Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo quy định của Bộ Luật dân sự 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.15 KB, 121 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ HƢƠNG TRÀ




QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005



Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30




TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




HÀ NỘI - 2008





Công trình được hoàn thành tại: KHOA LUẬT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập



Phản biện 1:



Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ luật học tại Đại học
Quốc gia Hà Nội.

Vào hồi giờ ngày tháng năm



Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm Tư liệu-Thư viện-Đại học Quốc gia Hà Nội


HÀ NỘI – 2008


1

MỤC LỤC


Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: ……………………………………
1
2. Mục đích nghiên cứu: …………………………………………………………………
3
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: ………………………………
4
4. Tình hình nghiên cứu đề tài: ………………………………………………………
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu: ……………………………………………………………
7
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn …………………………….
7
7. Cơ cấu của luận văn: ……………………………………………………………………

8
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ
CỦA CÁ NHÂN


9
1.1. Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ở một số nƣớc trên thế giới
……………………………………………………………………………………………………
9
1.2. Khái niệm quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ……………………
15
1.2.1. Khái niệm…………………………………………………………………………………
15
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân …
20
1.2.2.1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép ………………………
20
1.2.2.2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học
……………………………………………………………………………………

22
1.2.2.3. Không nhằm mục đích thương mại ………………………………………….
25
1.2.2.4. Giữ bí mật thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác
…………………………………………………………………………………………


27

1.3. Tiến trình phát triển những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hiến
bộ phận cơ thể của cá nhân ……………………………………….

28

2

1.3.1. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 ……………………………….
29
1.3.2. Điều lệ khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng ban hành kèm theo
Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 23-HĐBT ngày 24 tháng 1 năm 1991
…………………………………………………………………………


30
1.3.3. Bộ luật dân sự năm 1995 …………………………………………………………
32
1.3.4. Bộ luật dân sự năm 2005 …………………………………………………………
32
1.3.5. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006
………………………………………………………………………………………………….

34
CHƢƠNG 2
CÁC YẾU TỐ CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ
CỦA CÁ NHÂN


36
2.1. Chủ thể của quan hệ hiến bộ phận cơ thể ………………………………….

36
2.1.1. Bên hiến bộ phận cơ thể……………………………………………………………
36
2.1.2. Bên nhận bộ phận cơ thể người ……………………………………………….
44
2.1.2.1. Người nhận bộ phận cơ thể là cá nhân ……………………………………
46
2.1.2.2. Người nhận bộ phận cơ thể người để chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu
khoa học …………………………………………………………………

49
2.2. Đối tƣợng của quan hệ hiến bộ phận cơ thể ………………………………
53
2.3. Nội dung quan hệ hiến bộ phận cơ thể ngƣời …………………………….
58
2.3.1. Quyền của bên hiến bộ phận cơ thể người và điều kiện hiến bộ phận cơ thể
người ……………………………………………………………………………
59
2.3.2. Quyền của bên nhận bộ phận cơ thể và điều kiện nhận bộ phận cơ thể người
………………………………………………………………………………………

62
2.3.3. Hình thức, thủ tục hiến bộ phận cơ thể của cá nhân …
64
2.3.3.1. Hình thức hiến bộ phận cơ thể của cá nhân …………………………….
64
2.3.3.2. Thủ tục hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ………………………………
65
2.3.4. Điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người .
70

2.3.4.1. Điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người
70
2.3.4.2. Trình tự thủ tục cho phép cơ sở y tế hoạt động lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
ngườ ………………………………………………………………………………

74
2.3.5. Các hành vi bị nghiêm cấm ……………………………………………………
76
2.3.6. Trách nhiệm pháp lý và xử lý vi phạm ……………………………………
80

3

CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ
THỂ CỦA CÁ NHÂN VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN




82
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
………………………………………………………………………………………
82
3.1.1. Tình hình ghép bộ phận cơ thể người và nhu cầu ghép bộ phận cơ thể người
tại Việt Nam …………………………………………………………………
82
3.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam vể quyền hiến bộ phận cơ thể cùa cá nhân
………………………………………………………………………………………


84
3.2. Hƣớng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ
thể của cá nhân ……………………………………………………………

96
3.2.1. Những vấn đề bất cập của pháp luật liên quan đến quyền hiến bộ phận cơ
thể của cá nhân hiện nay ………………………………………………

96
3.2.2. Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về hiến bộ phận cơ thể
của cá nhân …………………………………………………………………

100




















4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Theo xu huớng phát triển của thế giới, các nước liên kết với nhau trên
tất cả các lĩnh vực để phát triển đất nước ngày một hoàn thiện hơn. Hội nhập
kinh tế, quốc tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu nhất là vấn đề gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới đã giúp cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới
có điều kiện tăng trưởng và phát triển. Sự liên kết đã tạo nên sự bền vững
trong tất cả các lĩnh vực trong xã hội về văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục,
pháp luật, công nghệ sinh học, khoa học ngành y…khoa học ngành y đã thực
sự phát triển mạnh mẽ trong việc tìm tòi khám phá ra các phương pháp chữa
bệnh mới trên cơ thể con người, cứu sống rất nhiều bệnh nhân với chất lượng
cuộc sống rất tốt. Để các phương pháp chữa bệnh mới được thực hiện một
cách có hiệu quả trong cuộc sống cần có quy pháp pháp luật để điều chỉnh. Vì
vậy, đa số các nước phát triển trên thế giới đã ban hành pháp luật để điều
chỉnh quan hệ trong lĩnh vực khoa học ngành y, quy chế pháp lý càng chặt
chẽ, hoàn chỉnh, đúng đắn, kịp thời sẽ tạo nguồn lực quan trọng, góp phần
định hướng phát triển cho một công nghệ y sinh học của các nước trên thế
giới, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.

Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện mình về kinh tế, pháp luật,
xã hội, văn hóa, y tế để đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn nhân loại. Sau
thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Việt Nam đã chuyển sang nền
kinh tế thị trường vì vậy điều kiện kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát

triển kéo theo sự phát triển của mỗi một người dân về điều kiện sống, nhu cầu
của người dân ngày càng tăng, quyền của mỗi một cá nhân cần được pháp luật
bảo hộ càng cao, các quan niệm về chính trị, đạo đức, xã hội, công nghệ…của
người dân cũng có nhiều thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.

5

Công nghệ sinh học ở Việt Nam cũng đang từng bước bắt kịp với thế giới,
chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng tự hào, đặc biệt là kỹ thuật y
học. Trong đó, việc cho-nhận, cấy ghép các bộ phận cơ thể là một trong
những thành tựu xứng đáng được tự hào, rất nhiều cuộc phẫu thuật cấy, ghép
bộ phận cơ thể người đã được thực hiện rất thành công. Theo điều tra xã hội
học cho thấy số người bị bệnh gan, tim, thận, phổi…cần phải thực hiện phẫu
thuật cấy, ghép ở Việt Nam lên tới con số hàng trăm, hàng nghìn. Đây là nhu
cầu rất khẩn thiết của những con người đang bị bệnh tật dày vò. Tìm kiếm bộ
phận cơ thể để cấy, ghép cũng là một điều rất khó khăn vì ngoài vấn đề hiến
bộ phận cơ thể người của cá nhân được đặt ra để cứu giúp những người trong
thời kỳ bệnh tật rất quan trọng. Đồng hành với sự phát triển kỹ thuật y học
hiện đại, quy chế pháp lý để kiểm soát nó cùng các hoạt động trực tiếp liên
quan cũng dần được xây dựng và đang từng bước cố gắng hoàn thiện của Việt
Nam cũng càng ngày càng phát triển. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam quy
định về lĩnh vực này trong Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989 với quy định
cho và ghép các bộ phận cơ thể người (Điều 30) đã cho phép các cơ sở y tế có
thể có một căn cứ pháp lý để thực hiện chức phận thầy thuốc cứu người của
mình. Cho đến nay BLDS 2005 (Điều 33) đã chính thức ghi nhận quyền năng
của các chủ thể trong vấn đề này với tư cách là quyền nhân thân không thể
phủ nhận. Đây là cơ sở pháp lý mang tính tiền đề cho việc xây dựng và phát
triển hoàn thiện quy chế pháp lý về cho, lấy, cấy, ghép bộ phận cơ thể người
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội phát triển mới của y
học Việt Nam. Quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ mang tính

nguyên tắc và những quy định này đã được cụ thể hóa trong Luật hiến, lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 nhằm điều chỉnh
các quan hệ phát sinh từ việc áp dụng những kỹ thuật y học tiến bộ này trong
đời sống xã hội. Pháp luật quy định chặt chẽ vấn đề này vừa phù hợp với đạo

6

đức, truyền thống, văn hóa, vừa đảm bảo quyền của cá nhân được Nhà nước
bảo hộ. Quyền hiến bộ phận cơ thể nguời của cá nhân là quyền nhân thân thể
hiện sự tự định đoạt của họ đối với các bộ phận trên cơ thể mình. Việc hiến bộ
phận cơ thể người được thực hiện một cách đúng đắn sẽ có ý nghĩa tiến bộ và
nhân đạo sâu sắc, góp phần vào sự phát triển của y học và khoa học vì con
người.

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này là rất quan trọng để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi một cá nhân trong xã hội, đảm
bảo các điều luật được ban hành trong Bộ luật dân sự được thực thi có hiệu
quả cao. Tôi đã chọn đề tài “quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ
luật dân sự 2005” để nghiên cứu, tìm hiểu giúp bạn đọc có thể hiểu hơn về
quyền được hiến bộ phận cơ thể của mỗi một cá nhân trong xã hội, thực trạng
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam cũng như các quy định
của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật Việt Nam trong hoạt động hiến, lấy, ghép Bộ phận cơ thể người.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể đã được thực hiện thành công ở
nhiều nước trên thế giới từ rất lâu, đến nay đã rất phổ biến, đây là phương
pháp điều trị mang lại cuộc sống cho rất nhiều người bệnh nên có ý nghĩa
nhân đạo rất sâu sắc. Ở Việt Nam, nhu cầu được ghép là rất lớn và ngày càng

gia tăng, tuy nhiên nguồn cung cấp bộ phận cơ thể người để đáp ứng nhu cầu
được ghép lại rất khan hiếm khiến nhiều người bệnh phải ra nước ngoài để
ghép trong khi chi phí cho một cuộc phẫu thuật ở nước ngoài lại rất cao. Kỹ
thuật y khoa, trình độ y bác sỹ của Việt Nam đã phát triển đáp ứng được yêu
cầu của kỹ thuật cấy ghép bộ phận cơ thể người nhưng tại sao người bệnh vẫn

7

phải ra nước ngoài để ghép, tại sao dân số Việt Nam rất đông mà bộ phận cơ
thể người để cứu sống bệnh nhân lại rất khan hiếm?

Vì vậy, mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu về các yếu tố của
quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, pháp
luật chuyên ngành quy định như thế nào về vấn đề này? thực trạng hiến bộ
phận cơ thể của cá nhân được thực hiện tại Việt Nam ra sao? So với một số
nước trên thế giới việc hiến bộ phận cơ thể của cá nhân có phát triển không?
có thua kém hay tụt hậu gì so với các nước trong khu vực và trên thế giới
không? qua đó đề ra hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật để đạt hiệu
quả cao mà không vi phạm đạo đức, phong tục tập quán của người Việt Nam
và đề xuất những quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tế và xu hướng
phát triển của y học Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá
nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005” là:
- Quy định của một số nước trên thế giới về quyền hiến bộ phận cơ thể;
- Tiến trình phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền
hiến bộ phận cơ thể;
- Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân;

- Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể;
- Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận
cơ thể.

Hiến, lấy, ghép bộ phận cơ thể là một lĩnh vực rất rộng vừa liên quan
đến y học vừa liên quan đến pháp luật. Tuy nhiên trong Luận văn này chỉ
nghiên cứu đến khía cạnh pháp lý về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
theo quy định của pháp luật Việt Nam từ trước cho đến nay. Để các quy định

8

về hiến bộ phận cơ thể được thực thi có hiệu quả trong thực tế Luận văn đã
nghiên cứu, phân tích những hạn chế của các quy định pháp luật và đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của Việt Nam về
quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân.

4. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiến bộ phận cơ thể là một việc làm nhân đạo đã cứu sống rất nhiều
người bệnh. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động hiến bộ phận cơ
thể pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã quy định
vấn đề này thành Luật riêng và quy định cụ thể trong pháp luật chuyên ngành
như Pháp, Hoa kỳ, Nhật, Singapore, Trung Quốc Do đó đã có rất nhiều bài
viết, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều cuộc hội thảo thảo luận về
vấn đề này.

Hiến bộ phận cơ thể là vấn đề bức thiết để chữa bệnh cho bệnh nhân
thoát khỏi hiểm nghèo, tuy nhiên ở Việt Nam đây là vấn đề mới có tính nhạy
cảm cao liên quan đến phong tục tập quán của người Á Đông nên các đề tài
nghiên cứu, các bài viết về vấn đề này còn rất ít. Trong ngành y học đã có

nhiều công trình nghiên cứu cấp nhà nước về vấn đề ghép mô, thận,
tạng thực nghiệm cho những người bị bệnh mạn tính ở giai đoạn cuối như đề
tài : Nghiên cứu một số vấn đề về ghép gan để tiến hành ghép gan trên người
tại Việt Nam, đề tài cấp nhà nước của Học Viện Quân Y năm 2005 hay bài
giảng tại Học viện Quân Y của Đỗ Tất Cường và Cộng sự : Ghép tạng, ghép
thận và hồi sức điều trị sau ghép năm 2002.

Về lĩnh vực pháp luật, hiến bộ phận cơ thể tuy là vấn đề cấp thiết
nhưng nó mới được quy định mang tính nguyên tắc trong Bộ luật dân sự 2005
và được cụ thể hóa trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và

9

hiến, lấy xác năm 2006 nên có rất ít người nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề
này. Tuy nhiên, cũng có mốt số bài viết đề cập về vấn đề này như:
- Luận văn thạc sỹ: Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá
nhân theo quy định trong Bộ luật dân sự 2005 của Lê Thị Hoa tháng 12/2006;
- Bài viết của Tiến sỹ Phùng Trung Tập về quyền hiến bộ phận cơ thể
hoặc hiến xác sau khi chết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 tháng
3/2005;
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Minh Du trường Đại học Luật Hà
Nội về quyền hiến bộ phận cơ thể theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
tháng 5/ 2006;
- Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thu Trang trường Đại học Luật Hà
Nội về Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2008;
- Bài viết của Nguyễn Mạnh Cường về Một số suy nghĩ khi Luật Hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc Hội thông
qua trên Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế số 04 tháng 12/2006;


Ngoài ra còn có cuộc tọa đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận
cơ thể người và khám nghiệm tử thi do Nhà pháp luật Việt pháp tổ chức năm
2004.

Các bài báo, tạp chí, tọa đàm và khóa luận tốt nghiệp đã đề cập về vấn
đề này nhưng vào các thời điểm khác nhau trong khi tình hình thực tiễn và
pháp luật có nhiều thay đổi mang tính chất bước ngoặt nên chưa toàn diện và
chưa đầy đủ về mặt pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra,
hơn nữa các bài viết trên không đi sâu phân tích quyền hiến bộ phận cơ thể
của cá nhân mà chỉ phân tích vấn đề này một cách tổng quát. Là điều luật mới
trong bộ luật dân sự nhưng nó đã đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội cũng
chính vì vậy tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để quá trình thực

10

hiện điều luật được hoàn thiện hơn, đưa ra một số giải pháp giải quyết sự tồn
tại của pháp luật trong việc quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá
nhân.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để để tài đạt hiệu quả cao trong thực tiễn, trong quá trình nghiên cứu
để tài đã sử dụng các phương pháp truyền thống như :
+ Phương pháp duy vật biện chứng
+ Phương pháp lịch sử
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp phân tích tài liệu
+ Phương pháp tổng hợp, đánh giá
+ Phương pháp quy nạp
+ Phương pháp diễn dịch


6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn

Qua quá trình nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về
quyền hiến bộ phận cơ thể của các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam
tác giả đã đánh giá được thực trạng của Pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Dựa trên sự đánh giá đó tác giả đã đưa ra được một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ
thể của cá nhân, đảm bảo các quy định của pháp luật được thực thi một cách
có hiệu quả trong thực tế. Khi pháp luật về hiến bộ phận cơ thể người được
hoàn thiện và thống nhất như thế sẽ có nhiều nguồn hiến bộ phận cơ thể cứu
sống được nhiều người bệnh, giải quyết được tình trạng khan hiếm nguồn
cung cấp bộ phận cơ thể người ở nước ta hiện nay.

7. Kết cấu của Luận văn.
- Phần mở đầu

11

- Chương 1 : Khái quát chung về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
- Chương 2 : Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
- Chương 3 : Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể
của cá nhân và hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền hiến
bộ phận cơ thể của cá nhân
- Kết luận

Với đề tài còn khá mới này ở Việt Nam, tác giả biết rằng hạn chế của
mình còn nhiều, thiếu sót và lỗi không phải là ít và rất có thể Quý thầy cô và
các bạn đọc có những điều không đồng ý với tác giả song tác giả cũng hy
vọng có được sự ủng hộ, đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và các bạn đọc.

Luận văn được hoàn thành dựa trên sự giúp đỡ nhiệt tình của Tiến sỹ Phùng
Trung Tập và đồng thời là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân. Qua
đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Phùng Trung tập đã giúp tôi
hoàn thành Luận văn này.








CHƢƠNG 1

12

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ
CỦA CÁ NHÂN

1.1. Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ở một số nƣớc trên thế giới.

Từ nền văn minh cổ đại, ước mơ của con người thể hiện ở các huyền
thoại với mong muốn có thể gắn lại đầu, tay, chân….cho con người. Từ thế kỷ
XII đến thế kỷ XVI từ ngữ (greffe, graft) ghép xuất phát từ tiếng Hy Lạp,
greife là con dao sắc nhọn dùng để cấy ghép mô, cành tạo cây lai giống với
đoạn ghép (greffon, graft) và cây chủ mang hoặc nhận đoạn ghép (porte
greffe, implant, recipienti)
1



Bắt đầu từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đã xuất hiện việc cấy ghép một
số bộ phận cơ thể (BPCT) ở gia cầm, gia súc như cấy ghép cựa gà lên mào gà,
lên tai bò, cấy ghép da trên lưng cừu và cấy ghép mảnh biểu bì da tự thân lên
vết thương ở người.

Từ thế kỷ XX việc hiến BPCT và ghép BPCT người được thực hiện ở
nhiều nước trên thế giới. Công tác ghép BPCT người được khởi đầu bằng việc
ghép thận thực nghiệm và ghép thận tử thi vào người. Ở Áo năm 1902 có
Emerich Ulmann thực hiện việc ghép thận trên chó và ghép thận lợn cho
người. Năm 1912 ở nước Pháp có ông Elexis Carrel đã đạt giải thưởng Nobel
từ việc ghép thận trên chó, kỹ thuật nối các mạch máu rửa thận bằng dung
dịch Locke. Đồng thời thực hiện ghép nối chi, ghép tim phổi, ruột, lách, giáp
trạng, buồng trứng, tinh hoàn trên động vật. Việc ghép thận tử thi cho người,
ghép thận tử tù cho người, ghép thận lấy từ người bệnh đột tử trên bàn mổ
ghép cho người đều được các nhà khoa học của các nước như Ukraina, Hoa

1
Giáo sư - tiến sỹ khoa học Lê Thế Trung: “Chiến lược tổng thể về ghép mô, tạng và bộ phận cơ thể trong
giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020”, Tạp chí y học thảm họa và bỏng, số 1/2006, tr.7

13

Kỳ, Pháp thực hiện nhưng đều thất bại. Việc cấy ghép BPCT đã thành công
thực sự từ những năm 1954 ở Pháp và Hoa Kỳ
2
.

Các nhà nghiên cứu trên thế giới thực hiện thành công việc ghép BPCT
trên người và động vật là một thành tựu lớn trong ngành y học thế giới. Vì
vậy, ghép tạng là một trong mười phát minh lớn của thế kỷ XX

3
. Khi bước
sang thế kỷ XXI các nhà khoa học trên thế giới đã nhất trí nêu mười phát
minh lớn tiêu biểu trong thế kỷ XX trong đó có ghép tạng đó là: máy bay,
truyền hình, máy tính, năng lượng hạt nhân, laser, internet, du hành vũ trụ,
kháng sinh, cấu trúc DNA và ghép tạng.

Các thành tựu về kỹ thuật ghép mô, BPCT người trên thế giới đã trải qua
gần nửa thế kỷ thực hiện và đã có những bước tiến rất đáng kể. Vì thế, ngày
nay việc hiến, lấy, ghép mô, BPCT người đã trở nên phổ biến trên toàn thế
giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hiến, lấy, ghép mô, BPCT người một
số nước trên thế giới đã có đạo luật điều chỉnh quan hệ trong việc hiến, lấy,
ghép mô, BPCT người như Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Singapore, Thái Lan…

+ Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở các nước Châu Âu.

Ở các nước Châu Âu, các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô,
BPCT người đã được triển khai thực hiện từ rất sớm, tạo điều kiện thuận lợi
cho ngành phẫu thuật ghép mô, BPCT người phát triển một cách mạnh mẽ
vào những thập kỷ gần đây như Pháp năm 1952, Vương Quốc Anh năm 1961,
Đan Mạch, Italia năm 1967, Na-Uy năm 1973, Thụy Điển năm 1975, Hy Lạp
năm 1983…các nước này đều quy định việc lấy mô, BPCT của người sống

2
Carpentier (1992), Transplantation d‟organes, Flammarion, Paris; J.A.Davidson (1998) “Kidney & Pancrcas
Transplantation”, Landes Bioscience – Austin Texas, USA
3
Lê Thế Trung, Phạm Mạnh Hùng (2002): “Xây dựng ngành ghép tạng – Một thành tựu mới của y học Việt
Nam”, Kỷ niệm 10 năm ghép thận 4/6/1992 – 4/6/2002 tạp chí thông tin y dược số 6/2002


14

phải tự nguyện, vì mục đích chữa bệnh, điều trị, nghiên cứu khoa học hoặc vì
mục đích chuyên biệt. Pháp luật của các nước này quy định các nguyên tắc,
điều kiện cho và sử dụng bộ phận lấy từ cơ thể người. Điều này thể hiện trong
Chỉ thị của Nghị Viện Châu Âu và Hội đồng châu Âu về việc xây dựng các
tiêu chuẩn về chất lượng và tính an toàn trong hoạt động cho, nhận, kiểm soát,
xử lý, lưu giữ, cung cấp mô và tế bào người. Việc lấy BPCT người trong mọi
trường hợp phải có sự đồng ý của người cho, sự đồng ý được thể hiện trước
một thẩm phán và mọi người đều có quyền hiến tặng BPCT của mình trong
lúc còn sống với điều kiện đã đến tuổi thành niên, đủ năng lực hành vi dân sự,
có quan hệ huyết thống với người nhận hoặc chứng minh được rằng đã sống
chung ít nhất 2 năm với người nhận. Chỉ thị cũng quy định để tránh tình trạng
thương mại hóa cơ thể người, mọi phát minh có mục đích sử dụng trái với
nhân phẩm con người, trật tự công và thuần phong mỹ tục cũng như việc giải
mã một phần hoặc toàn bộ gien người sẽ không được cấp bằng sáng chế.

Trong Bộ luật dân sự (BLDS) và Pháp luật y sinh cộng hòa Pháp ngày
30/1/2003 có những quy định nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm đến nhân
phẩm và bảo đảm cho con người được tôn trọng ngay từ khi bắt đầu sự sống.
Pháp luật của Cộng hoà Pháp quy định cơ thể người là bất khả xâm phạm theo
đó cơ thể, các BPCT và sản phẩm từ cơ thể người không thể trở thành đối
tượng của quyền tài sản. Theo những nguyên tắc đó BLDS Cộng hoà Pháp
quy định tại điều 16-2 chương II: “Tòa án có thể quyết định mọi biện pháp
nhằm ngăn chặn hoặc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm trái phép đến cơ thể
người hoặc hành vi bất chính nhằm vào BPCT người hoặc sản phẩm từ cơ thể
người”. Ở Cộng hoà Pháp dân quyền được coi trọng, do vậy pháp luật Pháp
có những quy định bảo vệ con người và tất cả những vấn đề liên quan đến con
người. Tại các điều 16-5, 16-6 chương II BLDS Cộng hoà Pháp quy định:

“Mọi thỏa thuận được giao kết nhằm mục đích sử dụng cơ thể người, các

15

BPCT người hoặc sản phẩm từ cơ thể người như một tài sản đều vô hiệu;
nghiêm cấm trả thù lao cho người tự nguyện cho người khác tiến hành thí
nghiệm trên cơ thể của mình, lấy BPCT của mình hoặc thu thập sản phẩm từ
cơ thể mình”. Pháp luật còn quy định không ai được phép công bố bất kỳ
thông tin nào cho phép xác định người cho, người nhận BPCT người hoặc sản
phẩm từ cơ thể người. Người cho không được phép biết danh tính của người
nhận và ngược lại. Trong trường hợp cần thiết vì mục đích chữa bệnh, chỉ các
bác sỹ của người cho và người nhận mới được phép tiếp cận những thông tin
cho phép xác định danh tính của họ.

+ Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở các nước Châu Á

Tại các nước Châu Á, từ năm 1959 đến nay, nhiều nước như Thái Lan,
Nhật Bản, Philippin, Singapore, Malaysia, Indonesia…đều đã có luật quy
định về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người. Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT của
Singgapore năm 2004, Luật về phẫu thuật ghép tạng của Nhật Bản năm 1997.
Việc ban hành các quy định về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người sớm tạo hành
lang pháp lý cho ngành y học có thể tiến hành nghiên cứu để cứu sống người
bệnh và quyền của người hiến BPCT được bảo đảm một cách chính đáng.
Chính vì những lý do trên mà số bệnh nhân được ghép mô, BPCT người ở các
nước này ngày càng tăng lên nhanh chóng.

Luật về phẫu thuật ghép tạng của Nhật Bản quy định nghiêm cấm việc
mua bán nội tạng, hiến nội tạng phải nhằm mục đích ghép tạng phải tự
nguyện, nội tạng dùng được ghép phải dựa trên tinh thần nhân đạo, phải xem
xét trao đổi với người cần ghép nội tạng.


Theo pháp luật Singapore, thì bất cứ người nào có trạng thái tinh thần
khỏe mạnh và từ đủ 18 tuổi trở lên có thể cho bất cứ phần nào của cơ thể
người đó cho việc giảng dạy, nghiên cứu, sự tiến bộ của y học hoặc khoa học

16

răng, điều trị hoặc ghép tạng ở bất cứ bệnh viện nào được ghép, các trường về
y tế và răng, các trường đại học hoặc bất cứ cá nhân nào cho việc điều trị hoặc
ghép tạng. Đạo luật cũng quy định cho những người không muốn hiến bộ
phận của họ phải đăng ký sự phản đối của họ. Người Hồi Giáo và những
người trên 60 tuổi không áp dụng quy định của đạo luật. Người dưới 21 tuổi
và những người mất trí không áp dụng quy định của đạo luật này trừ trường
hợp bố, mẹ hoặc người giám hộ của họ đồng ý việc lấy tạng đó. Những quy
định này đã giúp cho ngành cấy ghép của Singapo phát triển nhanh chóng.

Trung Quốc được xem là nơi lý tưởng cho việc hiến, cấy. ghép mô,
BPCT người vì kỹ thuật ghép tạng khá tốt và giá lại rẻ (chỉ bằng khoảng nửa
giá ở các nước phương tây). Trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã thu hút
được rất nhiều bệnh nhân châu Á, trong đó có bệnh nhân Việt Nam đến ghép
tạng. Những quy định liên quan đến vấn đề này cũng được pháp luật Trung
Quốc quy định rất chặt chẽ như các vấn đề về thủ tục, về ngoại ngữ, về thời
gian, về kinh phí cho việc cấy, ghép BPCT người:

* Vấn đề thủ tục: Bệnh nhân muốn đến cấy ghép cơ thể người tại Trung
Quốc cần có:
- Hộ chiếu và 02 ảnh 4x6
- Visa (theo dạng đi chữa bệnh)
Thông thường, nếu là bệnh nhân Việt Nam đi chữa bệnh tại Trung Quốc
xin cấp visa thì Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam sẽ cấp visa trong thời

hạn 1 tháng. Nếu có nhu cầu gia hạn visa, người nhà bệnh nhân có thể đem
giấy giới thiệu của Bệnh viện và visa đến phòng Quản lý Xuất nhập cảnh ở
tỉnh có bệnh viện bệnh nhân đang điều trị để xin gia hạn.

* Vấn đề ngoại ngữ : Những bệnh viện lớn ở Trung Quốc thường có người
phiên dịch bằng tiếng Anh cho khách nước ngoài. Nhưng phần lớn y bác sĩ lại
nói tiếng bản địa. Nên nếu muốn thuận tiện hơn, bệnh nhân nên tìm người có

17

khả năng nói tiếng Trung giúp đỡ khi cần trao đổi. Họ sẽ truyền đạt chính xác
những thuật ngữ chuyên môn hơn.

* Vấn đề thời gian, kinh phí: Thời gian cho một ca ghép tạng thông thường
diễn ra trong một tháng. Tuy nhiên, nhiều khi lại tuỳ thuộc vào phần nội tạng
mà bệnh nhân cần có sẵn hay không. Nếu sau khi thử máu và thực hiện các
xét nghiệm khác, phần nội tạng bệnh nhân cần có sẵn trong “ngân hàng” nội
tạng, thì cuộc đại phẫu thuật có thể được tiến hành ngay. Nhưng nếu “ngân
hàng” không có sẵn, bệnh nhân sẽ phải chờ đợi. Nhưng sự chờ đợi cũng
không quá lâu, vì “nguồn” nội tạng của Trung Quốc nổi tiếng là rất dồi dào.
Chi phí cho một ca ghép tạng tùy thuộc vào từng bệnh viện. Nếu thực hiện ở
những bệnh viện lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải giá sẽ cao hơn. Nhưng thông
thường sự chênh lệch không quá nhiều. Chi phí từ 20.000USD/ca trở lên.
Bệnh nhân có thể chọn các bệnh viện như Bệnh viện Quân đội, thị trấn Hổ
Môn, huyện Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông; Bệnh viện Tứ Xuyên; Bệnh viện
Vũ Hán, tỉnh Quảng Đông; Bệnh viện Bắc Kinh; Bệnh viện Thượng Hải để
thực hiện phẫu thuật ghép tạng
4
.


+ Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở Châu Mỹ

Hiến, cấy, ghép mô, BPCT người đã phát triển từ rất sớm và đạt được
rất nhiều thành công tại Hoa Kỳ. Đạo luật năm 1987 quy định về cho tạng.
Đạo luật quy định một cá nhân ít nhất phải là người 18 tuổi mới có thể thực
hiện việc cho tạng với mục đích chữa trị, ghép tạng, giáo dục hoặc nghiên cứu
khoa học. Việc cho tạng được thực hiện chỉ với văn kiện cho tạng được ký bởi
người cho. Người cho có thể tuyên bố sửa đổi hoặc hủy bỏ việc cho tạng.
Việc cho tạng có thể được in trên bằng lái xe.

+ Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở Châu Đại Dương.


4
“Ghép tạng – Một hoạt động y học không đơn giản”, http:/www.dep.com.vn ngày 19/04/2007

18

Việc hiến lấy, ghép mô, BPCT người được quy định trong đạo luật về
mô người của bang New South Wales của Ôxtrâylia năm 1983 quy định việc
hiến BPCT của người lớn và trẻ con. Một người nếu không phải là trẻ em có
thể viết cam kết cho lấy đi từ cơ thể họ BPCT nhằm mục đích ghép cho cơ thể
người sống khác, dùng cho mục đích điều trị khác, mục đích y khoa hay mục
đích chuyên biệt, bác sỹ là người chứng nhận cho cam kết đó. Đối với người
hiến là trẻ em thì cha mẹ của đứa trẻ có thể ký cam kết viết tay để ghép vào cơ
thể cha, mẹ hay anh chị của trẻ và bác sỹ cũng là người ký chứng nhận vào
cam kết trên với điều kiện cha mẹ trẻ là người bình thường, cha mẹ trẻ hiểu
được bản chất và ảnh hưởng của việc lấy đi BPCT của trẻ, cam kết được ký tự
nguyện và trẻ đồng ý việc lấy và ghép mô, BPCT.


1.2. Khái niệm quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
1.2.1. Khái niệm

Hiến BPCT là một khái niệm không mới đối với nhiều quốc gia trên thế
giới, nhiều nguời dân ở nhiều nước trên thế giới đã quen thuộc với khái niệm
này, nó không chỉ là khái niệm thuần túy trong y học mà còn là khái niệm
trong luật học và đã rất phổ biến trong đời sống nhân dân các nước. Trên thế
giới, số người có nhu cầu cấy, ghép BPCT để chữa bệnh là rất lớn, số người
hiến BPCT để chữa bệnh cho người khác hoặc vì mục đích nhận đạo hay vì
mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy ngày càng tăng, vì thế khái niệm
này không xa lạ với nhiều người dân.

Thực tế, các nước phát triển trên thế giới đã thực hiện việc cấy, ghép
các BPCT từ rất lâu, kết quả đạt được rất khả thi và đã cứu sống rất nhiều
bệnh nhân nặng. Trong những năm gần đây, nền y học phát triến khá mạnh
nên việc hiến, cấy, ghép mô, BPCT đã được thực hiện tại Việt Nam với những
tiến trình rất thành công, tuy nhiên đối với người dân Việt Nam những năm

19

trước đây, đây là vấn đề xa lạ. Vì vậy, khái niệm quyền hiến BPCT là khái
niệm mới đối với Việt Nam. Tuy nhu cầu cấy, ghép BPCT người ở Việt Nam
là rất lớn nhưng để thực hiện được vấn đề này còn nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến việc thực hiện nó như các quy định của pháp luật, yếu tố tâm linh, tín
ngưỡng, tôn giáo hay yếu tố đạo đức, phong tục, tập quán …của người Việt
Nam. Do nhu cầu của nhiều bệnh nhân diễn ra trong thực tế muốn cấy, ghép
BPCT người để cứu sống người bệnh nên việc hiến BPCT người và cấy, ghép
BPCT người đã trở nên phổ biến hơn trong thời gian gần đây. Quyền hiến
BPCT của cá nhân đã được quy định trong BLDS Việt Nam 2005 mang tính
nguyên tắc và khái niệm hiến BPCT đã thực sự hình thành khi có sự ra đời

của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người được Quốc Hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua 2006 và có hiệu lực thi hành năm 2007.
Đây là một bước đột phá quan trọng trong ngành y học Việt Nam, tạo hành
lang pháp lý cho việc hiến, lấy, ghép mô, BPCT người phát triển một cách
toàn diện trên thực tế.

Như chúng ta đã biết, xét về bản chất thì con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội, do vậy quyền của con người và các quyền liên quan đến con
người đối với bất kỳ một quốc gia có chủ quyền nào thì các quyền đó cũng
được bảo hộ bằng pháp luật.
Theo quan điểm của một số nước trên thế giới như Cộng hoà Pháp thì
trong Pháp luật y sinh Cộng hòa Pháp ban hành ngày 30/1/2003 đã quy định
“BPCT người” là một phần của cơ thể người, riêng biệt và có khả năng sống,
được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau và có khả năng duy trì cấu trúc,
sự phân bố mạch và thực hiện các chức năng sinh lý một cách hoàn toàn độc
lập. Họ cũng quy định “Mô” là bộ phận cấu thành cơ thể người được hình
thành từ nhiều tế bào.


20

Cũng giống như khái niệm đã được hiểu tại các nước khác trên thế giới
thì trong y học Việt Nam khái niệm “BPCT người” được hiểu là một phần của
cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức
năng sinh lý nhất định, BPCT là thành tố cấu thành sự thống nhất của một cơ
thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi chất giúp cơ thể
tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật tự nhiên. Theo cách hiểu tại
khoản 2 điều 3 Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác thì
“BPCT người ” là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác
nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định. Như vậy, muốn hiểu được

khái niệm “BPCT người” chúng ta cần phải hiểu trước tiên là khái niệm về
Mô. Theo thuật ngữ pháp lý thì “Mô” là tập hợp các tế bào cùng một loại hay
nhiều loại khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người.
Tuy nhiên theo cách hiểu trong sinh học thì “Mô” là một hệ thống các tế bào
và chất gian bào có cùng nguồn gốc, cấu tạo và chức năng, hình thành trong
quá trình tiến hóa sinh học và xuất hiện ở một cơ thể đa bào do quá trình biệt
hóa. Cơ thể người là một hệ thống nhất, toàn vẹn, có thể chia thành nhiều mức
độ, tính chất khác nhau, với mức độ lớn nhất là cơ thể rồi đến hệ thống các cơ
quan, mô, tế bào và phân tử. Trong đó tế bào là đơn vị sống cơ bản về cấu tạo
và chức năng của mọi cơ thể sống. Tuy nhiên, cơ thể đa bào hiếm khi chỉ có
một tế bào đơn độc thực hiện một chức năng nào đó mà thường là một tập hợp
tế bào cùng nhau thực hiện đó chính là Mô.

Hiểu được khái niệm thế nào là Mô? Thế nào là BPCT người thì khái
niệm hiến BPCT cũng được hiểu dễ dàng hơn. “ Hiến BPCT người” là việc cá
nhân tự nguyện hiến BPCT của mình khi còn sống hoặc sau khi chết. Như
vậy, theo quy định trong BLDS Việt Nam năm 2005 thì “quyền hiến BPCT
người” là quyền nhân thân của cá nhân, thể hiện sự tự định đoạt của họ đối
với BPCT của mình. Quyền này không được quy định trong BLDS năm 1995,

21

đến năm 2005 mới được bổ sung vào BLDS 2005 do nhu cầu hiến, lấy, ghép
BPCT ngày càng tăng. Quy định này được bổ sung phù hợp với nhu cầu cấp
thiết của người dân, những người đang mắc bệnh nặng cần BPCT để cấy,
ghép hay các trường đại học, các cơ quan… cần BPCT để nghiên cứu, giảng
dạy hay các y, bác sỹ cần BPCT người để thực tập nâng cao tay nghề.

Quyền nhân thân là quyền dân sự của một chủ thể, về nguyền tắc không
thể chuyển giao cho các chủ thể khác, đó là quyền dân sự tuyệt đối, mọi người

đều có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền nhân thân của người khác. Trong đời
sống xã hội mỗi người đều có một số quyền mà trong đó quyền nhân thân
ngày càng trở nên quan trọng. Quyền nhân thân là thuật ngữ pháp lý để chỉ
những quyền gắn liền với bản thân của mỗi con người, gắn liền với đời sống
riêng tư của mỗi cá nhân. Xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ
càng được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu.
Do đó quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn
cùng với những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Quyền nhân thân
không xác định được bằng tiền, giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là
những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do đó, quyền
hiến BPCT người được BLDS 2005 bảo vệ và tôn trọng.

Quyền hiến BPCT là quyền nhân thân của cá nhân, gắn liền với mỗi cá
nhân nên không thể chuyển giao cho người khác. Do vậy, hiến BPCT là một
hợp đồng đặc biệt vì đối tượng của hợp đồng là BPCT người, BPCT người
được hiểu là một phần của cơ thể, được hình thành từ nhiều loại mô khác
nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định như thận, phổi,
gan…BPCT người không phải là tài sản, không thể tách rời khỏi người có
BPCT đó trái với ý chí của họ. Xét về mặt sinh học thì BPCT người là những
thành tố cấu thành cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng

22

trao đổi chất giúp cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật tự
nhiên.

BPCT con người có hai dạng là BPCT tái sinh và BPCT không tái sinh,
đối với mỗi dạng BPCT khi hiến cho người khác được pháp luật quy định
khác nhau. Theo quy định khoản 5 điều 3 Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT
người và hiến, lấy xác thì BPCT không tái sinh là bộ phận sau khi lấy ra khỏi

cơ thể con người không thể sản sinh hoặc phát triển thêm bộ phận khác thay
thế bộ phận đã lấy như thận, phổi, tim…Khác với BPCT không tái sinh thì
BPCT tái sinh là những bộ phận mà sau khi lấy ra khỏi cơ thể vẫn sản sinh
hoặc phát triển thêm bộ phận khác thay thế. Vì BPCT không tái sinh khi hiến
cho người khác sẽ ảnh hưởng đến cơ thể của người hiến ít nhiều phải có thời
gian mới có thể hồi phục lại vì vậy điều kiện, thủ tục lấy BPCT không tái sinh
ở người sống được quy định chặt chẽ hơn. Ngoài những điều kiện, thủ tục
hiến BPCT chung như chỉ có những cơ sở y tế có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật mới có quyền lấy, ghép BPCT hay chỉ lấy mô, BPCT ở người
sống đã đăng ký hiến….thì ở BPCT không tái sinh chỉ được tiến hành lấy sau
khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Hội đồng tư vấn lấy, ghép BPCT người
bao gồm những chuyên gia về y tế, pháp luật và tâm lý theo quy định của Bộ
trưởng Bộ y tế. Quy định như vậy là rất chặt chẽ đảm bảo khi BPCT của một
người được lấy ra khỏi cơ thể họ khi đã có sự xem xét, phân tích đầy đủ về
mặt y học, về tâm lý cũng như về pháp luật đảm bảo cho người hiến BPCT có
thể sinh sống một cách bình thường, khỏe mạnh sau khi hiến. Vì đây là luật
liên quan đến tính mạng của con người nên khi các nhà lập pháp ban hành
một điều luật phải chặt chẽ để việc hiến BPCT của cá nhân là một việc làm
vừa nhân đạo, vừa an toàn cho người hiến để người hiến có thể yên tâm khi
hiến BPCT của mình mà không ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của họ. Khi
hiến BPCT cho một người khác vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa

23

học đã thể hiện sự nhân đạo của người hiến không vì lợi ích vật chất, chia sẽ
sự sống của mình cho người khác, sự nhân đạo cao cả đã được con người
hướng tới và pháp luật đề cao, tôn vinh người hiến BPCT đó. Hiến BPCT liên
quan đến sự sống của con người, hiến BPCT tái sinh hay không tái sinh đều ít
nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của người hiến nhưng vì sự tương thân, tương
ái, vì sự phát triển của khoa học mà người hiến đã hiến BPCT của mình mà

không yêu cầu, đòi hỏi bất kỳ một lợi ích vật chất nào. Do vậy, mà việc hiến
BPCT nguời là một hợp đồng dân sự đặc biệt.

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân.

1.2.2.1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép.

Theo quy định tại điều 4 BLDS 2005 về “nguyên tắc tự do, tự nguyện
cam kết, thỏa thuận”. Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm nếu cam kết, thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào
được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.
Cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với
các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.

Sự tự nguyện của cá nhân trong việc hiến hoặc nhận BPCT là nguyên
tắc căn bản được BLDS quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ. Đó là nguyên tắc
mang tính chỉ đạo và định hướng khi áp dụng pháp luật dân sự. Hiến BPCT là
một hợp đồng dân sự được giao kết giữa một bên là người hiến và người được
hiến hoặc người hiến giao kết hợp đồng với người thứ ba trong trường hợp
người được hiến mất khả năng tư duy vào thời điểm được cấy, ghép các
BPCT do người khác hiến thông qua các biện pháp y học hoặc người hiến với
cơ quan nghiên cứu, giảng dạy về khoa học giải phẫu cơ thể người. Một trong

×