đến trong mỹ học phương Đông qua các
khái niệm gần gũi như “hơi văn”, “văn khí”. Có thể nói giọng điệu là một trong những
yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa nhất trong thi pháp cũng như trong phong cách nhà văn,
nhưng lại khó xác định về mặt lý thuyết. Ở mỗi góc độ, giọng điệu được định nghĩa

nghiên cứu theo từng khía cạnh khác nhau.
1.1.1. Ở góc độ lí luận văn học
Lê Ngọc Trà quan niệm: “Giọng văn hay giọng thơ là phạm trù của thi pháp
học nghiên cứu một trong những hình thức bộc lộ chủ quan của nhà văn trong tác
phẩm nghệ thuật. Văn học là tiếng nói của con người về cuộc đời, tác phẩm văn học
chứa đựng tiếng nói ấy nên nhất định phải có giọng. Giọng của tác phẩm cũng giống
như giọng nói của con người. Trong giọng thể hiện cả nhận thức thái độ, lối sống và
cả nội lực của nhà văn (vì vậy giọng nhiều khi có nghĩa là hơi văn, văn khí). Đồng
thời, giọng cũng là cái không lẫn được”.[21;152]
Như vậy, trong lí luận văn học, giọng điệu được thể hiện là thái độ tình
cảm đạo đức của nhà văn đối với các đối tượng được mô tả, thể hiện trong lời văn và
khả năng huy động các biện pháp nghệ thuật làm nổi bật giọng điệu.
1.1.2. Ở góc độ nghiên cứu văn học
Lê Bá Hán định nghĩa: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng,
đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định
cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành
kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm, …
Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẫm mĩ
của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng
truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra
được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [6;134-
135]. Nguyễn Thị Khánh Dư quan niệm: “Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa
được biểu hiện ở phương diện ngữ âm: trầm bổng, trong đục, nhanh chậm, ngắn
dài,… vừa được biểu hiện ở phương diện phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương; khoan
thai hay dồn dập, sôi nổi; trân trọng hay mỉa mai khinh bỉ, phê phán hay ca ngợi, yêu
thương hay căm giận, mềm mại dịu dàng hay cứng cỏi kiên quyết, tha thiết gắn bó hay
thờ ơ lãnh đạm [2;52]. Và đứng ở bình diện thi pháp, chủ yếu chúng ta tìm hiểu các
giọng điệu gắn liền với tình điệu, với văn khí, hơi văn, mạch văn, cái giai điệu, cái
“hồn” chi phối toàn bộ tác phẩm. Tác giả còn nhấn mạnh: “Giọng điệu chính là yếu tố
quan trọng nhất để phân biệt cái “cổ họng” – nét bút của nhà văn này so với nhà văn

khác để tạo thành phong cách nhà văn”. [2;53]
Hoàng Ngọc Hiến đã nói về vai trò của giọng điệu trong văn chương: “Câu văn
có hồn là câu văn có giọng,… bài văn không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự
phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu
văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và
tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết”. “Người Pháp có câu “Cest le
ton commande la musique” (Chính cái giọng chi phối bài nhạc). Ở những áng văn
hay, cái giọng của câu văn mở đầu có ý nghĩa quyết định cho sự cảm hứng chủ đạo và
nội dung của toàn bộ tác phẩm”. “Cảm hứng nào, giọng điệu ấy nhưng cũng có thể
ngược lại giọng điệu định hướng sự hình thành cảm hứng”.[8;154-155]
Cũng đứng từ góc độ nghiên cứu văn học, Lê Lưu Oanh quan niệm về giọng
điệu: “Vốn là một trong những hình thức bộc lộ chủ quan rõ rệt nhất. Giọng điệu là
âm hưởng chung trong cách cảm, cách nhìn, màu sắc, cảm xúc, kiểu tiếp xúc của thế
giới, là thái độ, tình cảm, lập trường, đạo đức của tác giả thể hiện trong lời văn, tạo
nên một giọng điệu nói riêng mang tính phong cách”. Giọng điệu rõ nhất ở lập trường
chủ thể lời nói (khoảng cách xa hay gần với khách thể), tư thế chủ thể (trên dưới,
ngang hàng, phục tùng, răn dạy,…), quan niệm về khách thể (kính trọng hay coi
thường, tôn trọng hay sàm sỡ,…), cảm xúc (dằn vặt, xót xa, mạnh mẽ, yếu ớt…).
Có nhiều cách phân loại giọng: theo sắc thái tình cảm (trang trọng hay thân mật,
chậm rãi hay vội vàng), theo nội dung tình cảm (bi hài, anh hùng ca, lãng mạn, hiện
thực), theo sự kết hợp các loại tình cảm (bi tráng, bi hài), theo khuynh hướng cảm
hứng (thông cảm, phê phán, khẳng định, yêu thương, căm thù), theo cấu trúc giọng (đơn
âm, giọng chính, giọng phụ, hướng nội, hướng ngoại), theo cấu trúc thể loại (văn
xuôi, trữ tình, chủ quan, khách quan). [14;156-157]
1.1.3. Ở góc độ thi pháp học
Trần Đình Sử quan niệm: “Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc
của chủ thể đối với đời sống” [17;248]. Và đối với sự việc, hiện tượng thấp kém bình
thường, người ta thường có giọng điệu mỉa mai, cười cợt; đối với các sự việc đáng
tiếc, mất mát, thương tổn, người ta có giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi”. Ông còn
nhận định: “giọng điệu tác phẩm phụ thuộc vào cảm hứng chủ đạo của tác

giả”.[17;248]
Ở một công trình nghiên cứu khác, Trần Đình Sử xem “Giọng điệu là một đơn
vị nghệ thuật của văn học hiện đại đối với văn học hiện đại, để phù hợp với một sự
diễn tả mới mẻ, sống động, đầy ắp, ngôn ngữ phải là tiếng nói. Từ đó xuất hiện một
đơn vị nghệ thuật mới: giọng điệu. Như vậy chất liệu của văn học không chỉ là từ còn
là giọng, là lời của văn bản [18;137]. Và ông đã đưa ra lời nhận xét chung nhất về
giọng điệu thực chất: “giọng điệu của nhà thơ không phải đơn giản là chất giọng trời
phú tự nhiên của một danh ca, cũng không phải chỉ là giọng quê hương mang theo từ
nơi “chôn nhau cắt rốn” mà chính là khái quát xã hội nhất định”. [18;229]
Nguyễn Đăng Điệp nói về giọng điệu văn chương là “một phạm trù quan trọng
của thi pháp học có nhiệm vụ tìm hiểu trong những hình thức bộc lộ cái chủ quan của
nhà văn trong tác phẩm văn học; và nó có chức năng thể hiện thái độ, lập trường cái
nhìn chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng
tới. Giọng điệu trong văn xuôi thường mang tính khách quan lạnh lùng, còn giọng
điệu thơ ca thấm đẫm tính chủ quan”. [3;341]
1.2. Một vài nhận xét chung về giọng điệu
Điểm qua một số ý kiến về giọng điệu, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những
nét cơ bản về giọng điệu:
Thứ nhất, giọng điệu thể hiện sắc thái tình cảm, lập trường, thái độ của nhà thơ
đối với cuộc sống, cho nên sẽ có sự đa dạng phong phú về giọng điệu. Nó không chỉ là
vấn đề thuộc phong cách nghệ thuật mà còn là yếu tố quan trọng tạo thành tư tưởng,
nội dung tác phẩm. Thứ hai, giọng điệu là một yếu tố thuộc bình diện nghệ thuật, nó chi
phối đến
các bình diện hình thức, được bộc lộ qua các dấu hiệu hình thức, cho nên nó có vai trò
rất quan trọng trong việc bộc lộ thái độ, tình cảm, nội dung tác phẩm.
Thứ ba, giọng điệu là một trong nhiều yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa trong việc
thể hiện phong cách nhà thơ, điều đó giải thích được vì sao cùng sáng tác về một mảng
đề tài nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ lại có cách thể hiện khác nhau và thông qua giọng
điệu độc giả có thể dự đoán và khẳng định chính xác một câu thơ hay một đoạn văn
bản là sản phẩm của nhà văn, nhà thơ nào.

Thứ tư, các giọng điệu là một yếu tố không thể thiếu được trong sáng tạo nghệ
thuật. Trên bình diện thi pháp, giọng điệu gắn liền với tình điệu, với hơi văn, với văn
khí. Mạch văn, giọng văn, cái giọng điệu, cái “hồn” chi phối toàn bộ tác phẩm và đây
chính là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nét bút của nhà văn này so với nhà văn
khác, để tạo nên phong cách nhà văn.
Ngoài ra, chúng ta cần phân biệt giọng điệu với ngữ điệu. Ngữ điệu là phương
tiện biểu hiện của lời nói thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh nhịp
điệu, chỗ ngừng. Từ điển tiếng việt định nghĩa: “Ngữ điệu là những biến đổi về độ cao
của giọng khi nói, khi đọc, có liên quan đến cả một ngữ đoạn và có thể dùng để biểu
thị một số ý nghĩa bổ sung. Thí dụ: Ngữ điệu hỏi. Bằng ngữ điệu anh ấy tỏ thái độ
không bằng lòng”. [15;673] Giọng văn (thơ) có quan hệ với giọng điệu, ngữ điệu của
lời nói, nhưng hai khái niệm này không phải là một. Giọng văn (thơ) là phạm trù của
thi pháp học, còn ngữ điệu thuộc về ngôn ngữ học. Đồng thời, cũng cần hiểu rằng, yếu
tố giọng điệu không tách rời mà liên quan chặt chẽ với các yếu tố khác để tạo nên giá
trị tác phẩm.
Từ những nét cơ bản về giọng điệu, chúng tôi khảo sát “giọng điệu thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu” dựa vào quan điểm của các nhà nghiên cứu trong Từ điển thuật
ngữ văn học và trên bình diện thi pháp học. Nghĩa là, tìm hiểu “giọng điệu thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu” từ thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức, …, cũng như
các nguyên tắc tổ chức hình thức thơ (lời thơ, nhịp thơ, hơi văn, nhạc điệu, …) của Cụ
Đồ Chiểu.


1.3. Khái niệm
1.3.1. Giọng điệu văn chương
Giọng điệu là một trong những yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa nhất trong thi pháp
cũng như phong cách nhà văn. Giọng điệu văn chương vừa cho phép người đọc nhận
ra vẻ riêng nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định tài năng nhà văn. Người
nghệ sĩ có tài năng phải tạo ra được một giọng điệu đặc trưng trong sáng tạo nghệ
thuật của họ.

1.3.2. Giọng điệu văn chương trung đại
Nhìn một cách tổng quát, tính quy phạm của văn học trung đại thể hiện ở các
phương diện cơ bản. Về quan niệm, văn học trung đại đề cao mục đích giáo huấn, tôn
thờ tư tưởng “trung quân ái quốc”. Về tư duy nghệ thuật: văn học trung đại ưa tìm đến
những khuôn mẫu nghệ thuật được coi là “vàng ngọc”. Về mặt thể loại, văn học trung
đại chủ trương niêm luật chặt chẽ, đúng quy cách. Về mặt ngôn ngữ, văn học trung đại
ưa tìm đến cách nói trang nhã, hay sử dụng điển tích, điển cố… Các nhà thơ trung đại
hướng về lời dạy của Thánh hiền, chí của họ, đức của họ là chí, đức của bậc quân tử.
Trong quan hệ với thiên nhiên, các nhà thơ cổ điển nhìn thấy các biểu tượng đạo đức
trong đó: tùng, bách biểu thị bản lĩnh của bậc quân tử, hoa mai biểu hiện khí tiết, hoa
sen biểu thị thanh tao, vầng trăng biểu thị sự trong sáng.
Từ trên các phương diện cơ bản đó, các thi nhân trung đại chủ yếu tập trung
“làm thơ” hơn là sáng tác thơ. Trên nền chất liệu và công thức có sẵn, họ như những
người thơ trong xưởng thợ, khéo léo đánh cờ đúng theo “luật chơi”. Không có ý thức
bộc lộ , giải phóng cá tính, không coi cá nhân như một giá trị tự thân, chủ yếu chú ý
đến cộng đồng, văn học trung đại là văn học của chữ “ta”. Yếu tố giọng điệu của chủ
thể sáng tạo dù đã xuất hiện trong thơ trữ tình trung đại thể hiện ý thức quẫy đạp của
các nhà thơ khỏi những ràng buộc quy phạm đã có từ ngàn năm, song nhìn chung chưa
thật rõ nét. Nhà thơ trung đại đã thực hiện những cuộc giao tiếp “gián cách”, vì thế
giọng điệu chủ thể thường ẩn kín sự “kín đáo” ấy còn xuất phát từ nguyên tắc xây
dựng hình tượng con người trong thơ trung đại.
Nhìn lại chặng đường văn học trung đại đến thế kỉ XIX, với Nguyễn Công Trứ,
Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, những người cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu
như: nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, … các sáng tác của họ tuân theo
tính quy phạm của văn học trung đại, giọng điệu thể hiện một cách kín đáo, thâm trầm.
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân từ “Cửa Khổng sân Trình” nên có sự ảnh hưởng ít
nhiều, nhưng giọng điệu thơ văn của Cụ Đồ Chiểu đa dạng, khi thì thâm trầm kín đáo,
gián cách, khi thì trực tiếp sôi nổi, hùng hồn.
1.4. Thơ Nguyễn Đình Chiểu- sự kết hợp truyền thống và đổi
mới trên một số lĩnh vực hình thức thơ

1.4.1. Lời thơ
Các nhà thơ, nhà văn trung đại thường kí thác tâm sự của mình qua lời thơ, lời
văn. Chính vì thế, khi đọc cảm thụ một tác phẩm văn học cũng có nghĩa là cảm nhận
tư tưởng, tình cảm của người viết. Ai trong mỗi chúng ta đều phải rơi lệ cho cuộc đời
lưu lạc Thúy Kiều. Chúng ta vui buồn cùng với nỗi vui buồn của nàng, ta đau đớn khi
thấy cô Kiều bị hành hạ, đánh đập tàn nhẫn bởi bọn “mua thịt buôn người”: Tú Bà, Sở
Khanh; bọn “mặt sắt đen sì” Hồ Tôn Hiến, sai nha… Để rồi trước bao bất hạnh đoạn
trường của nàng Kiều, chúng ta cũng gật đầu đồng tình với Nguyễn Du khi ông đưa ra
lời nhận định đậm chất nhân đạo về thân phận của người phụ nữ tài sắc trong xã hội
cũ:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều)
Không chỉ thế, người đọc cũng phải rơi nước mắt khi đọc những bài thơ, bài
văn tế của Phạm Thái, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm … với bao nỗi niềm chất
chứa trong đó. Nối tiếp truyền thống đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng văn thơ để bày
tỏ nỗi lòng, làm vũ khí chiến đấu mà “đâm mấy thằng gian”. Mỗi câu thơ, mỗi lời văn
đều là mỗi giọt máu nhỏ ra từ trái tim đỏ thắm tình yêu nước. Trước cảnh quê hương
lầm than, triều đình bạc nhược, Cụ Đồ Chiểu chỉ còn biết hy vọng vào những “trang
dẹp loạn”. Và cái chết của Trương Định, Phan Tòng là sự hụt hẫng, tuyệt vọng về
niềm tin một ngày kia “trời âu ca hiệp một nhà” của Cụ. Nhưng trên cả sự tuyệt vọng
ấy là niềm thương cảm xót xa trước sự hy sinh của những vị anh hùng dân tộc. Nguyễn
Đình Chiểu khóc cho cái chết của những trang anh hùng hy sinh cũng là khóc cho
tương lai đất nước. Nỗi niềm của nhà thơ còn thể hiện ở chỗ mong có một vị minh
quân xây dựng lại trật tự xã hội công bằng, mơ ước cuộc sống ấm no hạnh phúc, nên
kết thúc tác phẩm bao giờ cũng có hậu. Ở hầu hết các truyện Nôm đều có kết cấu: gặp gỡ -
tai biến – đoàn viên. Số phận các nhân vật được định đoạt theo triết lí: “thiện giả
thiện báo, ác giả ác báo”.
Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa những thành tựu của văn học trung đại trước đó,
đồng thời ông cũng góp phần vào kho tàng văn học nước nhà những sáng tác hoàn

toàn độc đáo mới mẻ. Ta thấy có sự đổi mới trong các truyện thơ của ông. Đối với
Nguyễn Đình Chiểu truyện Nôm là hình thức gần gũi, quen thuộc để gởi gắm tất cả
tình cảm, cảm xúc, quan niệm cuộc đời. Các truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu là
những truyện kể - những câu chuyện mà người nghệ sĩ trình diễn, sẽ trực tiếp nói,
ngâm, kể trước đám đông lao khổ. Khi được trình bày ở những nơi tụ hội đông người,
không khí cộng đồng sẽ giúp cho tác phẩm thoát lộ hết mọi ưu điểm, tính chất, đặc
trưng của thể loại. Những câu chuyện về trung hiếu tiết hạnh, nỗi khát khao về lẽ công
bằng, lòng nhân ái… rất cần đến sự thông cảm của nhiều người. Trong truyện của
Nguyễn Đình Chiểu, lời văn thường được tổ chức theo lối gián tiếp. Nghĩa là ở đây, tất
cả, từ việc miêu tả các sự kiện, cảnh vật, suy tư của nhân vật, cho đến lời đối thoại đều
được trình bày thông qua lời kể của tác giả - người kể chuyện. Nhân vật của ông đối
thoại rất nhiều, tỉ lệ rất cao, song lời thoại ấy không phải là một hình tượng được mô tả
mà chỉ là một thông báo. Lời đối thoại giữa các nhân vật ở đây đã bị bỏ mất phần lớn
giá trị biểu cảm, chỉ còn lại các thông tin về sự việc và nó thể hiện lên trong tác phẩm
thông qua lời kể lại. Tác giả lên tiếng “nói hộ”, phát ngôn thay cho tất cả bằng giọng
điệu của mình. Chính vì điều đó, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã mang tính chất tự
truyện chất chứa nhiều hoài bão, ước mơ thầm kín. Lục Vân Tiên và Kỳ Nhân Sư là
hình bóng, mơ ước của Cụ. Lục Vân Tiên khóc mẹ mù mắt, những cảnh lang thang,
phiêu dạt, gặp thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói lừa đảo… được xây dựng, sắp xếp diễn
biến tự nhiên. Người mù được thuốc tiên chữa khỏi lại ra phò vua giúp nước là lí
tưởng lúc trẻ của Nguyễn Đình Chiểu. Kỳ Nhân Sư tự xông mù mắt, giỏi nghề thuốc,
vui thú thiên nhiên, sống hòa quyện trong sự quý mến của mọi người xung quanh.
Nhân vật hài lòng với cuộc sống và giữ trọn đạo đức cũng là ước ao theo lý tưởng lúc
già của Cụ Đồ Chiểu.
Lời thơ trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu mang âm hưởng văn hóa dân gian,
ông đã đưa nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ, hình ảnh gần gũi với đời sống nhân dân,
đã làm cho lời thơ không cứng nhắc, gò bó. Nguyễn Đình Chiểu đã đưa lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân trong thơ văn của mình. Chính những từ ngữ mang tính địa
phương đã tạo nên một không khí đặc biệt nhưng nôm na đến mức thật thà, chân chất,
đồng thời đó là nhân tố quan trọng góp phần đưa thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đi vào

một cách tự nhiên, trở nên phổ biến rộng rãi trong đời sống quần chúng nhân dân.
1.4.2. Nhạc điệu
Cụ Đồ Chiểu vốn xuất thân từ “cửa Khổng sân Trình” nên tư tưởng của Cụ
thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, trong các sáng tác của mình Cụ Đồ Chiểu đã đề cao
quan niệm về trung, hiếu, tiết, hạnh giống như Nho giáo đã đề ra. Và cũng vì thế, trong
sáng tác Nguyễn Đình Chiểu đã tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố của hình thức thơ
trung đại như các luật của thơ Đường. Như chúng ta biết, văn chương trung đại không
chỉ giàu chất trữ tình mà còn rất phong phú về nhạc điệu. Nhạc điệu là phương tiện
nghệ thuật để nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình. Nó được thể hiện qua việc hài thanh,
tức là cách bố trí các thanh bằng, trắc để tạo nên âm điệu du dương réo rắt hay khoan
thai dìu dặt theo mức độ cảm xúc đang diễn ra trong tâm hồn thi sĩ. Kế thừa truyền
thống đó, Nguyễn Đình Chiểu cũng rất chú ý đến nhạc điệu trong những bài thơ của
mình. Trong các bài thơ Đường luật, hầu hết Nguyễn Đình Chiểu gieo vần bằng. Bởi
vần bằng thường biểu hiện những tình cảm êm đềm, tha thiết. Điều này rất phù hợp
với Nguyễn Đình Chiểu trong việc thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết,
nồng nàn. Vì hình thức truyền đạt nói và kể, nên thơ Đường luật của Cụ Đồ Chiểu rất
gần gũi với nhân dân, không có sự cứng nhắc về cách dùng từ, vần, luật, niêm, đối,…,
và có sự phá cách để thể hiện tối đa nội dung cần diễn đạt. Bài thơ số VI trong liên
hoàn thập thủ có cùng tựa đề “Thơ điếu Phan Tòng” là một ví dụ tiêu biểu:
“Ba Tri từ vắng tiếng hơi chàng
Gió thảm mưa sầu khá xiết than
Vườn luống trông xuân hoa ủ dột
Ruộng riêng sầu chủ lúa khô khan
Bầy ma bất chính duồng làm nghiệt
Lũ chó vô cố cung mắc nạn
Người ấy vì ai ra cớ ấy
Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan”.
Theo quy tắc của thơ Đường luật: “Nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục
phân minh”. Nhưng trong bài thơ trên, chữ thứ tư của câu thứ sau cùng thanh với chữ
thứ hai và thứ sáu (cùng thanh trắc). Mặt khác, bài thơ được viết theo luật bằng, thì chữ thứ

bảy của câu thứ sáu lẽ ra phải là vần bằng nhưng ở đây Nguyễn Đình Chiểu lại
gieo vần trắc “nạn”. Dụng ý phá cách và đưa một loạt những tiếng có thanh trắc: lũ,
chó, cố, mắc, nạn vào một câu thơ làm cho số âm tiết mang thanh trắc chiếm gần toàn
bộ câu thơ đễ diễn tả nỗi uất ức, phẫn nộ về sự vô lý đang xảy ra trước mắt Cụ Đồ
Chiểu.
1.4.3. Nhịp thơ
Bên cạnh đó, trong thơ còn có sự chuyển đổi nhịp thơ tùy theo hoàn cảnh. Nhịp
thơ của Nguyễn Đình Chiểu phần nhiều là khoan thai, chầm chậm, nhất là khi diễn tả
những nỗi chờ mong khắc khoải: “Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông”, nhưng cũng có
khi nhà thơ tạo những câu thơ với nhịp điệu dồn dập, gấp rút trong những trường hợp
cần thiết như cảnh chạy giặc hỗn lộn, nhốn nháo – nhịp điệu thơ gấp rút hòa theo nhịp
bước chân của dân chúng chạy loạn: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/ Mất ổ bầy chim dáo
dác bay”. Hoặc trong trường hợp thể hiện khí thế chiến đấu của nghĩa quân, khi xông
trận mạc, “chí dốc đoạn kình ra tay bộ hổ”, đem thân bách chiến, sẵn sàng “da ngựa
bộc thây”: “… Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; Bọn hè
trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng pháo nổ”. Nhịp thơ còn góp phần thể hiện thái
độ quyết không đội trời chung với giặc của Nguyễn Đình Chiểu, của chiến sĩ yêu
nước: “Bờ cõi xưa/ đà chia đất khác/ Nắng sương nay há đội trời chung”. Cách ngắt
nhịp 3-4 tạo thành một biến tấu đầy rung động thể hiện sự căm thù uất hận, vang lên
như một lời thề nung nấu bất hợp tác với kẻ thù.
Một trong yếu tố góp phần làm cho thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đổi mới theo
hướng hiện đại và đạt giá trị nghệ thuật cao phải kể đến giọng điệu. Trong thơ văn Cụ
Đồ Chiểu, ta thấy có sự chuyển giọng linh hoạt. Giọng như khuyên như răn khi giáo
huấn đạo đức làm người, khi phê phán hay chế giễu lũ người bán nước và cướp nước
được thể hiện một cách kín đáo, giọng điệu thâm trầm nhưng không kém phần rắn rỏi,
cương quyết. Chất giọng hùng hồn, cảm khái khi kêu gọi nhân dân đánh giặc cứu
nước. Dù sống trong hoàn cảnh tăm tối nhưng giọng thơ của Cụ Đồ tràn đầy lạc quan,
tin tưởng vào vận mệnh tốt đẹp của đất nước, của dân tộc.
Qua đó, ta thấy sự kế thừa những thành tựu truyền thống quý báu của văn học
trong giai đoạn trước, và sự đổi mới theo hướng hiện đại đã làm cho thơ văn Nguyễn

Đình Chiểu gần gũi với quần chúng nhân dân, Nguyễn Đình Chiểu đã thay nhân dân bộc lộ
tâm tư, tình cảm của họ, đồng thời đã tạo cho thơ văn Nguyễn Đình Chiểu một
nét riêng đặc biệt mà không thể lẫn lộn với bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào khác.
























Chương 2
TÍNH CHẤT TRỮ TÌNH, ĐA THANH, NHIỀU CUNG BẬC
TRONG GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU


2.1. Giọng trữ tình đạo đức
2.1.1. Giọng triết lí, trải đời
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân từ một gia đình nhà Nho và được đào tạo dưới
môi trường Nho học. Ông lại sống dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn, một triều đại
tôn sùng đạo Nho đến tột mức. Trong tình hình ấy, Nguyễn Đình Chiểu không thể
tránh khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng nho giáo, càng không thể không vận dụng các
khái niệm của Nho giáo để diễn đạt tư tưởng của mình. Nhưng điều lưu ý là ông đã
đưa một nội dung đầy tính nhân dân và dân tộc vào trong các khái niệm Nho giáo.
Nguyễn Đình Chiểu đã cầm bút viết văn chương đạo đức theo hướng lấy việc tuyên
truyền đạo đức làm mục đích trực tiếp của văn chương. Quan niệm “văn dĩ tải đạo”
được Cụ Đồ không chỉ thể hiện rõ trong quan niệm cầm bút của mình:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
(Dương Từ - Hà Mậu)
Mà còn thể hiện rõ trong việc đề cao đạo làm người:
“Đạo trời nào phải đâu xa,
Gẫm ở lòng người mới thấy ra”.
(Dương Từ - Hà Mậu)
Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ ông chính là
chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp
đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam. Nên trong sáng tác,
Nguyễn Đình Chiểu đã đặt ra cho mình và cho người nghe một mục tiêu rõ ràng, đó là
giáo huấn. Tác phẩm của ông viết ra không phải để tiêu nhàn, mà nhằm răn đời, để
hướng đạo cho mọi người. Bởi thế, ngay từ câu mở đầu ở các tác phẩm, giọng điệu
giáo huấn đã được cất lên một cách công khai:

“Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau”.
(Lục Vân Tiên)

Hoặc là:
“Coi rồi chuyện cũ chư gia,
Lòng vì đạo học chép ra để đời”
(Dương Từ - Hà Mậu)
Ngay từ những dòng đầu tiên, người kể chuyện đã xuất hiện với một giọng điệu
xác định. “Hỡi ai lẳng lặng mà nghe” - lời giáo huấn ấy được thể hiện từ giọng điệu
của người từng trải, đã nghiền ngẫm nhiều về lẽ đời, được thể hiện một cách nghiêm
nghị, trang trọng nhưng cũng rất tha thiết, rất chân thành. Nhân dân không chỉ nghe,
mà phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, vận dụng ứng xử trong cuộc sống của mình. Sự sâu
sắc, trí tuệ trong những lời giáo huấn đạo đức còn được thể hiện xuyên suốt nội dung
tác phẩm, trong việc thể hiện quan niệm Nho giáo của mình. Nên khi đọc Nguyễn
Đình Chiểu, dù là Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Dương Từ - Hà Mậu hay
thơ văn yêu nước chống Pháp, ta thấy tuy quan niệm về trung, hiếu, tiết hạnh, nhân
nghĩa giống như quan niệm đạo đức Nho giáo, nhưng các quan niệm đó rất bình dị, nó
mang một nội dung đời sống, nội dung đạo đức có tính nhân dân rõ rệt:
“Mến nghĩa bao đành làm phản nước,
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà”.
(Dương Từ - Hà Mậu)
Lời giáo huấn đó rất gần gũi với nhân dân, gắn liền với những yêu cầu của nhân
dân và thời đại, và được Cụ Đồ nhấn mạnh trên hai ý nghĩa cơ bản: một là nhân nghĩa
phải biểu hiện thành việc làm điều thiện nhằm cứu giúp người khác ra khỏi khó khăn,
hoặc bảo vệ hạnh phúc của người khác trong cơn nguy biến. Hai là nhân nghĩa phải
góp phần duy trì sự hòa thuận êm đẹp trong gia đình và bảo vệ cuộc sống yên vui
trong độc lập và tự do của đất nước, trước hết là bảo vệ Tổ quốc khi có giặc ngoại
xâm. Nên khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu đã Việt hóa, nhào
nặn lại tư tưởng của đạo Nho, đã tiếp thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết nghĩa nhưng không còn
theo lý thuyết Nho giáo gò bó, áp đặt cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà được
khúc xạ đến mức khó nhận ra, nhân dân dễ hiểu, dễ vận dụng trong cuộc sống
đời thường. Ông quan niệm rằng đạo “trung quân” là cần thiết cho mọi người:


“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”.
(Lục Vân Tiên)
Xuất thân từ Nho học, sống dưới vòm trời đen nghịt của chế độ phong kiến,
Nguyễn Đình Chiểu không thể đi ra ngoài cái quan niệm cố hữu cho rằng một xã hội
phải có vua, và bất cứ một người thần dân nào cũng phải coi việc trung với vua là một
nghĩa vụ, một nguyên tắc chính trị và đạo đức tối cao của mình. Nhưng ông đòi hỏi
một ông vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài thương dân yêu nước.
Ông vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền độc lập tự chủ của
đất nước, và phải biết nghiêng mình xuống cứu vớt những con người sống trong đau
khổ và hoạn nạn, và nhất là phải biết cùng toàn dân bảo vệ Tổ quốc khi có giặc xâm
lăng. Trong suốt đời mình, nhất là khi đất nước bị giày xéo, ông tha thiết mong đợi
một ông vua như thế. Ông phê phán những ông vua xấu, vua ác làm hại dân tình:
“Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc quý phân băng,
Sớm dầu tối đánh lằng nhằng hại dân…”
(Lục Vân Tiên)
Ở Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm “trung” thường gắn với khái niệm “hiếu”.
Nhưng qua sự vận dụng của ông, khái niệm hiếu của Nho giáo cũng do ông nhắc nhở
và trở nên gần gũi với nhân dân hơn:

“Làm trai ơn nước nợ nhà,

Thảo cha, ngay chúa mới là tài danh”.
(Lục Vân Tiên)
Chữ “hiếu” của Nguyễn Đình Chiểu không cứng nhắc, ít nhấn mạnh vào sự
phục tùng mù quáng của con cái đối với cha mẹ như trong giáo điều của đạo Nho.
“Hiếu” ở ông là lòng biết ơn, tôn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom săn sóc cha
mẹ với tất cả tình cảm sâu nặng của người con. Đạo lý ấy được xem như mẫu mực xử
thế của mọi người trong xã hội.
Sự vận dụng mấy khái niệm Nho giáo trên ở Nguyễn Đình Chiểu cũng đủ
chứng minh rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí thức đứng trên quan
điểm và lập trường nhân dân vẫn có khả năng đưa vào những khái niệm của Nho giáo
những giá trị cao đẹp vốn nảy sinh trong cuộc sống của đông đảo quần chúng lao
động.
Điều quan trọng là khi giáo huấn, giọng điệu của Cụ Đồ không hề cao đạo hay
lên lớp, thể hiện ngay cả những lời động viên hay phê phán. Nguyễn Đình Chiểu giảng
giải, khuyên răn mọi người theo chính đạo, không nên lầm đường lạc lối theo tà đạo:
“Nhớ câu thiện ác đáo đầu,
Làm lành gặp phước sách đâu có lầm”.
(Dương Từ - Hà Mậu)
Khi phê phán những người lầm đường lạc lối, Cụ Đồ giải thích là họ chưa tìm
thấy chính đạo, họ chỉ mê muội nhất thời có thể khuyên răn sửa đổi họ, bởi bản chất
con người là “nhân chi sơ tính bổn thiện”, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu gương, đưa ra
những quan niệm gần gũi với đời sống hàng ngày để họ dễ dàng nhận thức được, lời lẽ
không có gì cao xa hoa mỹ:
“Ai từng mặc áo không bâu,
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau”.
(Lục Vân Tiên)
Đối với những người lầm đường theo giặc, Nguyễn Đình Chiểu vừa giận lại
vừa thương, Cụ Đồ đã khuyên răn nhiều hơn là chửi bới. Cụ giải thích cho mọi người
thấy rõ sống với Tây, sống theo Tây là một cuộc sống cực kỳ thảm hại:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại

thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lại, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nguyễn Đình Chiểu vạch rõ cái tương lai đen tối của những kẻ làm chó săn,
chim mồi cho giặc, và phân tích rõ lẽ thiệt hơn cho chúng:
“Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh. Hơn còn
đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc kháng
chiến cứu nước, cũng với cách nhìn nhận sự việc lành mạnh và dứt khoát như ông đã
thể hiện trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn nhận về cuộc
kháng chiến cứu nước thấm đượm một chủ nghĩa yêu nước thiết tha sôi nổi. Đó là chủ
nghĩa yêu nước được xây dựng trên nền tảng của lòng thương dân vô hạn, một lòng
thương dân đã hình thành trong suốt cuộc đời gần gũi và gắn bó của ông với nhân dân.
Đây không phải là lòng thương dân của những người trí thức quý tộc có thiện ý
nghiêng mình xuống thông cảm với quần chúng nghèo khổ ở phía dưới, mà thực sự là
lòng thương dân của một người trí thức cùng cảnh ngộ, cùng lập trường và quan điểm
với nhân dân.
Quan điểm yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rõ là lấy dân làm gốc,
nên đáng lẽ phải theo hòa ước của triều đình đã ký mới gọi là người trung. Nhưng
trung với vua, không thể bằng trung với dân được. Triều đình cắt đất nhượng cho
Pháp, nhưng nhân dân nhất định chiến đấu giành lại. Vì thế, Nguyễn Đình Chiểu phải
theo quan niệm chân chính của Thánh hiền là “dĩ dân vi bản” khi nhận được lời mời ra
giúp anh hùng Trương Công Định:
“Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngang mấy dặm mã tiền;
Thương bụng dân phải chịu Tướng quân phò, gánh vác một vai khổn
ngoại”.
(Văn tế Trương Định)
Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng vào sức chiến đấu của nhân dân, động viên đến
triệt để tinh thần chiến đấu của nhân dân:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn

kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành,
một chữ ấm đủ
đền công nọ”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Những lời kêu gọi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên của Nguyễn Đình Chiểu rất
thấu lí, đạt tình. Không chỉ kêu gọi suông, lý thuyết rập khuôn mà Cụ Đồ còn chỉ rõ
những triết lý hành động. Trong các bài thơ Đường luật, các bài văn tế, Nguyễn Đình
Chiểu đã cố gắng công phu để tuyên truyền cho đồng bào phải cùng nhau đứng lên cứu
nước giết giặc, phải thấy sự ra đầu hàng hay hợp tác với thực dân là cả một điều bôi lọ
cho phẩm giá con người. Nhân dân tuy xưa nay chỉ biết có cấy cày, chưa bao giờ đi tới
chỗ trường nhung, song cứ tiến, dao phay cũng chém được đầu giặc, nùi rơm cũng
được đốt được trại giặc, “bọn hò trước, lũ ó sau” cũng không sợ gì tàu thiết tàu đồng,
kẻ đâm ngang người chém dọc, cũng không lo gì bọn “mã tà ma ní”. Cái oán cừu này,
Nguyễn Đình Chiểu nghĩ rất đúng vì nguyên do của nó là ở bọn cướp nước. Theo Cụ,
nhân dân phải đứng lên, tiến hành chiến tranh cứu nước, bảo vệ độc lập của dân tộc vì
đó là một việc làm “chi nhân đại nghĩa”. Bất cứ một con người có lương tâm, biết lẽ
phải đều phải làm như vậy. Đứng trước tình cảnh ấy, các sĩ phu phải làm cho:
“Tiếng đồn trung nghĩa đến xa,
Thôi giữ cương thường làm chắc”.
(Văn tế trận vong Lục tỉnh)
Sự sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu ở chỗ ông đã thấy và chỉ cho mọi người dân
sự bất hạnh của nước nhà cũng chính là bất hạnh của mỗi người. Và đã là con dân của
nước không thể khoanh tay đứng nhìn, đã sinh ra làm người tất phải:
“Cơm áo đền bồi ơn đất nước,
Râu mày giữ vẹn đạo tôi con”.
(Thơ điếu Phan Tòng)
Nếu có thác đi chăng nữa, cũng còn danh thơm để đời, chớ không mang tiếng là
loạn thần, tặc tử:
“Biết đạo khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công

Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông”
(Thơ điếu Phan Tòng – I) Lời văn truyền cảm của Cụ Đồ, đã có sức động viên thuyết phục,
tuyên truyền
đối với mọi người, kích thích lòng yêu nước, yêu đồng bào, chí căm thù giặc sâu sắc
và gây được lòng tin vững chắc cho mọi người dân. Dù là một người nông dân bình
thường nhưng trọng nghĩa cả vẫn giết được giặc, dù chúng có súng to, súng nhỏ, tàu
đồng, tàu thiết.
2.1.2. Giọng nhẹ nhàng, gián tiếp
Trong xã hội giao thời, trước thực trạng phong hóa suy đồi, thời thế đảo điên,
nảy ra biết bao cảnh tượng đáng chỉ trích. Giai cấp phong kiến tan rã, phơi bày tất cả
bộ mặt xấu xa thuộc về bản chất của chúng. Trong hàng ngũ quan lại, ngoài một số bắt
được rễ dân tộc, đứng lên anh dũng chống Pháp, một số không chịu hợp tác với Pháp,
phần nhiều là những kẻ buôn dân bán nước, hám danh trục lợi, đua nhau nhảy toát lên
địa vị cao sang, nghiễm nhiên trở thành tầng lớp quý tộc mới trông thật vênh váo, hóm
hĩnh. Nguyễn Khuyến đã sớm nhận ra thực tại xã hội “Vua chèo còn chẳng ra gì/
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”, bộ mặt của bọn chúng chẳng khác nào những
món đồ chơi trẻ con. Bằng bút pháp hiện thực với một giọng điệu trào phúng sâu sắc,
Nguyễn Khuyến đã phơi bày những tội ác của thực dân Pháp và bọn quan lại xấu xa,
đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn “ma thiêng nước độc”:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải
Thằng bé lom khom nghe hát chèo
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”
(Hội Tây)
Tú Xương sắc sảo và quyết liệt hơn, xem bọn quan lại là một “phường nhơ” bởi
bộ dạng bọn chúng quá bẩn thỉu: “Bấy lâu chơi rặt với phường nhơ/Quen mặt ưa nhìn
chả biết dơ”. Tú Xương đã bày tỏ thái độ của mình đối với xã hội đương thời bằng

giọng điệu trào phúng, bông phèng nhưng không kém phần xót xa:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ kéo rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra”.
(Vịnh khoa thi năm Mậu Tý)
Với ngòi bút châm biếm sâu sắc ấy, Tú Xương đả kích bọn
thực dân Pháp không khoan nhượng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, những tên thực
dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười:
“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng”
(Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu)
Khác với Nguyễn Khuyến, Tú Xương …, giọng điệu phê phán, chế giễu của
Nguyễn Đình Chiểu mang vẻ thâm trầm, nhẹ nhàng, độ lượng nhưng không kém phần
sâu sắc. Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc và sự xem trọng đề cao tinh thần trách nhiệm
của người lương y “thấy người đau như thấy mình đau”. Nguyễn Đình Chiểu đã chế
giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… và chỉ rõ mục
đích thực dụng của chúng. Với bộ mặt “giả nhân giả nghĩa”, bọn chúng lừa dối hay lợi
dụng người bệnh để “Lấy tiền ăn trước cuốn đường chạy sau”, đối với chúng đồng tiền
cao hơn mạng sống con người, đồng tiền phải đi trước:
“Có ba lạng bạc trao sang
Thì thầy sắm sửa lập đàn chạy cho”.
(Lục Vân Tiên)
Tình cảnh khốn khó của nhân dân và đất nước dưới ách đô hộ của giặc
ngoại xâm đều được lịch sử và văn học ghi nhận qua mỗi giai đoạn biến cố của dân
tộc. Nguyễn Trãi với giọng văn hùng hồn, mạnh mẽ đã từng khắc họa một bức tranh
khái quát về tội ác chồng chất, hủy diệt tột cùng của giặc Minh, đến nỗi “trúc Nam
Sơn cũng không ghi hết tội”, “nước Đông Hải không rửa hết mùi”:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

(Bình Ngô đại cáo)
Đến khi thực dân Pháp đặt gót giày xâm lược lên đất nước ta, Nguyễn Đình
Chiểu đã ghi tiếp tội ác của chúng vào trang sử của dân tộc. Cụ Đồ đã tố cáo tội ác
ngất trời của kẻ thù qua cảnh chạy giặc của nhân dân, cảnh tang thương của đất nước:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay. Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
(Chạy giặc)
Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng không kém phần cứng cỏi, một mặt đã tố cáo mạnh
mẽ tội ác của bọn man di mọi rợ, mặt khác làm giảm đi phần nào sự bi thương mất
mác của nhân dân. “Một bàn cờ thế phút sa tay” khi tiếng súng Tây bất ngờ nổ ra trong
phút chốc mà nhịp sống yên bình của nhân dân thay đổi hoàn toàn. Dân tình hoảng
loạn và kinh hoàng đến cực độ. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ 19 vốn đã là vựa lúa
và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc
Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch “tan
bọt nước”. Nhà cửa xóm làng quê hương bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút “nhuốm màu
mây”, tiếng kêu rên xiết khắp nơi.
Trước cảnh tình ấy, nhân dân khắp nơi đã đứng lên đấu tranh chống kẻ thù với
ngọn tầm vông trong tay, họ chiến đấu hoàn toàn tự nguyện “nào đợi ai đòi, ai bắt”,
“chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi”, họ xem cái chết vì chính nghĩa như:
“Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Giọng điệu tuy bộc lộ một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng hết sức rắn rỏi,
cương quyết. Mượn sự hy sinh của nghĩa quân, Nguyễn Đình Chiểu phê phán sự vô
trách nhiệm của bọn vua quan bán nước và triều đình:
“Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồn. Biết
thưở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Là một nhà Nho sống có đạo lý, lại mang nặng tư tưởng Nho giáo, Nguyễn
Đình Chiểu không cao giọng lên án, gay gắt với nhà vua, nhưng không phải không

buộc tội kẻ đứng đầu trăm họ không làm tròn phận sự của mình. Hai từ “vì ai” đã thể
hiện giọng điệu đặc trưng, vừa thể hiện sự đau xót, vừa là sự trách móc kín đáo của Cụ
Đồ Chiểu đối với nhà vua và quan lại triều đình. “Vì ai” là một câu hỏi đặt ra mà tất cả
nhân dân Nam kỳ lúc bấy giờ đều có câu trả lời, nhưng bọn quan lại và triều đình làm
sao có thể lên tiếng trả lời trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân. Bởi “vì ai”, có phải
chăng chính là vì sự bạc nhược của triều đình, vì những “kẻ mang đai đội mũ ngất
ngưỡng ngồi trên”, những “kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới” luôn tìm cách vơ vét,
rút tỉa của dân. Vì bọn vua chúa quan lại đầu hàng, bán nước cầu vinh, để cho đất
nước chia cắt, dân tình lầm than, khởi nghĩa thất bại, biết bao người dân phải bỏ oan
mạng. Nhà thơ uất ức căm giận khi nhìn lũ vua quan mũ cao áo dài đều gần như một
duộc, chỉ chống cự qua quít rồi quỳ lạy quân giặc xin hàng, xin cắt đất, chia dân, ngăn
cản, đàn áp nhân dân khi nhân dân đứng lên chống giặc. Nguyễn Đình Chiểu mong
mỏi “Chừng nào thánh đế ân soi thấu”, ra ơn hiểu thấu được lòng đất nước và con
người để xuống một trận mưa thật to, thật thấm, rửa sạch hết tanh hôi cho núi sông,
cây cỏ, con người. Nhưng đó là sự kì vọng vô vọng, Cụ Đồ đã phải đau xót phải thốt
lên:
“Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Chạy Tây)
“Trang dẹp loạn” cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng”: bữa nay đi
đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ đặt ra câu hỏi “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu
vắng” vừa kêu gọi một cách nhẹ nhàng đầy sức thuyết phục, mong đợi người anh hùng
tài giỏi ra tay đánh giặc cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than, vừa trách móc
quan quân triều đình “sao nở” hèn nhát, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, “để
dân đen mắc nạn” gót giày ngoại xâm.
Cụ đã mượn nhiều điển tích để thể hiện thái độ của mình một cách gián tiếp.
Nguyễn Đình Chiểu đã gởi lời một cách khéo léo đến triều đình phong kiến bằng tích
Chiêu Quân cống Hồ, tác giả đã mượn tiếng đàn ai oán của nàng Chiêu Quân khi lìa
quê hương sang đất khách ngàn dặm xa xôi, để nhắc nhở nhà vua và quần thần hãy
nghĩ đến dân đến nước đang lâm nguy:

“Xin vua sang sửa an nhà nước,
Hai chữ tri ân gởi gác vàng”.
(Chiêu Quân Xuất Tái)
Hay trong bài Ngựa Tiêu Sương, Nguyễn Đình Chiểu đã mượn tích con ngựa
Tiêu Sương để nói lên tâm sự yêu nước cũng như nhắc nhở mọi người về tinh thần yêu
nuớc, một lời cảnh tỉnh rất cần thiết khi hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh, thực
dân Pháp đang dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc sự ương hèn của kẻ bán nước:
“Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu Sương,
Lầm đứa gian mưu nghĩ khá thương! Giậm vó chẳng màng ăn cỏ Tống
Quày đầu lại hý nhớ tàu Lương
Chẳng cho chủ khác ngồi mình cổ
Thà chịu vua ta nắm khớp cương
Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cũ
Làm người sao nỡ phụ quê hương”
(Ngựa Tiêu Sương)
Ngựa Tiêu Sương là tên loài ngựa quí, rất khôn ngoan của nhà Lương bị bắt
đem về nước Tống. Khi về Tống, ngựa nhớ chủ cũ, chẳng bao giờ chịu ăn cỏ Tống mà
luôn quay hướng nhà Lương mà hí, sau đó nhịn ăn rồi chết. Bằng giọng nhẹ nhàng, kín
đáo, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo khuyên răn mọi người: Con vật còn có tình
nghĩa, còn “cưu nhà nước cũ” như vậy, huống chi là người “sao nỡ phụ quê hương”.
“Con người có tổ có tông” thì “sao nỡ” đành nhìn quê hương rơi vào tay giặc, đem đất
nước dâng cho giặc để trỏ thành nô lệ tay sai, nối gót theo giặc giẫm đạp quê hương xứ
sở, mồ mả tổ tiên ông cha mình từ bao đời nay. Bài thơ Ngựa Tiêu Sương là một lời
cảnh tỉnh, còn thực tiễn cuộc đời Cụ Đồ Chiểu lại là một tấm gương ca ngợi tinh thần
yêu nước, bất hợp tác với kẻ thù. Tinh thần bất hợp tác của Cụ đã được ghi lại qua
nhiều giai thoại. Đó là vào khoảng năm 1884, viên chủ tỉnh Bến Tre là Pon-Chon có
lần mời Cụ lên Bến Tre để y được đàm đạo. Lấy cớ mình tuổi cao sức yếu, Cụ đã từ
chối không đi. Một lần khác, lại vẫn là tên Pon-Chon đã đích thân xuống Ba Tri nhưng
Cụ đã từ chối tiếp đãi với lý do bệnh nặng. Mời không được Cụ Đồ, thực dân Pháp lại
đưa ra chiêu bài dụ dỗ bằng cách hứa trả lại cho Cụ đất đai ở Gia Định. Cụ đã không

ngần ngại mà thẳng thừng từ chối: “Đất vua còn phải bỏ, đất tôi sá gì!”… Chẳng
những riêng việc này mà mọi ý nghĩ, chủ trương, hành động trong toàn bộ cuộc đời Cụ
Đồ Chiểu ở đâu, lúc nào ta cũng thấy ông đặt Tổ quốc lên trên hết và trước hết.
Yêu nuớc không chỉ là bất hợp tác với kẻ thù mà còn luôn hướng về quê hương dù ở
bất cứ nơi đâu. Cụ đã phải đau xót khi:
“Vì câu danh nghĩa phải đi xa,
Day mũi thuyền Nam dạ xót xa”.
(Biệt Cố Nhân Thi)
Còn có nỗi đau nào hơn khi phải rời xa quê hương xứ sở của mình. Năm 1859,
giặc Pháp tiến đánh Gia Định, ông chạy về Cần Giuộc. Cần Giuộc bị giặc chiếm, không
chịu sống trong vùng giặc, ông lại chạy về Ba Tri (Bến Tre). Nhà thơ “đi xa”
nơi “chôn nhau cắt rốn”, rời bỏ quê hương không phải là phụ quê hương mà là muốn
giữ trọn “câu danh nghĩa”, tinh thần dân tộc, không muốn “đội trời chung” với kẻ thù.
Cụ Đồ ra đi “xót xa’ đau đớn, nhưng không hề mất tin tưởng:
“Người dễ muốn chi nương đất khách,
Trời đà khiến vậy: mến vua ta!
Một phương thà tránh đường gai góc,
Trăm tuổi cho tròn phận tóc da”.
(Biệt Cố Nhân Thi)
Tấm lòng luôn hướng về quê hương ấy càng được thể hiện rõ khi Nguyễn Đình
Chiểu mượn tích “Ngựa Hồ chim Việt” vào sáng tác của mình:
“Gẫm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ”
(Thơ điếu Phan Tòng)
Cổ thi có câu “Hồ mã tê sóc phong, Việt điểu sào Nam chi” kể về chuyện con
ngựa Hồ bị đưa xuống phương Nam khi nghe gió Bắc thổi liền nhớ đồng cỏ xưa mà hí
lên, còn con chim Việt vốn ở phương Nam, không may bị đưa lên phương Bắc, hễ làm
tổ là nó lựa cành cây ở hướng Nam. Với tích “Ngựa Hồ chim Việt” Nguyễn Đình
Chiểu đã gởi tấm lòng tưởng nhớ cố hương của mình.
Khi quê hương lầm than, gót giày ngoại xâm giày xéo quê hương, mà triều đình bạc
nhược hợp tác với kẻ thù, là một người yêu nước sâu nặng, với tích lưỡi gươm Hứa

Chữ đã nói lên niềm mong mỏi của Cụ Đồ Chiểu là có một vị hiền tài ra giúp dân cứu
nước:
“Phải đặng lưỡi gươm người Hứa Chữ,
Be be đâu dám giẫm vườn ta”.
(Con Dê)
Hay tích “nếm mật nằm cối kê” bài Thơ điếu Phan Tòng – “Nếm mật cối kê đâu
chẳng giận” đã nói lên tinh thần chịu đựng gian khổ của nhân dân để quyết tâm trả thù
nhà nợ nước.
Qua giọng điệu nhẹ nhàng, gián tiếp, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ thái độ của
mình trước xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó vừa là niềm mong mỏi vào một vị minh quân
giúp dân qua cơn loạn lạc, vừa là sự phê phán đối với triều đình bạc nhược. Đồng thời
tố cáo tội ác của giặc đã làm cho dân ta rơi vào cảnh lầm than, những người nghĩa sĩ giết
giặc cứu nước ngã xuống đã để lại niềm tiếc thương trong thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu.
2.1.3. Giọng lạc quan, tự tin
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu đầy bất hạnh, gian truân, phải sống trong cảnh
đui mù tăm tối, bao mơ ước của chí làm trai đã tan thành mây khói. Gia đình nhà giàu
trước đây hứa gã con gái cho ông cũng bội ước. Lời người con gái bạc tình trong Lục
Vân Tiên đã phản ánh thái độ phũ phàng của tình đời đối với số phận đui mù mà ông
phải gánh chịu:
“Thà không trót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa bề thất phu
Dốc lòng chờ đợi danh Nho
Rể đâu có rể đui mù thế ni?”
(Lục Vân Tiên)
Trước cảnh nước mất nhà tan, “đui mù thế ni” còn làm gì được nữa. Bao năm
từng mơ màng, sự nghiệp giúp nước giúp dân giờ đây không còn hy vọng gì nữa:
“Đã cam chút phận dở dang
“Trí quân” hai chữ mơ màng năm canh
Đã cam lỗi với thương sinh

Trạch dân hai chữ luống doanh ở lòng”.
(Lục Vân Tiên)
Nguyễn Đình Chiểu ít nói về mình, ít nói đến cuộc đời tăm tối của mình, nhưng
người ta lại thấy cái buồn của ông ở chính Ngư Tiều y thuật vấn đáp, ở Lục Vân Tiên,
ở Dương Từ Hà Mậu, cái buồn không thể theo đuổi con đường thi cử để phò vua giúp
nước. Đối với kẻ sĩ khi gặp hoàn cảnh như vậy có thể làm họ ngã gục, nhưng Cụ Đồ
với nghị lực phi thường của bản thân và nguồn động lực tinh thần từ nhân dân đã vượt
qua mọi thử thách.
Chính lúc Cụ rơi vào vực sâu của cuộc đời tăm tối, nhân dân đã giúp đỡ, tiếp
sức cho ông với tất cả thành tâm và thương mến. Cũng chính vì lợi ích của nhân dân,
vì gắn bó với nhân dân mà ông đã tiếp thu một sức mạnh tinh thần mãnh liệt. Suốt đời
gần gũi với nhân dân, Nguyễn Đình Chiểu ngày càng yêu dân tha thiết, ngày càng tìm
thấy ở người dân thường những phẩm chất và giá trị cao đẹp không gì sánh nổi. Nhờ
gắn bó với nhân dân mà ông nhìn thấy hết ý nghĩa cuộc sống của mình, cuộc sống đem hết
tâm trí và tài sức ra phục vụ nhân dân, nên trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu luôn
mang giọng thơ tràn đầy lạc quan, luôn tỏa sáng một tấm lòng yêu quý nhân dân, niềm
tin sâu sắc ở thắng lợi chính nghĩa, ở tài năng và đạo đức của con người.
Quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu:
“Coi câu “thiện ác đáo đầu”
Lành đâu chẳng trả, dữ đâu chẳng đền
Người tua xét lại hai bên
Ít lành nhiều dữ chẳng nên trách trời”.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Quan niệm ấy bắt nguồn từ tâm lí của quần chúng nhân dân. Trong xã hội bao
giờ cũng chứa đựng những cái bất công, bạc ác. Cái xấu, cái ác luôn tồn tại song song
với cái thiện. Và dĩ nhiên sẽ xảy ra sự đấu tranh của hai cực chính và tà. Nhân dân ta
luôn mơ ước và tin tưởng vào sự thắng lợi cuối cùng của chính nghĩa. Cho nên, niềm
tin của Nguyễn Đình Chiểu vào thắng lợi cuối cùng của chính nghĩa, cũng chính là
niềm tin của nhân dân. Dưới chế độ phong kiến, họ bị áp bức, bị đày ải và bị chà đạp
đến cùng cực. Họ đã nhiều lần vùng dậy phản kháng và giành được những cải thiện

nho nhỏ nhưng đâu lại vào đấy. Chính vì thế, mà từ hàng ngàn năm, mong muốn được
giải phóng đối với họ là khát vọng không bao giờ nguôi. Họ mong muốn những người
“ở hiền lại gặp lành”, tuy trải nhiều gian nan, cuối cùng vẫn được vinh hiển, và chính
nghĩa nhất định sẽ thắng “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”. Hành trạng của những
nhân vật Tống Trân Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn v.v… trong các truyện nôm
bình dân đã khẳng định một cách phổ biến giấc mơ lý tưởng đó. Mặt khác, quần chúng
trong đời khổ cực của mình lại rất mong muốn những kẻ bạc ác, gieo tai họa cho mọi
người cuối cùng phải đền tội một cách xứng đáng. Thấm nhuần quan niệm ấy của nhân
dân, nên cuối cùng những kẻ độc ác trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu đều gặp
“quả báo”, gieo nhân nào thì gặp quả ấy. Trịnh Hâm đẩy Vân Tiên xuống sông một
cách tàn ác, thì rồi lại bị chính ngay những đợt sóng thần của dòng sông dìm chết. Mẹ
con Võ Thể Loan vứt bỏ Vân Tiên vào hang đá để chờ cọp tha đi, thì cọp lại bắt mẹ
con y đem vào hang đá. Màn “tra án” trong Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp nghiêm khắc trừng trị những thầy lang, thầy chùa, thầy pháp gian dối hại người…,
điều đó đã nói lên khát khao cháy bỏng của Cụ Đồ về sự thắng lợi của đạo lí, của lẽ
phải. Tinh thần của hai màn xử án là “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã
nan tàng” (lành dữ chung quy rồi có trả, cao bay xa chạy vẫn không tránh
được). Các cảnh địa ngục rùng rợn như muốn trần tình với mọi người tội ác nhất định
sẽ bị trừng phạt. Những hành vi nhơ nhớp trái đạo dù ở trần gian có thoát nhưng về cõi
địa ngục, nơi trừng trị tội ác cũng sẽ bị trừng trị thích đáng. Chính nghĩa sẽ thắng lợi
vẻ vang, đạo lí sẽ được trường tồn.
Nếu như trong Truyện Kiều, Thúy Kiều đã bao lần bị vùi dập dưới cái ác và cái
xấu, cuối cùng chính nàng là người xử án tất cả tội nhân trước kia gây tai ương cho
nàng, quan tòa mà nàng mở ra chỉ mang tính báo oán cho cá nhân riêng nàng. Còn
Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên cảnh địa ngục rất quy mô, nó đã thể hiện rõ ràng mơ
ước và niềm tin của nhân dân vào lẽ phải.
Không chỉ tin vào chính nghĩa, mà Nguyễn Đình Chiểu còn đặt niềm tin vào
con người. Những người sống có nhân có nghĩa, biết giữ mình trong sạch dù gặp phải
tai nạn kẻ gian hãm hại đều có thể gặp hung hóa lành, dù trong bất kì hoàn cảnh nào
cũng phải:

“Trong cơn bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn”.
(Lục Vân Tiên)
“Ở hiền gặp lành” là quan niệm đúc kết của nhân dân khuyên người ta ăn ở sao
cho có “hậu”. Người Việt Nam rất quý trọng chữ “hậu”. Họ tin rằng kẻ ăn ở tốt sẽ gặp
lành, kẻ hại đời, hại người cuối cùng sẽ gặp cái ác hại lại. Làm người phải như chàng
Lục Vân Tiên hay như Kỳ Nhân Sư, dù gặp bao gian truân lòng vẫn không nao núng,
vẫn chứa chan một niềm tin yêu:
“Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người giữ dạ cho bền thẳng ngay”.
(Lục Vân Tiên)
Đối với Lục Vân Tiên, bệnh mù và những tai nạn mà chàng gặp phải trong thời
thanh niên thật là nặng nề và đau xót. Nhưng rồi như những đám mây mờ xám xịt tất
cả sẽ tan để trả lại màu xanh của thành công và hạnh phúc. Vân Tiên tai qua nạn khỏi
và lại thi đỗ Trạng, gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Họ đã đạt hạnh phúc theo quan niệm mơ
ước của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân. Đó là kết quả tốt đẹp của một cuộc hành
trình vì nghĩa. Kỳ Nhân Sư cũng là một nhân vật mù được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng
để
thể hiện chí hướng và mơ ước của mình trên bình diện khác. Đây không phải là một
thanh niên đầy trí dũng mới bước vào cuộc đời mà là một thầy thuốc, một vị đại sư đã
từng trải. Sự kiện bị mù của Kỳ Nhân Sư không còn là tai nạn mà là một hành động có
ý thức nhằm phản kháng bọn giặc cướp nước. Cái mù của Kỳ Nhân Sư tượng trưng
cho sự thống trị của những lực lượng đen tối trong xã hội. Trong cảnh đêm tối tăm đó,
Nhân Sư vẫn giữ gìn nhân cách và tâm hồn, vẫn nêu cao chính khí như một ngôi sao
sáng giữa bầu trời. Ông tin rằng sự đen tối đang bao trùm khắp trời đất cỏ cây sẽ tan
hết và trước mắt của ông rồi cũng sáng lại:
“Sau trời thúc Quý tam công,
Sông trong biển lặng mắt thầy sáng ra”.
“Nhớ câu “vạn bệnh hồi xuân”
Đòi ngày luống đợi Đông quân cứu đời”.

(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Lời thơ của Nguyễn Đình Chiểu là sự tin tưởng và chứa chan hy vọng vào sự
thắng lợi của đạo nghĩa. Nó thể hiện ở tình cảm thắm thiết của ông đối với người dân
lao động cần cù, chất phác. Ông luôn mong mỏi có một cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai.
Lẽ dĩ nhiên , sự tin tưởng và hy vọng đó bắt nguồn từ quan điểm và lập trường chính
nghĩa của dân tộc. Ông đã thể hiện nó thay cho nhân dân một cách tha thiết, chân thực.
Đất nước bị xâm chiếm, kẻ thù đã đặt ách thống trị trên lãnh thổ Việt Nam, Nguyễn
Đình Chiểu và cả dân tộc xác định dứt khoát ta là chính, địch là tà. Cuộc đấu tranh
giữa ta và địch mang tính chất xung đột của lẽ phải đạo lí và sự gian tà trái đạo. Điều
tất yếu là ta sẽ thắng. Xác định niềm tin như vậy, nhân dân bền gan chiến đấu từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Trên con đường chiến đấu chống kẻ thù và giành độc lập cho
dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu tin rằng tình thế xã hội sẽ biến chuyển theo những quy
tắc của tự nhiên như “vật cực thời phản”, “cang cực thời biến”, “hết cùng lại thông”.
Ông đã từng nhấn mạnh tính phổ biến của cái quy tắc về sự biến đổi này:
“Đạo trời có thịnh có suy
Hết cơn bĩ dễ, đến kỳ thái hanh”.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Dù trong hoàn cảnh nào, Nguyễn Đình Chiểu vẫn tin tưởng ở cuộc đời sẽ thay
đổi, cuối cùng chính nghĩa sẽ về nhân dân ta. Ngoại xâm dù có mạnh đến đâu cũng phải
tàn rụi theo quy luật tự nhiên, còn lực lượng của phe chính nghĩa tuy nhỏ nhưng
sẽ thắng lợi:
“Cho hay chỗ diệu hóa công
Trong động có tĩnh, hết cùng lại thông
Vật tột thời phản vốn không tột hoài
Lẽ đâu cang hại đặng dai
Đến khi cang cực nghiên vai chịu cầm”.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Cái đạo lí “đạo trời” có vẻ mang màu sắc trừu tượng huyền bí. Song, nó cũng
khẳng định con đường tất thắng của dân tộc và sự thất bại không tránh khỏi của thực
dân Pháp. Phần nào Nguyễn Đình Chiểu đã củng cố lòng tin tưởng cho những người

yêu nước. Tinh thần lạc quan sẽ thắng lợi, vì đó là bản chất của người yêu nước chân
chính:
“Một trận bão rồi bờ cõi sạch,
Trời thu như cũ mãi không hao!”
(Trời bão)
Với niềm tin như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân tha thiết trông
đợi ở tương lai sáng sủa cuộc kháng chiến cứu nước “chờ từ ải Bắc đến non Nam”.
Dưới vòm trời đen nghịt của chế độ thực dân, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nung nấu một
niềm hy vọng ở ngày mai trên đất nước hoàn toàn giải phóng:
“Ngày nào trời đất an ngôi cũ
Mừng thấy non sông bặt gió Tây”.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Giọng thơ tràn đầy niềm lạc quan, đã khẳng định niềm tin trong sáng và chân
thành của Cụ Đồ Chiểu vào tương lai của đất nước và sự thắng lợi chính nghĩa.
Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng một cách sâu sắc rằng sự nghiệp kháng chiến cứu nước
của dân tộc ta là một sự nghiệp “chí nhân đại nghĩa” hoàn toàn phù hợp với lẽ phải và
lương tâm của con người, cho nên cuối cùng sẽ giành được thắng lợi. Ông đã cùng với
nhân dân mong đợi ngày giải phóng đất nước ra khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Niềm hy
vọng đó, một khi trở thành hiện thực, nhân dân ta sẽ được yên vui, những người hiền
tài sẽ có dịp phò đời giúp nước, sẽ xây dựng một xã hội lý tưởng, công bằng và nhân ái
như Ngư Ông đã nói: “Ngư rằng: gặp thuở thái hanh
Bọn ta cũng đặng rạng danh nước nhà”.
Và:
“Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng
Bốn bể câu ca hiệp một nhà”.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Niềm hy vọng ấy, còn như là tia nắng ấm áp xoa dịu, an ủi chính ông và những
con dân đang sống dưới ách đô hộ. Hy vọng, tin tưởng để lạc quan yêu đời hơn, yêu
nước hơn và tiếp tục chiến đấu can trường hơn.
Sự mong mỏi vào một vị minh quân cứu nước giúp dân của Cụ “Đòi ngày

luống đợi Đông Quân cứu đời” đã tắt lịm, không chút hy vọng. Cụ đau đớn vô cùng
khi thực tế phũ phàng, triều đình bạc nhược, lần lượt dâng Nam kỳ cho pháp. Người
chiến sĩ yêu nước ấy đã từ bỏ chữ “trung quân”, quên đấng minh quân và đi tìm đạo lý,
chính nghĩa. Đạo lý đó chính là dân tộc Việt Nam, dân tộc đang bị áp bức bất công.
Niềm tin và hy vọng đó cứ khoắc khoải như ngọn lửa không bao giờ tắt trong lòng
những người yêu nước.
2.2. Giọng trữ tình sử thi
Sử thi vốn là thể văn tự sự, ra đời vào buổi bình minh xã hội loài người,

×