Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Vai trò Mặt trận Việt Minh trong việc trong việc hình thành và phát triển lực lượng vũ trang chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.26 KB, 7 trang )

Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời ngày 19-5-1941
theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) là hình thức tiêu biểu, điển
hình nhất của mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân đã thực hiện được
mục tiêu giành độc lập cho nước Việt Nam, giành chính quyền cách mạng về
tay nhân dân. Có thể nói đây là bước phát triển lên đỉnh cao của các hình thức
mặt trận trước đó: Mặt trận thống nhất phản đế, Mặt trận dân chủ Đông Dương,
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế.
Trước Mặt trận Việt Minh, cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo cũng đã
xuất hiện một số hình thức chính quyền cách mạng: Các xô viết nông dân, công
nhân ở Nghệ - Tĩnh trong cao trào cách mạng 1930 - 1931; chính quyền dân
chủ nhân dân sơ khai ở một số xã thuộc tỉnh Mỹ Tho trong cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ tháng 11-1940.
Khi Mặt trận Việt Minh ra đời, gắn với phong trào thời kỳ tiền khởi nghĩa
cũng đã xuất hiện một số hình thức thấp của chính quyền cách mạng, đó là
những xã, tổng, châu Việt Minh hoàn toàn, ở các căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Sơn
- Vũ Nhai trong những năm 1941 - 1944. Song đó cũng chỉ là những hình thức
chính quyền tự quản của nhân dân, có tính chất giao thời khi chính quyền địch
còn mạnh.
Chỉ đến thời kỳ cao trào tiền khởi nghĩa (từ giữa tháng 3 đến giữa tháng
8-1945) Đảng ta gọi thời kỳ này là cao trào kháng Nhật. Trong điều kiện mới,
Mặt trận Việt Minh mới thể hiện đầy đủ vai trò chính trị, tập hợp mọi lực lượng
nhân dân tiến hành đấu tranh dưới nhiều hình thức, đi từ khởi nghĩa từng phần
lên tổng khởi nghĩa, lập chính quyền cách mạng vững chắc trong nhiều địa
phương, vùng, miền làm tiền đề cho việc lập chính quyền cách mạng cả nước
trong Cách mạng Tháng Tám.
Thứ nhất, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được đông đảo quần chúng
nhân dân, động viên được sức mạnh cả dân tộc, thực hiện chính sách đại đoàn
kết dân tộc, phân hóa và cô lập kẻ thù nhằm chĩa mũi nhọn đấu tranh đánh đổ
chúng.
Mở đầu là sự kiện Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng với


cán bộ Xứ uỷ Bắc Kỳ từ ngày 9 đến ngày 12-3-1945, trong lúc Nhật đảo chính
Pháp để độc quyền cai trị nhân dân ta. Hội nghị đã chủ trương củng cố, mở
rộng cơ sở Mặt trận Việt Minh ra khắp toàn quốc và phát động cao trào chống
Nhật, cứu nước để gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước. Nhiệm vụ chủ yếu của cao trào theo chỉ thị của Đảng lúc này là
tập trung lực lượng đánh đuổi phát xít Nhật - kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước
mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương, thành lập chính quyền cách mạng
của nhân dân trong từng địa phương; đồng thời phải cảnh giác đề phòng cuộc
tuyên truyền vận động của bọn Pháp Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị
của Pháp ở Đông Dương. Chủ trương đó của Đảng được tiếp tục quán triệt
trong các Đảng bộ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ và đặc biệt là Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ (4-1945). Lãnh tụ Hồ Chí Minh lúc ở Cao Bằng, cũng như
khi về đến Tân Trào (Tuyên Quang) đã có những lời kêu gọi đồng bào đoàn kết
đứng lên cứu nước.
Ở Việt Bắc, phối hợp với Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu
quốc quân (sau đó hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân), Mặt trận Việt
Minh và các đoàn thể cứu quốc động viên nhân dân nổi dậy giải phóng hàng
loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên và thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng trong các vùng
đó. Tại xã Trung Màu (Bắc Ninh), nhiều xã ở Hiệp Hoà (Bắc Giang) trong an
toàn khu của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Trung ương, phong trào Việt Minh phát triển rất
mạnh, trên thực tế nắm quyền quản lý mọi mặt chính trị, xã hội của địa phương,
tạo nên những hình thức quá độ tiến lên lập chính quyền cách mạng. Ở Ba Tơ
(Quảng Ngãi), cán bộ, đảng viên và nhân dân khởi nghĩa từ ngày 11-3-1945,
lập Uỷ ban nhân dân cách mạng tuyên bố quyền tự do dân chủ, phân phát
những tài sản tịch thu của địch cho nhân dân.
Thứ hai, Mặt trận Việt Minh tạo tiền đề cho Ủy ban dân tộc giải phóng
Việt Nam ra đời, từ đó hình thành nên lực lượng chính trị hùng hậu của cách
mạng trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những hình thức quá độ chính quyền cách mạng được hình thành ngày

càng nhiều ở những nơi có phong trào Việt Minh, cùng với các Uỷ ban nhân
dân cách mạng ra đời ở những nơi nhân dân và quân du kích làm chủ thay thế
bộ máy thống trị của Nhật. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về
việc tổ chức các Uỷ ban dân tộc giải phóng.
Tổng bộ Việt Minh nói rõ Uỷ ban dân tộc giải phóng là hình thức Mặt
trận Dân tộc Thống nhất ở các xí nghiệp, các làng, hầm mỏ, đồn điền, trường
học, trái lính, các công sở hay tư sở. Đó là những Uỷ ban dân tộc giải phóng
nền tảng. Trên đó một huyện, châu, phủ, quận, một thành phố, tỉnh, khu, một
xứ cho tới toàn quốc cấp nào cũng có thể tổ chức ra Uỷ ban dân tộc giải phóng
của cấp ấy. Uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc hay Uỷ ban dân tộc giải phóng
Việt Nam, chính là Chính phủ lâm thời của Việt Nam, được coi là tiền thân của
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa Uỷ ban dân tộc giải phóng là tổ chức có
tính chất tiền Chính phủ. Đến lúc tổng khởi nghĩa, thì Uỷ ban dân tộc giải
phóng hết nhiệm vụ, tự giải tán để cho nhân dân cử ra Uỷ ban công nhân cách
mạng xí nghiệp, hay Uỷ ban nhân dân cách mạng ở các làng, xã. Cố nhiên ở
những nơi đã lập Uỷ ban nhân dân cách mạng trong các vùng quân du kích và
nhân dân đã làm chủ và những nơi có điều kiện, khả năng lập Uỷ ban nhân dân
cách mạng thì không cần tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng.
Sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ và trong tháng 5, tháng 6, Uỷ ban dân tộc
giải phóng lập ra nhiều nơi trong 10 tỉnh đồng bằng và 2 thành phố lớn ở Bắc
Kỳ. Điều đó chứng tỏ chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh đã được thực hiện kịp
thời. Các tỉnh Thanh Hoá, Hoà Bình, Ninh Bình đã lập chiến khu Hoà - Ninh -
Thanh do Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo. Cùng với Đội quân giải phóng
ra đời, chính quyền cách mạng được thành lập ở các căn cứ trung tâm Tu Lý,
Mường Khói, Cao Phong - Thạch Ngân (Hoà Bình); Nho Quan (Ninh Bình);
Ngọc Trạo (Thanh Hoá). Quân du kích và nhân dân Hải Dương, Quảng Yên,
công nhân mỏ Hồng Gai nổi dậy khởi nghĩa lập chiến khu Trần Hưng Đạo tức
Đệ tứ chiến khu, hình thành chính quyền Việt Minh. Chính quyền Việt Minh
được thành lập trong các chiến khu ở Ba Tơ, Mộ Đức, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi);

một số địa phương thuộc Thừa Thiên - Huế.
Từ tháng 5-1945, ở Nam Kỳ có phong trào lập công hội công khai và
Thanh niên tiền phong rộng rãi theo xu hướng yêu nước, tiến bộ và Việt Minh
hoá, tự quản nhiều công việc đời sống xã hội.
Cùng thời gian đó, nhiều châu, huyện thuộc các tỉnh ở Việt Bắc tiếp tục
được giải phóng, chính quyền cách mạng được thiết lập tạo ra thế liên hoàn từ
Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Thái
Nguyên nối liền với An toàn khu Bắc Giang, chiến khu Trần Hưng Đạo và
chiến khu Quang Trung. Trong điều kiện đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị lập
Khu giải phóng và ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị thảo
luận kế hoạch và tuyên bố Khu giải phóng Việt Bắc ra đời, thống nhất chính
quyền cách mạng, chấn chỉnh lực lượng quân sự toàn khu, lập Uỷ ban lâm thời
khu giải phóng, ra báo Nước Nam mới. Các tổ chức chính quyền cách mạng
trong khu giải phóng Việt Bắc là hình thức cao của chính quyền cách mạng địa
phương trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Theo gương khu giải phóng Việt Bắc, trong tháng 6, tháng 7, Uỷ ban dân
tộc giải phóng được thành lập ở nhiều xã, huyện, như: Hiệp Hoà, Phú Bình,
Việt Yên, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng (Bắc Giang); Quỳnh Côi, Phương
Quả (Thái Bình). Thạch Thất, Tùng Thiện (Sơn Tây); Hoài Đức, Chương Mỹ
(Hà Đông); Nho Quan, Gia Viễn (Ninh Bình); Thạch Thành, Hà Trung, Hoằng
Hoá (Thanh Hoá); Kim Sơn, An Lão, Tiên Lãng (Kiến An)...
Thứ ba, Mặt trận Việt Minh có công lớn trong việc phát triển lực lượng
vũ trang cách mạng, trong việc chỉ đạo phong trào kháng Nhật cứu nước, tạo
tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, trong việc triệu tập và tiến hành
thành công Quốc dân Đại hội Tân Trào ngày 16 và 17/8/1945, huy động
nhân dân tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
giành được thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Mặt trận Việt Minh, trong cao
trào kháng Nhật, cứu nước tiền khởi nghĩa, các hình thức chính quyền cách
mạng đã nảy nở phong phú. Từ các hình thức thấp đến hình thức cao, đặc biệt

là Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp, Uỷ ban nhân dân cách mạng trong khu
giải phóng Việt Bắc và các chiến khu chống Nhật trong cả nước đã hoạt động
hiệu quả. Đó là kinh nghiệm thực tiễn quý giá để Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 13-8-1945 nhận định điều kiện tổng khởi
nghĩa đã chín muồi, quyết định chuyển thời kỳ tiền khởi nghĩa sang tổng khởi
nghĩa trong toàn quốc và chủ trương “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng
không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những Uỷ ban nhân dân ở những
nơi ta làm chủ”, thi hành 10 chính sách Việt Minh và chính sách đối ngoại
tránh một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh, giành lấy sự đồng tình

×