Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong pháp luật dân sự Việt Nam, cá nhân là chủ thể quan trọng , tham gia
vào tất cả các quan hệ pháp luật dân sự. Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy
đủ, hoàn thiện và độc lập khi cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và
năng lực pháp luật dân sự. Vì vậy để làm rõ hơn về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân em xin được chọn đề tài: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
theo quy định của pháp luật hiện hành”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân
- Cá nhân được hiểu là con người cụ thể. Về phương diện vật chất, cá
nhân là các hình hài con người cụ thể, nhận biết được bằng giác quan tiếp
xuc. Về mặt xã hội, cá nhân là chủ thể của các mối quan hệ giao tiếp, là nới
phát ra các tín hiệu giao tiếp và là nơi nhận các tín hiệu giao tiếp của chủ
thể khác, trong khuôn khổ đời sống xã hội. Còn vệ phương diện pháp lý, cá
nhân là thực thể có năng lực hưởng quyền, là chủ thể của quan hệ pháp
luật. Trong Luật dân sự Việt Nam, cá nhân là chủ thể thường xuyên, quan
trọng, chủ yếu và phổ biến. Có thể nói cá nhân tham gia vào tất cả các quan
hệ pháp luật dân sự, ngay cả các quan hệ pháp luật dân sự mà pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác tham gia thì cũng phải thông qua hành vi của cá
nhân. Năng lực chủ thể của cá nhân được xác định bởi hai yếu tố đó là năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
- Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định tại Điều
17 BLDS năm 2005: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự.” Như vậy có thể hiểu năng lực hành vi là khả năng hành động của
chính chủ thể để tạo ra các quyền, cũng như khả năng thực hiện quyền và
1
nghĩa vụ của họ. Ngoài ra năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực
tự chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
2. Một số đặc điểm của năng lực hành vi dân sự.
- Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định


dựa trên sự phát triển về độ tuổi cũng như khả năng nhận thức về hành vi
và hậu quả của hành vi, khả năng làm chủ hành vi của mình của cá nhân.
Việc quy định năng lực hành vi dân sự của mỗi nước có sự khác biệt. Ví dụ,
tuổi trưởng thành về mặt pháp lý của Việt Nam là 18 tuổi, Hàn Quốc uy
định là 19 tuổi, Cuba là 16 tuổi…(nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều
quy định là 18 tuổi).
- Thứ hai, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là không giống nhau. Vì
pháp luật xác định mức độ của năng lực hành vi dân sự căn cứ vào khả
năng nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi của cá
nhân. Mà những cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và
hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc nhận thức đó được hình thành
trong quá trình sống, mà mỗi cá nhân có một cuộc sống khác nhau nên sự
phát triển về tâm sinh lý cũng như sự hiểu biết của các cá nhân là khác
nhau, dẫn đến sự khác nhau trong nhận thức. Việc nhận thức và làm chủ
hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lý chí của cá nhân đó phụ thuộc
vào khả năng “nhận thức và điều khiển hành vi” của chính họ.
Tuy nhiên khó có tiêu chí nào để xác định và phân chia khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của cá nhân thành các mức nhất định. Do đó, độ
tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ năng
lực hành vi của cá nhân.
- Thứ ba, năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đạt đến
một độ tuổi nhất định và được hoàn thiện dần. Năng lực hành vi dân sự của
cá nhân có thể bị mất hoặc bị hạn chế khi cá nhân còn sống. Khác với năng
lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra, năng lực hành vi dân sự
2
của cá nhân chỉ có khi cá nhân đó đạt đến một độ tuổi nhất định. Vì chỉ đến
một độ tuổi nhất định, cá nhân mới có năng lực nhận thức và làm chủ hành
vi của mình. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thay đổi trừ một
số trường hợp do pháp luật quy định, còn năng lực hành vi dân sự của cá
nhân từ khi bắt đầu có thì trong một khoảng nhất định sẽ thay đổi và hoàn

thiện dần. Mặt khác, trong quá trình sống cá nhân có thể bị mất hoặc bị hạn
chế khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình từ đó cá nhân có thể
bị tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có đủ những điều
kiện nhất định.
3. Các quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chủ yếu được quy định tại BLDS
năm 2005. Trong đó, khái niệm về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
được quy định tại Điều 17 BLDS.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật có thể chia năng lực hành vi dân
sự của cá nhân thành các mức độ sau:
3.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Căn cứ vào Điều 18 và Điều 19 của BLDS ta có thể xác định được các
điều kiện của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
“Điều 18. Người thành niên, người chưa thành niên
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ
mười tám tuổi là người chưa thành niên.
Điều 19. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên
Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy
định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật này.”
3
(Điều 22 BLDS quy định về mất năng lực hành vi dân sự và Điều 23
BLDS quy định hạn chế năng lực hành vi dân sự)
Như vậy, cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị Tòa án ra quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, không bị Tòa án ra quyết định hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì có năng lực hành vi dân sự đầy đủ . Cá
nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự và có nghĩa vụ phải thực hiện các giao dịch
dân sự mà mình xác lập, phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi mà
mình thực hiện (Ví dụ: gây thiệt hại thì phải tự bồi thường)
3.2. Năng lực hành vi dân sự một phần

Năng lực hành vi dân sự một phần hay có thể hiểu là năng lực hành vi
dân sự chưa đầy đủ. Người có năng lực hành vi dân sự một phần bắt đầu có
sự nhân thức về hành vi và hậu quả của hành vi mà mình thực hiện nhưng
còn nhiều hạn chế và đang trong quá trình phát triển của nhận thức. Người
có năng lực hành vi dân sự một phần chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự
quy định. Căn cứ vào Điều 20 BLDS năm 2005 ta có thể xác định được các
điều kiện để xác định người có năng lực hành vi dân sự một phần.
“Điều 20. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc
pháp luật có quy định khác.
4
2. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là người có năng lực
hành vi dân sự một phần. Họ có thể sử dụng hành vi của mình tạo ra quyền
và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia giao dịch với những giao dịch có
giới hạn nhất định theo quy định của luật dân sự. Theo Khoản 1 Điều 20
BLDS 2005 quy định thì người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự
thực hiện một số giao dịch dân sự được coi là người đại diện của họ cho
phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của những người đại diện
với mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa
tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Tuy pháp luật không quy định những
giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu hằng ngày” và “phù hợp với
lứa tuổi” nhưng chúng ta có thể hiểu đó là các giao dịch có giá trị nhỏ,

nhằm phục vụ cho hoạt động vui chơi, học tập trong cuộc sống (như mua
đồ dùng học tập, ăn quà…).
Nếu cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện các giao dịch dân
sự mà các giao dịch đó không được sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật thì người đại diện theo pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó là vô hiệu theo quy định tại Điều 130 BLDS năm 2005:
“Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao
dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do
người đại diện của họ xác lập, thực hiện.”. Còn nếu người đại hiện theo
5
pháp luật của cá nhân đó không yêu cầu Tòa án xem xét tính hiệu lực của
những giao dịch dân sự này thì những giao dich đó mặc nhiên được coi là
có hiệu lực, và người đại diện phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát
sinh trong những giao dịch dân sự đó.
Theo Khoản 2 Điều 20 BLDS năm 2005 thì người từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không
cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật nếu tài sản riêng của họ
đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trong giao dịch dân sự đó,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Pháp luật dân sự quy định như
vậy vì: người từ đủ 15 tuổi trở lên đã có thể tham gia lao động, có thu nhập
do căn cứ theo quy định tại Điều 6 Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ
sung năm 2007: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng
lao động và có giao kết hợp đồng lao động.” (em sử dụng quy định tại Bộ
luật lao động năm 1994 chứ không sử dụng Bộ luật lao động năm 2012 vì
em đang áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005). Với các trường hợp khác mà
pháp luật quy định ví dụ như quy định tại Khoản 2 Điều 652 BLDS: “ Di
chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.”

3.3. Không có năng lực hành vi dân sự
Người không có năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 21
BLDS: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao
dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp
luật xác lập, thực hiện.” Họ được xem là không có năng lực hành vi dân sự
vì họ chưa bao giờ có năng lực hành vi dân sự bởi với những người chưa đủ
6 tuổi họ không có khả năng nhận thức và năng lực hành vi do chưa đủ ý
chí cũng như lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.
6
3.4. Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
 Mất năng lực hành vi dân sự
Có thể hiểu “mất” là một sự vật, hiện tượng đang tồn tại nhưng do một
nguyên nhân nào đó mà không còn sự vật, hiện tượng đó nữa. Một cá nhân
có năng lực hành vi dân sự khi đạt đến một độ tuổi nhất định (là từ đủ 6
tuổi theo quy định của pháp luật Việt nam). Thông thường, năng lực hành
vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của
cá nhân đó (chết hoặ bị Tòa án tuyên bố đã chết), nhưng năng lực hành vi
dân sự đó còn có thể bị mất đi do những điều kiện nhất định. Các điều kiện
đó thường là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi và làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của cá nhân. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những
người liên quan đến cá nhân mất năng lực hành vi dân sự thì Nhà nước ta
quy định về mất năng lực hành vi dân sự tại Điều 22 BLDS:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành

vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 BLDS thì có thể thấy việc tuyên bố
một cá nhân mất năng lực hành vi dân sự diễn ra theo trình tự sau:
7
- Khi có yêu cầu tuyên bố một cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự của
người có quyền và lợi ích lien quan đến cá nhân đó đến Tòa án nhân dân.
- Tòa án nhân dân xét đơn yêu cầu
- Tòa án yêu cầu cơ sở tổ chức giám định có thẩm quyền xác định cá nhân
đó có bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình hay không? Nếu xác định cá nhân đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi
vủa mình thì Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân đó mất năng lực hành
vi dân sự.
Sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố một cá nhân là mất năng lực hành
vi dân sự thì người đại diện của cá nhân mất năng lực hành vi dân sự đó
được xác định theo quan hệ giám hộ. Việc xác định người giám hội cho
người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 62 và Điều 63
BLDS:
Điều 62. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân
sự
1. Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người
giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
2. Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một
người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả
không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người
giám hộ.
8

3. Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa
có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
Điều 63. Cử người giám hộ
Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 61
và Điều 62 của Bộ luật này thì Uỷ ban nhân Trong trường hợp người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người
giám dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có
trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc
giám hộ.
Mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Việc này được quy định rõ tại
Điều 69 BLDS:
“Điều 69. Quản lý tài sản của người được giám hộ
1. Người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ
như tài sản của chính mình.
2. Người giám hộ được thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của
người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi,
cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch
khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự
đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho
người khác.
9
3. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có
liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp
giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng
ý của người giám sát việc giám hộ."
Về tình trạng pháp lý của một cá nhân sau khi bị tuyên bố mất năng lực

hành vi cá nhân: đưa cá nhân bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự về
tình trạng pháp lý đối với người chưa đủ 6 tuổi.
Trong trường hợp không còn căn cứ để tuyên bố một cá nhân bị mất
năng lực hành vi dân sự thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên
quan có quyền yêu cầu Tòa án có thể hủy bỏ quyết định đó. Tuy nhiên, việc
giải quyết hủy bỏ quyết định tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự
theo chính yêu cầu của cá nhân họ sẽ bị vướng mắc. Do theo quyết định
trước đó của Tòa án, cá nhân đó đã mất năng lực hành vi dân sự nên họ
cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể thực hiện được việc yêu
cầu Tòa án trừ khi thực hiện thông qua hành vi của người có năng lực hành
vi tố tụng dân sự. Từ đó ta có thể thấy điểm vướng mắc, chưa hợp lý này
trong BLDS.
 Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân đã thành niên có thể bị hạn chế
trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Khoản 1 Điều 23
BLDS:
“1. Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá
tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
10
Về hình thức, năng lực hành vi dân sự của một người thành niên bị
hạn chế có vẻ giống với năng lực hành vi dân sự của một người chưa thành
niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi (họ đều được thực hiện một số năng lực
giao dịch dân sự với những điều kiện nhất định) nhưng thực tế là khác
nhau. Khác với người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ
được mặc nhiên công nhận là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi đạt
đến tuổi luật định. Còn việc hạn chế năng lực hành vi dân sự của một cá
nhân phải thông qua các trình tự tố tụng dân sự và Tòa án có chấp nhận
yêu cầu hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân đó của người có

quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan hay không sau khi xem
xét cụ thể.
Về người đại diện và các giao dịch dân sự của người bị tuyên hạn chế
năng lực hành vi dân sự thì được quy định tại Khoản 2 Điều 23 BLDS:
2. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày.
Về tình trạng pháp lý của người bị hạn chế năng lực hành vi pháp luật
dân sự: Đưa người bị hạn chế năng lực hành vi pháp luật dân sự về tình
trạng pháp lý giống với người có năng lực hành vi một phần.
Khoản 3 Điều 23 BLHS quy định về việc hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự: “Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc
của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án
11
ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân
sự.”
4. Việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân không đồng
nhất.
Tại Khoản 2 Điều 20 BLDS quy định: “trong trường hợp người từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Căn cứ vào quy định này
của BLDS, Quy chế về tiền gửi tiết kiệm theo Quyết định số
1160/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định: “cá nhân
Việt Nam, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp
tại Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nhưng có tài sản riêng

đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS
thì được thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm.”.
Trong khi đó, tại điểm a, Khoản 2, Điều 2 Quyết định 1284/2002/QĐ –
NHNN 21/11/2002) quy định: đối với người chưa thành niên, mọi thủ
tục và sử dụng tài khoản tiền gửi phải thực hiện thông qua giám hộ,
người đại diện theo pháp luật.
Nghị định 101/2012/ NĐ-CP (ngày 22/11/2012) về thanh toán
không dùng tiền mặt, Điều 10 của Nghị định này quy định về mở tài
khoản thanh toán cho cá nhân và tổ chức không phải là tổ chức tín
dụng: “người mở tài khoản thanh toán là cá nhân phải có năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự; người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng. Đối với người chưa thành niên, khi
mở tài khoản thanh toán phải có người giám hộ theo quy định của
12
pháp luật”. Mà Bộ luật Lao động lại quy định: người lao động từ đủ 15
tuổi được quyền tự quyết định ký kết hợp đồng. Như vậy, luật cho phép
người lao động được tự ký hợp đồng, nhưng khi mở tài khoản ngân
hàng để nhận lương, thanh toán và sử dụng thẻ ATM thì lại phải thông
qua người giám hộ. Chính điều này đang gây nên một sự bất cập, gây
khó cho người lao động là người chưa thành niên.
BLDS không đề cập gì đến năng lực hành vi dân sự của người chưa
thành niên từ 9 tuổi trở lên, nhưng Luật Hôn nhân và gia đình lại có
đến 6 quy định phải có sự đồng ý hoặc tham khảo ý kiến của người từ 9
tuổi trở lên. Cụ thể: việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 9 tuổi; việc
nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi; việc thay đổi người trực
tiếp nuôi con sau ly hôn phải tính đến nguyện vọng của con; khi vợ
chồng không thỏa thuận được việc giao con cho ai nuôi thì Tòa án
quyết định và nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng
của con.
Như vậy, ta có thể thấy, cùng là quy định về năng lực hành vi dân sự

của cá nhân nhưng trong các văn bản luật khác nhau lại có sự khác biệt
nhau, có khi “vênh nhau” và gây cản trở cho viêc thực hiện cũng như
nghĩa vụ của cá nhân trong chính các giao dịch dân sự.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, việc quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong
pháp luật nước ta còn nhiều hạn chế và bất cập cần được sửa chữa để hoàn
thiện hơn. Từ đó tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất và có hiệu quả.
13
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3. Bộ luật dân sự, Nxb chính trị quốc qia, 2005
4. Bộ luật lao động năm 1994
5. />option=com_content&view=article&id=910:quy-nh-nng-lc-hanh-vi-
dan-s-ca-ca-nhan-phi-thng-nht&catid=2:x-phuc-thm-v-tan-hoang-phat-
khong-hy-an-la-sai&Itemid=18&lang=vi
14
MỤC LỤC
15

×