Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ: nghiên cứu địa danh tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.67 KB, 25 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN ĐÌNH HÙNG





N
N
G
G
H
H
I
I
Ê
Ê
N
N


C


C


U
U


Đ
Đ


A
A


D
D
A
A
N
N
H
H


T
T


N

N
H
H


Q
Q
U
U


N
N
G
G


B
B
Ì
Ì
N
N
H
H




Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ

Mã số: 62220101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
















Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2014



Công trình được hoàn thành tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN – ĐẠI HỌC
QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Trí Dõi




Phản biện 1: ……………………………………….
Phản biện 2: ……………………………………….
Phản biện 3: ……………………………………….


Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo
họp tại Trƣờng Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh
vào hồi….giờ….tháng….năm…




Có thể tìm luận án tại:
Thư viện Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Địa danh học là một bộ phận đặc biệt của từ vựng học, chuyên nghiên cứu
nguồn gốc, ý nghĩa và đặc điểm cấu tạo các tên gọi chỉ các đối tƣợng địa lý tự nhiên
và nhân văn. Nghiên cứu địa danh có thể chỉ ra các phƣơng thức, nguyên tắc tạo địa
danh đặc thù gắn với mỗi vùng phƣơng ngữ và các khu vực địa - văn hóa khác nhau.
1.2. Quảng Bình là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng của đất nƣớc,
nơi giao thoa tiếp biến của nhiều nền văn hóa. Từ thế kỷ thứ 10, vùng đất này từng

bƣớc hội nhập vào nền văn hóa Đại Việt. Chính vì thế, địa danh - một chứng tích
ngôn ngữ học - sẽ phản ánh những biến đổi văn hóa ở vùng đất mở đầu cho sự thống
nhất văn hóa Việt Nam nhƣ ngày nay.
1.3. Luận án hƣớng đến một nguyện vọng thiết thực: góp phần nghiên cứu
những đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa Quảng Bình bằng việc khảo sát hệ thống địa
danh trên địa bàn, đóng góp cho việc nghiên cứu vùng lãnh thổ, một cách tiếp cận
đang đƣợc ƣa chuộng hiện nay trong các khoa học xã hội và nhân văn.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới, việc nghiên cứu địa danh đã có từ rất lâu. Sách lịch sử, địa lý
Trung Quốc ghi chép địa danh, chỉ ra cách đọc, ý nghĩa, vị trí, diễn biến quy luật của
tên gọi. Đầu thời Đông Hán (32-92 SCN), Ban Cố đã ghi chép hơn 4000 địa danh.
Thời Bắc Ngụy (380-535), Lịch Đạo Nguyên viết Thuỷ kinh chú sớ, ghi chép và miêu
tả hơn hai vạn địa danh.
- Địa danh học xuất hiện ở phƣơng Tây vào cuối thế kỷ XIX với việc thành lập
các cơ quan nghiên cứu địa danh, xuất bản những tác phẩm chú trọng về khảo chứng
nguồn gốc ngôn ngữ và ghi chép địa danh: Địa danh học (1872) của Eggli, Địa danh
học (1903) của Nagh. Bắt đầu từ thế kỷ XX, J.Gilliéron (1854 - 1926) đã viết Atlat
ngôn ngữ Pháp, nghiên cứu địa danh theo hƣớng phát triển địa lý học. A.Dauzat với
tác phẩm Nguồn gốc và sự phát triển của địa danh, đề xuất phƣơng pháp địa lý học
để nghiên cứu niên đại của địa danh.
- Đi tiên phong trong việc xây dựng hệ thống lý thuyết về địa danh học là các
nhà địa danh học Xô Viết: N.I.Niconov với Các khuynh hướng nghiên cứu địa danh
(1964); A.I.Popov nêu ra Những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa danh
(1964) Đáng chú ý nhất là tác phẩm Địa danh học là gì? của A.V.Superanskaja
(1985), công trình mang tính tổng hợp, trình bày toàn diện những kết quả nghiên cứu,
làm cơ sở vững chắc cho nghiên cứu địa danh trong những năm tiếp theo.
- Ở châu Âu, châu Mỹ cũng có những công trình nghiên cứu về nguồn gốc ý
nghĩa của địa danh. Tiêu biểu là Toponymy - the Lore, Laws and Language of
Geographical Names của Naftali Kadmon, đã đƣa ra hệ thống lí luận nghiên cứu địa
danh về cả lý thuyết lẫn thực tiễn, đƣợc xem nhƣ cẩm nang về nguyên tắc và ngôn

ngữ đặt tên cho các đối tƣợng địa lý, có giá trị về mặt phƣơng pháp luận đối với
nghiên cứu địa danh hiện nay.
Ở nước ta, địa danh cũng đã đƣợc đề cập nhiều trong các công trình về lịch sử,
địa lý, địa chí nhƣ Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú (1821), Việt sử thông giám cương mục (1878), Đại Nam nhất thống
2

chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang, Đại
Việt địa dư toàn biên của Phƣơng Đình Nguyễn Văn Siêu v.v.
- Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam đƣợc đặt ra từ thế kỷ trƣớc. Những
công trình tiêu biểu gần đây là: Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (1991) và Địa
danh học Việt Nam (2006) của Lê Trung Hoa, Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh
Xuân Vịnh, Việt Nam - những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945 - 1997
của Nguyễn Quang Ân, Một số vấn đề địa danh học Việt Nam của Nguyễn Văn Âu,
Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra của Dƣơng
Thị The và Phạm Thị Thoa. Tiếp sau đó là các luận án khảo sát địa danh của Nguyễn
Kiên Trƣờng, Từ Thu Mai, Phan Xuân Đạm
- Gần đây, tác giả Hoàng Thị Châu, Trần Trí Dõi, Lê Trung Hoa với những
công trình về địa danh theo hƣớng nghiên cứu so sánh lịch sử, ngôn ngữ-văn hóa, đã
có những đóng góp sâu sắc khi tiếp cận vấn đề địa danh dƣới góc nhìn ngôn ngữ học,
cung cấp một cách khá toàn diện về phƣơng pháp nghiên cứu địa danh theo hƣớng
khoa học liên ngành.
Liên quan đến địa danh ở Quảng Bình có Ô Châu cận lục của Dƣơng Văn An,
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang
Định (1806), Đồng Khánh dư địa chí (1885) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Quảng
Bình thắng-tích-lục của Trần Kinh và Nguyễn Kinh Chi (1998) Những tác phẩm đó
đã giới thiệu về địa danh làng xã, mô tả cảnh quan vùng đất, đề cập đến địa danh ở
Quảng Bình dƣới góc độ văn hóa, địa lý, lịch sử và du lịch.
- Tuy nhiên, vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách qui mô, toàn
diện về địa danh tỉnh Quảng Bình dƣới góc độ ngôn ngữ học. Chính vì thế, luận án

Nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình là một công trình bù đắp cho tình trạng đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích:
- Luận án sẽ góp phần nghiên cứu ngôn ngữ văn hóa xã hội của vùng đất, cung
cấp dữ liệu cho việc nghiên cứu lý thuyết về địa danh cả nƣớc.
- Từ những cứ liệu đƣợc thu thập, tiếp tục đi sâu nghiên cứu xây dựng từ điển
từ nguyên địa danh tỉnh Quảng Bình.
Luận án có 4 nhiệm vụ giải quyết:
- Trình bày cơ sở lí luận và tổng quan nghiên cứu địa danh, về địa bàn nghiên
cứu và phƣơng pháp tiếp cận địa danh tỉnh Quảng Bình.
- Khảo sát điền dã địa danh trong phạm vi tỉnh Quảng Bình, kể cả những vùng
rừng núi có dân tộc thiểu số sinh sống.
- Nhận diện đặc điểm cấu trúc địa danh tỉnh Quảng Bình qua thống kê miêu tả
thành tố chung và tên riêng địa danh tỉnh Quảng Bình.
- Nhận diện đặc điểm định danh địa danh tỉnh Quảng Bình ở các khía cạnh
phƣơng thức định danh, đặc điểm ý nghĩa.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề về cấu tạo và ý
nghĩa của địa danh tự nhiên và xã hội tỉnh Quảng Bình.
4. Đóng góp mới của luận án
- Luận án cho thấy địa danh ở Quảng Bình vừa là sự phản ánh chung địa danh
của ngƣời Việt, vừa mang dấu ấn đặc thù của cƣ dân đã cƣ trú ở vùng đất này từ thời
xa xƣa.
3

- Theo đó, địa danh Quảng Bình có đặc điểm cấu tạo, ý nghĩa, phƣơng thức
định danh và đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa riêng mang đặc trƣng của tiếng địa
phƣơng Quảng Bình.
5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu:
- Tƣ liệu lƣu trữ hành chính ở tỉnh, huyện, xã; trên các loại bản đồ.

- Tƣ liệu điều tra điền dã trực tiếp ở các địa phƣơng Quảng Bình.
Các phương pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp nghiên cứu điền dã của ngôn ngữ học; phƣơng pháp miêu tả
phân tích.
-Thủ pháp thống kê, so sánh; trong đó có so sánh lịch đại để nghiên cứu nguồn
gốc và nhận diện giá trị văn hóa địa danh tỉnh Quảng Bình.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án có cấu trúc 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về địa danh và những vấn đề hữu quan về địa danh tỉnh
Quảng Bình.
Chương 2: Những đặc điểm về cấu tạo và ý nghĩa của địa danh tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Một vài đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của địa danh tỉnh Quảng Bình.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ HỮU QUAN
VỀ ĐỊA DANH TỈNH QUẢNG BÌNH

1.1. Cơ sở lý thuyết về địa danh
Những nội dung của luận án đƣợc giải quyết trên cơ sở kế thừa, vận dụng một
cách hợp lý lý thuyết về địa danh, địa danh học của các tác giả trong và ngoài nƣớc.
1.1.1. Về khái niệm địa danh
Hiện vẫn chƣa có một định nghĩa thống nhất về địa danh. Do đó, khái niệm
đƣợc chúng tôi sử dụng: Địa danh là những từ, cụm từ dùng làm tên riêng cho các
đối tượng địa lý khác nhau, có vị trí xác định thiên về không gian hai chiều trên bề
mặt trái đất.
1.1.2. Vấn đề phân loại địa danh
Luận án đã giới thiệu cách phân loại địa danh của các tác giả trong và ngoài
nƣớc: G.P.Xmolixkaja, A.V.Superanskaja, A.Dauzat, Ch.Rostaing, Nguyễn Văn Âu,
Trần Thanh Tâm, Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trƣờng, Từ Thu Mai, Phan Xuân

Đạm. Mỗi tác giả tùy theo mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu riêng mà đƣa ra
những tiêu chí phân loại khác nhau.
Căn cứ vào mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và tình hình thu thập cứ
liệu địa danh ở tỉnh Quảng Bình, luận án phân loại địa danh tỉnh Quảng Bình theo 2
tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên và nguồn gốc ngôn ngữ. Theo tiêu chí thứ nhất, địa
danh ở Quảng Bình đƣợc chia thành: địa danh chỉ địa hình tự nhiên gồm những đối
tƣợng địa lý nổi trên bề mặt (rú/núi, đồi, cồn, đôộng, bại ) và những đối tƣợng lõm
so với bề mặt quả đất (sông, hồ, đầm, phá, hói, khe ); địa danh không tự nhiên gồm:
địa danh cư trú-hành chính và địa danh công trình xây dựng. Theo tiêu chí thứ hai,
địa danh tỉnh Quảng Bình đƣợc phân chia thành: địa danh Hán Việt, địa danh thuần
4

Việt (tiếng Việt phổ thông và tiếng địa phƣơng Quảng Bình), địa danh có nguồn gốc
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số.
1.1.3. Về chức năng của địa danh
Địa danh có ba chức năng cơ bản: Chức năng cá thể hóa đối tƣợng; chức năng
phản ánh hiện thực; chức năng bảo tồn.
1.1.4. Vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học
Luận án đã mô hình hóa vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học theo quan
điểm tán đồng với sơ đồ vị trí địa danh của Lê Trung Hoa.
1.1.5. Hướng tiếp cận khi nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình
Hƣớng tiếp cận địa danh dƣới góc độ ngôn ngữ - văn hóa là vấn đề thời sự hiện
nay; nó phân tích xem địa danh đã phản ánh những đặc điểm văn hóa, thực tiễn cuộc
sống nhƣ thế nào, và ngƣợc lại, văn hóa đƣợc phản ánh qua địa danh ra sao. Nghiên
cứu địa danh tỉnh Quảng Bình trong sự tìm hiểu khả năng tương tác giữa địa danh và
các thành tố văn hóa là điểm đến của luận án với mong muốn góp phần bổ sung cho
sự nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong từng vùng lãnh thổ.
1.2. Những vấn đề có liên quan đến địa danh tỉnh Quảng Bình
Luận án đã trình bày những đặc điểm chính về văn hóa, lịch sử, địa lý, địa giới
hành chính, nguồn gốc dân cƣ, tiếng địa phƣơng Quảng Bình.

- Lịch sử Quảng Bình là lịch sử đầy biến động vì sự nghiệp mở mang bờ cõi
của dân tộc.
- Văn hóa Quảng Bình là kết quả của sự giao thoa tiếp biến, phân chia và hội tụ
của nhiều luồng văn hóa, là ga trung chuyển các giá trị văn hóa truyền thống từ Bắc
vào Nam và ngƣợc lại. Cùng với tầng văn hóa vỏ ốc, văn hóa Bàu tró, văn hóa Chăm
v.v. nơi đây là một tiểu vùng văn hóa riêng, và tất yếu còn lƣu lại trong địa danh.
- Tiếng địa phƣơng Quảng Bình còn lƣu giữ những đảo thổ ngữ, thể hiện một
quá trình tiếp xúc ngôn ngữ riêng ở địa bàn.
1.3. Kết quả thu thập và phân loại địa danh tỉnh Quảng Bình
Luận án đã thu thập đƣợc 7009 địa danh, các địa danh này đƣợc xác định trên
sự phân bố theo không gian trên địa bàn toàn tỉnh.
TT
Loại hình địa danh
Số lượng
Tỷ lệ %
1
Các đối tƣợng địa lý tự nhiên
2742
39,12
2
Các đối tƣợng địa lý cƣ trú-hành chính
2985
42,59
3
Các công trình xây dựng
1282
18,29
Cộng
7009
100

1.3.1. Địa danh tỉnh Quảng Bình theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên
Tiêu chí
Phân loại dịa danh
Số lượng
Tỷ lệ %
Tự nhiên
Loại hình địa danh tự nhiên
2742
39,12



Không tự
nhiên
Địa danh
cƣ trú
hành
chính
Tên gọi dân gian
1136

2985
16,21

42,59
Tên hành chính cũ
487
6,95
Tên gọi hành chính hiện
nay

1362
19,43

Công trình
xây dựng
Liên quan đến đời sống
vật chất
1145

1282
16,34

18,29
Liên quan đến đời sống
tinh thần
137
1,66
Cộng
7009
7009
100
100
5

1.3.2. Địa danh tỉnh Quảng Bình theo tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ
Địa danh có nguồn gốc thuần Việt xuất hiện ở 2804 trƣờng hợp, chiếm 40%.
Trong đó các địa danh tự nhiên là 1437 trƣờng hợp (20,50%); địa danh cƣ trú hành
chính có 895 trƣờng hợp (12,77%); địa danh công trình xây dựng là 472 trƣờng hợp
(6,73%). Ví dụ: đồng Bàu, đồng Côi…
Địa danh có nguồn gốc Hán Việt là 3612 trƣờng hợp, chiếm 51,53%. Trong

đó, địa danh tự nhiên có 1131 trƣờng hợp (16,13%); địa danh cƣ trú hành chính
gồm 1905 trƣờng hợp (27,18%); địa danh công trình xây dựng có 576 trƣờng hợp
(8,22%). Ví dụ: làng Thuận Bài, làng Thổ Ngọa, xã Quang Phú, xã Bảo Ninh.
Địa danh có nguồn gốc hỗn hợp gồm 425 trƣờng hợp, chiếm 6,06%, địa danh
tiếng dân tộc thiểu số 96 trƣờng hợp (1,37%). Một số địa danh tạm thời chƣa xác
định nguồn gốc: động Chấn, xóm Dum, xóm Đồm, Chày Lập, Hà Lời, Trằm Mé,
bản Lòm, bản Rì Rị, bản Ón, Ta Leng, Rôông, Noòng
1.4. Tiểu kết
1. Luận án đã cung cấp một bức tranh toàn cảnh lí luận về vấn đề địa danh học
và tình hình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam, xác định cách tiếp cận hợp lý để
nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình, góp phần khẳng định vai trò và giá trị của
phƣơng pháp miêu tả nội dung địa danh trên cơ sở vận dụng tri thức của nhiều ngành
khoa học nhƣ: văn hóa, lịch sử, địa lí và ngôn ngữ.
2. Quảng Bình là vùng đất có nhiều đặc điểm riêng về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ. Là
vùng đất cổ, với sự có mặt của con ngƣời từ rất xa xƣa, nhiều lần thay đổi địa giới
hành chính và địa danh. Từ lớp ngƣời Chăm, ngƣời Việt cổ thời sơ sử, Quảng Bình là
nơi tụ cƣ của nhiều lớp cƣ dân Đại Việt. Đến nay, đại đa số cƣ dân Quảng Bình là ngƣời
Kinh với một nền văn hóa đặc sắc, tích hợp từ văn hóa Việt, văn hóa Hán, mang dấu ấn
văn hóa của các dân tộc thiểu số, văn hóa Chăm, tạo nên một tiểu vùng văn hóa riêng.
3. Khảo sát địa danh tỉnh Quảng Bình theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên đã
chỉ ra các đặc trƣng phong phú về địa hình (đầy đủ các loại hình đồi núi, sông suối, đồng
bằng và biển), về các vùng đất cƣ trú hành chính.
4. Kết quả thống kê địa danh Quảng Bình theo nguồn gốc ngôn ngữ cho thấy ở
Quảng Bình có một tỷ lệ lớn các địa danh có nguồn gốc thuần Việt (tiếng Việt phổ thông
và tiếng địa phƣơng Quảng Bình), phản ánh việc bảo lƣu đƣợc tiếng Việt địa phƣơng,
tiếng Việt cổ. Nhƣng quá trình “Hán Việt hóa” cũng đã diễn ra khá sâu sắc. Tần số hoạt
động của các yếu tố Hán Việt là cao nhất, yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số không đáng kể.

Chương 2

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ CẤU TẠO VÀ Ý NGHĨA
CỦA ĐỊA DANH TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Giới thuyết chung về cấu tạo địa danh và phương thức định danh
- Về bản chất, phƣơng thức định danh là nhằm trả lời câu hỏi dựa vào đâu và bằng
cách nào để định danh (đặt tên cho đối tƣợng).
- Thao tác định danh gồm: xác định những đặc tính chung để phân nhóm, tức là
lựa chọn thành tố chung (danh từ chung) và những đặc tính riêng (nét riêng) để xác lập
tên riêng (địa danh) cho đối tƣợng.
6

- Phƣơng thức định danh, cấu tạo và ý nghĩa của địa danh luôn có mối quan hệ
chặt chẽ, gắn bó. Cấu tạo của một địa danh liên quan đến hai yếu tố: cấu trúc nội bộ và
nguyên tắc đặt tên. Cấu trúc nội bộ là đặc điểm về cấu tạo (hình thức), nguyên tắc đặt
tên là đặc điểm về ý nghĩa (nội dung).
2.2. Cấu tạo địa danh tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh
Khi xem xét mô hình cấu trúc của một phức thể địa danh, quan điểm của luận án
là một địa danh, hay một phức thể địa danh luôn gồm 2 thành tố: thành tố chung chỉ loại
và tên riêng cụ thể hóa loại hình địa danh. Cả hai thành tố đều có vai trò và chức năng
khác nhau trong việc tạo lập một phức thể địa danh. Mô hình cấu trúc phức thể địa
danh ở Quảng Bình nhƣ sau:
Thành tố chung (A)
(loại hình địa danh)
Tên riêng (B)
(địa danh - đối tƣợng khu biệt)
Số lƣợng âm tiết tối đa
Số lƣợng âm tiết tối đa
1
2

3
4
1
2
3
4
5
6
7
Nghĩa
trang
liệt
sỹ
Thị
Trấn
Nông
Trƣờng
Việt
Trung

Trận
địa


Đại
Đội
Nữ
Pháo
Binh
Ngƣ

Thủy

2.2.2. Thành tố chung
2.2.2.1. Khái niệm thành tố chung
Theo chúng tôi: thành tố chung trong phức thể địa danh là những danh từ (hay
danh ngữ) dùng để chỉ một lớp sự vật, đối tượng cùng loại hình và cùng thuộc tính bản
chất. Ví dụ: làng (trong làng Thổ Ngọa)
2.2.2.2. Cấu tạo của thành tố chung trong địa danh tỉnh Quảng Bình
Dựa vào các nguồn tƣ liệu, luận án đã thu thập 7009 địa danh ghi bằng tiếng
Việt với 149 thành tố chung. Kết quả thống kê cấu tạo:

TT
Số lượng âm tiết
Số lượng thành tố chung
Tỷ lệ%
1
Một âm tiết
113
75,8
2
Hai âm tiết
28
18,8
3
Ba âm tiết
7
4,7
4
Bốn âm tiết
1

0,7
Cộng
149
100

- Kết quả thống kê tần số xuất hiện của các địa danh đi kèm với các loại thành
tố chung:

TT
Số lượng âm tiết
Tần số xuất hiện
Tỷ lệ %
Ví dụ
1
Một âm tiết
6344
90,51
Làng Thuận Bài
2
Hai âm tiết
455
6,49
Di chỉ Cồn Nền
3
Ba âm tiết
123
1,76
Khu kinh tế Hòn La
4
Bốn âm tiết

87
1.24
Nghĩa trang liệt sỹ Ba Dốc
Cộng
7009
100

7


2.2.2.3. Chức năng của thành tố chung
- Chức năng phân biệt các loại hình đối tƣợng địa lí
- Chức năng hạn định cho tên riêng
- Chức năng chuyển hoá
Kết quả về sự chuyển hóa của thành tố chung vào tên riêng địa danh:
Loại địa danh chia theo
thành tố chung
Tổng hợp sự chuyển hoá
Thành
tên riêng
Vào một vị trí (VT) của B
Cộng
VT1
VT 2 trở đi
Địa danh địa hình thiên nhiên
68
237
51
356
Địa danh cƣ trú hành chính

27
61
39
127
Địa danh công trình liên quan
đến đời sống vật chất
21
41
25
87
Địa danh công trình liên quan
đến đời sống tinh thần
17
25
19
61
Tổng cộng
133
364
134
631

2.2.3. Tên riêng
Trong một phức thể địa danh, tên riêng là thành tố thứ hai luôn đứng sau danh từ
chung (thành tố A), có chức năng cụ thể hóa các đối tƣợng địa lí mà thành tố chung đã
khái quát.
2.2.3.1. Về số lượng các âm tiết trong tên riêng
Trong tổng số 7009 địa danh thu thập, số lƣợng các âm tiết trong tên riêng là
khác nhau, tên riêng dài nhất có 7 âm tiết. Dƣới đây là bảng thống kê tên riêng địa
danh theo số lƣợng âm tiết:


TT
Số lượng
âm tiết
Loại hình địa danh
Tổng
cộng
Tỷ lệ
%
Địa danh
địa hình
Địa danh cư trú
hành chính
Địa danh
công trình
1
Một âm tiết
1143
584
278
2005
28,60
2
Hai âm tiết
1506
2087
764
4357
62,08
3

Ba âm tiết
81
276
116
473
6,75
4
Bốn âm tiết
12
34
53
99
1,41
5
Năm âm tiết
0
3
46
49
0,72
6
Sáu âm tiết
0
1
24
25
0,42
7
Bảy âm tiết
0

0
1
1
0,02
Cộng
2742
2985
1282
7009
100
8


2.2.3.2. Các kiểu cấu tạo tên riêng
Tên riêng trong địa danh Quảng Bình có hai kiểu cấu tạo: cấu tạo đơn và cấu tạo
phức. Căn cứ vào số lƣợng các loại hình địa danh thu thập đƣợc, có thể lập bảng thông
kê địa danh theo kiểu cấu tạo nhƣ sau:

Loại hình địa danh
Số lượng địa danh theo kiểu cấu tạo
Cộng
Cấu tạo
đơn
Cấu tạo phức
SL
TL %
CP
ĐL
C - V
Địa danh tự nhiên


1143
1389
171
39
2742
39,12
Địa danh cƣ trú hành
chính

584
1586
792
23
2985
42,59
Địa danh công trình

278
726
266
12
1282
18,29
Tổng cộng
SL
2005
3701
1229
74

7009
100%
TL %
28,60
52,80
17,54
1,06

2.3. Phương thức định danh
Địa danh ở Quảng Bình đƣợc luận án miêu tả theo hai phƣơng thức: tự tạo và
chuyển hóa. Kết quả khảo sát tƣ liệu địa danh cho thấy phần lớn địa danh tỉnh Quảng
Bình đƣợc hình thành theo phƣơng thức tự tạo (hơn 70% trong tổng số hơn 7000 địa
danh), số còn lại đƣợc tạo ra theo phƣơng thức chuyển hóa. Chỉ có một vài địa danh
đƣợc đặt theo tiếng nƣớc ngoài do các khám phá khoa học đối với các đối tƣợng địa
lý mới nhƣ: hang Over, hang Pygmy (tiếng Anh) ở vƣờn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng.
2.3.1. Phương thức tự tạo
Là phƣơng thức mà ngƣời định danh sử dụng các yếu tố ngôn ngữ có sẵn để
tạo ra một tên gọi địa danh theo cách của mình. Sau đây là một số cách thức cụ thể:
- Đặt tên dựa vào hình dáng của đối tƣợng: núi Răng Lược, rú Mồng Gà, vực
Tròn, cầu Bánh Tét, cầu Bôộng, chợ Ống
- Dựa vào tính chất, đặc điểm chính của đối tƣợng: vụng Lành, khe Gát, rào
Đá, suối Nước Mọoc, xóm Mới, cống Phóng Thủy
- Dựa vào thời gian hoạt động của đối tƣợng nhƣ: chợ Hôm, chợ Mai, chợ Rằm
Tháng Ba
- Gọi tên theo tính chất hoạt động của đối tƣợng nhƣ: chợ Đón, chợ Chạy, chợ
Nấp, chợ Bến
- Dựa vào sản vật đặc trƣng mua bán tại địa phƣơng: chợ Tru (Trâu), chợ Chè,
chợ Cá, chợ Củi (chất đốt), chợ Gộ (gỗ)
- Dựa vào hoạt động đặc thù của đối tƣợng trong một hoàn cảnh và giai đoạn

cụ thể: đường Gùi, đường Xe Đạp Thồ, đường Kín, đường Hở
- Dựa vào kích thƣớc của đối tƣợng: cầu Ngắn, cầu Dài, đôộng Nậy (lớn),
đôồng Mén (nhỏ), roọng Mọn (bé)
- Đặt tên gắn với màu sắc đối tƣợng: sông Son (màu phù sa), bản Đất Đỏ, sông
Vàng (Hoàng Giang), Lục Sơn, Hồng Giang, Lục Giang
9

- Đặt tên theo vật liệu xây dựng:cầu Sắt, cầu Gỗ, cầu Ván
- Đặt tên theo vị trí của đối tƣợng này so với đối tƣợng khác: xã Tây Trạch, xã
Nam Trạch, đồng Đá Mài Trong, đồng Đá Mài Ngoài
- Đặt tên theo công trình xây dựng gần đối tƣợng: ngã ba Tam Tòa, bến đò
Cổng Thượng, đôồng Phủ, giếng Đình…
- Đặt theo tên vật thể có nhiều ở nơi đó: dốc Sỏi, khe Đá Mài, rú Đá Đen,
giăng Đá Chát
- Đặt tên theo cầm thú sống hoặc nuôi ở đó: lòi Hổ, cồn Trai, quán Hàu, cồn
Ngựa, cồn Thân, cồn Tý
- Đặt theo tên thực vật mọc hoặc trồng nhiều trong vùng: suối Khe Mưng, suối
Cây Sy, hói Tre, hoang Năn, làng Lệ Sơn (Núi Vải)
- Dựa vào các giai đoạn, biến cố lịch sử: khu Giao Tế, dinh Mười, thôn Nam
Tiến, thôn 19/5, tiểu khu Thống Nhất, làng Trung Nghĩa.
- Địa danh dùng số từ chiếm số lƣợng nhiều: đường 20 Quyết Thắng, quốc lộ
15, tỉnh lộ 760, tổ dân phố 8, cống 10, Quốc lộ 12C, đồi 26…
- Ghép địa danh với số thứ tự và ngƣợc lại: Cầu Trại Gà 1, cầu Trại Gà 2, thôn
1 Thanh Lạng, thôn 2 Thanh Lạng, thôn 3 Thanh Lạng
- Ghép địa danh với địa danh: bản Eo Bù - Chút Mút, khu du lịch Phong Nha -
Kẻ Bàng
- Đặt tên trên cơ sở ghép các yếu tố Hán Việt cho các đơn vị hành chính nhƣ:
Thọ Linh, Lộc Long, An Xá, Mỹ Cảnh, Mỹ Duyệt
2.3.2. Phương thức chuyển hóa
Chuyển hóa là phƣơng thức chuyển một địa danh này thành một hoặc nhiều địa

danh khác. Sau khi chuyển hóa, địa danh cũ có thể mất đi hoặc cùng tồn tại với địa
danh mới. Có những hình thức chuyển hóa nhƣ sau:
- Chuyển hóa từ địa danh chỉ địa hình tự nhiên sang địa danh cƣ trú hành
chính: bản Khe Giữa, bản Rào Con, thôn Cồn Năn, thôn Cồn Sẻ
- Chuyển hóa từ địa danh lịch sử văn hóa sang địa danh cƣ trú hành chính hoặc
ngƣợc lại: chiến khu Trung Thuần – làng Trung Thuần, làng Văn La - địa đạo Văn
La.
- Chuyển hóa từ nhân danh thành địa danh: thôn Hoàng Trung Lộc, thôn
Hoàng Đàm, thôn Ông Chinh, lũy Thầy, đường Mẹ Suốt
- Chuyển hóa từ tên các nhân vật trong truyền thuyết thần thoại, tín ngƣỡng
dân gian: núi Cu Lôông (tên thần núi), eo Ôông Đùng (truyền thuyết ngƣời Nguồn),
thác Pụt (tín ngƣỡng thờ Pụt của ngƣời Nguồn)
- Chuyển hóa trong nội bộ địa danh, lấy tên làng gốc đặt tên làng thành lập sau:
xã Cự Nẫm có tên gốc là làng Cự Nẫm, sau đó tách chia thành các thôn Sen Nẫm,
Trung Nẫm, Tân Nẫm.
- Chuyển hóa thành tố chung thành một yếu tố cấu tạo tên riêng địa danh: thôn
Bàu, xóm Bến, xóm Cồn, xóm Cầu, thôn Làng, xóm Thôn
- Chuyển hóa từ địa danh ở địa phƣơng khác: làng Bắc Sơn, Bắc Giang, Hòa
Bình, Phú Xuân, Thuận hóa, Cảnh Dương
2.4. Đặc điểm về ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo địa danh tỉnh Quảng Bình
2.4.1. Vấn đề ý nghĩa của địa danh
10

Vấn đề “ý nghĩa” của địa danh chỉ mang tính tƣơng đối. Trong cách nhìn
chung nhất, mỗi địa danh ra đời đều gắn với một lí do nhất định. Hay nói cách khác,
mỗi địa danh đều mang một ý nghĩa khác nhau trong việc phản ánh hiện thực.
2.4.2. Cách thức xác định nghĩa của địa danh
- Căn cứ vào ngữ nghĩa của từ, có chú ý đến sự biến đổi.
- Dùng phƣơng pháp so sánh lịch sử để xác lập mối quan hệ ngữ âm của các
đơn vị có liên quan.

- Căn cứ vào kết quả điền dã tại địa bàn khảo sát, vận dụng tri thức liên ngành.
2.4.3. Đặc điểm ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh
2.4.3.1. Tính rõ ràng về nghĩa của các yếu tố thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ
của địa danh tỉnh Quảng Bình
Những địa danh có ý nghĩa rõ ràng là những địa danh đƣợc tất cả mọi ngƣời
bản ngữ hiểu một cách dễ dàng, là những kiểu tên gọi rõ lí do tuyệt đối, thƣờng đƣợc
tạo ra từ sự lựa chọn các đặc trƣng lí do khách quan để định danh. Trong tổng số hơn
7000 địa danh thu thập đƣợc, có 90% địa danh rõ lí do tuyệt đối, có nghĩa rõ ràng. Đa
số các địa danh Hán Việt, thuần Việt trên địa phận Quảng Bình đều rõ về nghĩa.
2.4.3.2. Về hiện tƣợng địa danh chƣa đƣợc xác định rõ ràng về nghĩa
Là những địa danh có ý nghĩa mờ nhạt, nghĩa của chúng không rõ ràng ngay cả
với những ngƣời bản ngữ, thƣờng chứa các yếu tố ngôn ngữ cổ, ngoại lai, những yếu
tố ngôn ngữ bị biến âm, hoặc các đặc điểm có liên quan đến đối tƣợng đƣợc định
danh cũng không còn hiện diện. Một số địa danh tiếng địa phƣơng Quảng Bình và
nhiều địa danh thuộc ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thƣờng không rõ ràng về nghĩa.
Những trƣờng hợp này cần tiếp tục nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số đầy đủ
hơn nữa mới có thể nhận biết đƣợc.
2.4.3.3. Vấn đề phân loại ý nghĩa địa danh tỉnh Quảng Bình
a) Về tiêu chí phân loại ý nghĩa địa danh
Luận án sử dụng tiêu chí phân loại ý nghĩa địa danh của tác giả A.V.
Superanskaja, phân chia ý nghĩa địa danh thành 4 loại:
- Địa danh kí hiệu về mặt hình thức là những kí hiệu, có thể là số hay chữ cái.
Ví dụ: đồi A1, thôn 5.
- Địa danh mô tả là địa danh chỉ dựa trên một trong những dấu hiệu của đối
tƣợng để định danh (màu sắc, hình dáng hoặc cách thức kiến tạo đối tƣợng địa lí). Ví
dụ: bản Đất Đỏ là bản có thổ nhƣỡng màu đỏ.
- Địa danh đăng kí xác định tình trạng nhất định của sự vật, gắn sự tồn tại của
đối tƣợng với một đối tƣợng lân cận khác. Ví dụ: đôồng Tiền Phủ là đồng có vị trí
phía trƣớc phủ lỵ Quảng Ninh thời nhà Nguyễn.
- Địa danh ước vọng thể hiện cách định danh trên cơ sở lí do chủ quan xuất

phát từ tình cảm, mong muốn của chủ thể định danh. Ví dụ: thôn Hòa Bình, thôn
Hưng Lộc (ƣớc vọng sự bình yên, giàu có, phát triển).
b) Các nhóm ý nghĩa trong địa danh tỉnh Quảng Bình
Căn cứ vào tƣ liệu thu thập, luận án phân chia địa danh ở Quảng Bình thành:
b.1. Nhóm địa danh không có nghĩa từ vựng
Các địa danh bằng số, chữ cái (địa danh kí hiệu) gọi tên một số địa điểm, công
trình (đèo 1001, đường 12A, đường 10, kênh 186, bến phà 1, 2,…), tên hành chính
các tổ, xóm, tiểu khu (bằng số 1, 2, 3,…), đều không có nghĩa mô tả (ý nghĩa từ
vựng). Chúng chỉ có chức năng đánh dấu, cá thể hóa đối tƣợng, không nói lên đƣợc
11

những dấu ấn về lịch sử, văn hóa liên quan, không thể hiện thông tin gì thêm về đối
tƣợng đƣợc định danh.
b.2. Nhóm các địa danh mang ý nghĩa miêu tả (ý nghĩa từ vựng)
Là lớp địa danh có tính rõ lí do cao nhất, liên quan chặt chẽ với các đặc điểm
địa hình, các đặc trƣng không gian, hay bắt nguồn từ chính những đặc điểm có liên
quan đến đối tƣợng, thƣờng rơi vào 3 tiểu nhóm:
- Nhóm địa danh có ý nghĩa rõ ràng (a transparent name): làng Sạt, khe Cơn
Trường, cầu Dài, lèn Trúc
- Nhóm địa danh có ý nghĩa không rõ ràng (non-transparent): chợ Thón, lùm
Toán, bản Lòm, xóm Dum…
- Địa danh có thành tố chung (generic element) rõ ràng về ý nghĩa từ vựng
(lexical-transparent), còn tên riêng (specific element) mờ nghĩa: thành phố Đồng Hới,
chợ Tréo, Bàu Tró.
Địa danh dù có ý nghĩa rõ ràng hay chƣa rõ ràng thì chúng cũng luôn mang ý
nghĩa từ vựng - miêu tả, phần lớn đƣợc tạo nên bằng phương thức định danh tự tạo.
b.3. Nhóm các địa danh mang ý nghĩa liên tưởng (ngữ dụng)
Một địa danh mang ý nghĩa liên tƣởng, chúng sẽ mất đi chức năng nổi bật nhất
(the most salient function) của nó là ý nghĩa định vị, xác định vị trí (locational value).
Loại ý nghĩa này, do vậy, đƣợc hình thành dựa trên điều kiện hiện thực cuộc sống đặc

biệt liên quan tới địa danh, đó chính là ý nghĩa liên tƣởng hay ý nghĩa ngữ dụng.
- Số lƣợng địa danh mang ý nghĩa liên tƣởng phổ biến trong địa danh Hán
Việt: thôn Quyết Tiến, núi Phúc Sơn, lèn Tiên Giới
- Một số địa danh kí hiệu tìm thấy ở Quảng Bình cũng có ý nghĩa liên tƣởng:
đồi 26, đường 20, cống 10, làng 19/5.
- Địa danh tiếng địa phƣơng Quảng Bình biểu thị tình cảm gần gũi, thân tộc:
Chùa Thầy Rộông, hòn Độông Gioi, truông Cha Màn, đồi Mạ Ca, đồng Con Rọong,
O Mò, Chú Se…
2.5. Tiểu kết
1. Cũng nhƣ các nơi khác, địa danh ở Quảng Bình đều đƣợc tạo ra bởi các
phƣơng thức định danh phổ biến: phương thức tự tạo, phương thức chuyển hoá.
Phƣơng thức tự tạo đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra phần lớn các địa danh ở
Quảng Bình.
2. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh Quảng Bình thể hiện đặc trƣng chung của
địa danh trên cả nƣớc. Mỗi địa danh luôn có hai thành tố: thành tố chung và tên riêng. Các
thành tố chung trong địa danh tỉnh Quảng Bình đã khái quát đƣợc các loại hình địa
danh của nhiều đối tƣợng địa lý khác nhau. Có những thành tố chung thuộc tiếng địa
phƣơng Quảng Bình phản ánh những nét riêng biệt về địa hình, bản sắc văn hóa, thổ
ngữ địa phƣơng nhƣ: rú, đôộng, trôổng, trằm, đôồng, bỉ, dồng, trọt, hung, rục, rôộc,
lèn, hoang, mội, phôốc
4. Tên riêng địa danh Quảng Bình thuộc các nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau
(trong đó chủ yếu thuần Việt và Hán Việt). Số lƣợng tên riêng cấu tạo bởi hai yếu tố
chiếm ƣu thế với quan hệ chủ yếu là quan hệ chính phụ, mang đặc điểm chung của
cấu tạo từ tiếng Việt theo xu hƣớng song tiết. Có những mô hình cấu tạo tên riêng
làng xã Quảng Bình đặc trƣng nhƣ: Quảng + X, X + Thủy, X + Ninh, X + Hóa, Kẻ +
X, Nhà + X, X + Xá, Vạn + X (hiếm), phản ánh quá trình di dân, tụ cƣ trong lịch sử
Quảng Bình: Quảng Xuân, Liên Thủy, kẻ Sạt, kẻ Hạ, Nhà Mòi, Nhà Vàng
12

5. Địa danh ở tỉnh Quảng Bình hầu hết có “nghĩa” và đƣợc quy về 3 loại ý

nghĩa: ý nghĩa từ vựng - mô tả, ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa liên tƣởng (ý nghĩa ngữ
dụng). Bất cứ địa danh có nghĩa nào cũng có ý nghĩa mô tả (ý nghĩa từ vựng) và
nghĩa ngữ pháp (từ loại), nhƣng không phải địa danh nào cũng có ý nghĩa liên tƣởng.
Một số địa danh kí hiệu ở Quảng Bình có ý nghĩa liên tƣởng, có tính lí do (đặc
điểm riêng trong cách định danh ở địa danh tỉnh Quảng Bình). Địa danh có nguồn
gốc tiếng dân tộc thiểu số thƣờng rõ ràng về nghĩa đối với ngƣời bản địa, nhƣng lại
không rõ ràng về nghĩa với đa số những ngƣời khác. Một số địa danh mờ nghĩa, hoặc
không xác định đƣợc nghĩa vì quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, bị biến âm, sai lệch âm
gốc, không còn cứ liệu, cần có những nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn để nhận diện
nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của chúng.

Chương 3
MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ - VĂN HÓA
CỦA ĐỊA DANH TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Dẫn nhập
Địa danh tuy là một hiện tƣợng của ngôn ngữ học, nhƣng nó chính lại là hình
thức thể hiện văn hóa của một cộng đồng cƣ dân đã từng hiện diện trong vùng lãnh
thổ có các địa danh. Địa danh đƣợc sinh ra, phát triển cùng văn hoá, và cũng là một
hiện tƣợng văn hóa bởi vì ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần của văn hóa: "chính trị
qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)".
Đặc trƣng văn hóa của địa danh tỉnh Quảng Bình trong chƣơng này đƣợc luận
án trình bày từ cách tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - văn hoá về một vùng địa lý có sự
giao thoa, tiếp biến, phân chia, hội tụ từ nhiều nền văn hóa của các lớp cƣ dân sinh
sống trên địa bàn. Đây là những vấn đề có nội dung liên quan mật thiết với đặc điểm
ý nghĩa của các thành tố cấu tạo nên địa danh.
3.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ trong nghiên cứu địa danh
3.2.1. Về khái niệm văn hóa
Để có một khái niệm công cụ nghiên cứu địa danh, luận án lựa chọn cách định
nghĩa về văn hoá của Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị

vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội”.
3.2.2. Ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn hóa
Từ góc độ ngôn ngữ học cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ,
thƣờng đƣợc thể hiện trong 3 phƣơng diện:
a. Ngôn ngữ biểu hiện (express) hiện thực văn hóa.
b. Ngôn ngữ là hiện thân (embody) của hiện thực văn hóa.
c. Ngôn ngữ biểu trƣng (symbolize) hiện thực văn hóa.
3.2.3. Địa danh và văn hóa
Địa danh là một hiện tƣợng ngôn ngữ, về bản chất nó là một hiện tƣợng văn
hóa, phát triển cùng văn hóa và là vật dẫn của văn hóa. Khi tìm hiểu đặc trƣng văn
hóa thể hiện trong địa danh, chúng ta thƣờng đề cập đến những khía cạnh cụ thể sau:
- Đặc trƣng văn hóa thể hiện qua thành tố ngôn ngữ trong địa danh.
- Sự thể hiện các dạng tồn tại của văn hóa trong địa danh.
13

- Sự thể hiện các phƣơng diện văn hóa trong địa danh qua ngữ nghĩa và giá trị
phản ánh hiện thực.
3.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh tỉnh Quảng Bình
3.3.1. Thành tố chung trong phức thể địa danh phản ánh đặc trưng địa - văn
hóa của vùng đất
Với 149 thành tố chung đƣợc thống kê và phân chia theo các loại hình địa danh
và nguồn gốc ngôn ngữ, chúng ta có đƣợc bức tranh địa danh sinh động, phản ánh
đặc trƣng địa hình địa vật của không gian văn hóa Quảng Bình, trong đó, nổi bật nhất
là sự phân bố các đối tƣợng địa lý sông, núi, thể hiện ở các phƣơng diện sau:
3.3.1.1. Đặc trƣng địa - văn hóa qua các thành tố chung về sông nƣớc
Với một mật độ dày đặc các sông, suối, khe, hồ, bàu, đầm, đập, hói, trọt, lạch,
trộ, rào, vực, thác, ghềnh, ao, đìa, phá …và bờ biển kéo dài ở phía đông, tạo nên sự
khác biệt giữa Quảng Bình với các khu vực khác ở nhiều mặt: địa hình, thổ nhƣỡng
và văn hóa. Chính yếu tố nước đã tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cƣ

trú, tâm lý ứng xử cũng nhƣ sinh hoạt cộng đồng ở Quảng Bình.
3.3.1.2. Đặc trƣng địa - văn hóa qua các thành tố chung về đồi núi
Quảng Bình có hệ thống núi, đồi trải khắp địa bàn, địa hình đa dạng, bốn bề
hiểm trở, giao thông khó khăn, làm cho phía tây Quảng Bình biệt lập với bên ngoài
trong một thời gian dài. Về văn hóa, Quảng Bình trở thành địa bàn bảo lƣu rất tốt nét
văn hóa “gốc”, văn hóa bản địa. Trên bình diện ngôn ngữ, Quảng Bình là khu vực
còn lƣu lại nhiều yếu tố tiếng Việt cổ, quá trình Hán hóa ngôn ngữ ở đây không sâu
sắc nhƣ một số địa phƣơng khác.
Tính chất địa hình đặc biệt làm cho Quảng Bình trở thành khu vực có cảnh
quan tự nhiên “thi vị”, “sơn thủy hữu tình”. Động Phong Nha, đèo Ngang, sông Loan
núi Phượng, non Mâu bể Hạc…là nguồn cảm hứng cho tao nhân mặc khách tạo nên
“nếp đất văn chƣơng”, khí thiêng “địa linh nhân kiệt”.
3.3.2. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua ý nghĩa và sự phản ánh hiện thực của
tên riêng địa danh
3.3.2.1. Sự phản ánh phƣơng diện không gian văn hoá
a. Phản ánh đặc điểm địa hình tự nhiên
Về địa thế: núi Đầu Voi, eo Trâu Chẹt, đồông Kiêu, dốc Ba Dốc, dãy Hoành
Sơn, dăng Đá Chát, Lệ Thủy, Phong Giang, Hà Dương, Hải Đông…; về vị trí và
phƣơng hƣớng: núi Đèo Ngoài, núi Đèo Trong, khe Giữa, thôn Ngọn Rào, Minh Cầm
Nội, Sen Đông…; về màu sắc của môi trƣờng tự nhiên: núi Lèn Bạc, khe Ry, Thanh
Hà, Bạch Thạch, Hoàng Sa…
b. Phản ánh tên các loài thực vật có trên địa bàn cư trú
Thế giới thực vật đƣợc phản ánh một cách phong phú: núi Thù Lù, Trầm Kỳ,
Trâm Bầu, Mù U, vụng Nổ, xóm Sạt, cồn Vang…
c. Phản ánh tên các loài động vật có trên địa bàn cư trú
Các địa danh tên các loài động vật cũng trở nên quen thuộc, gần gũi và phổ
biến: đồi Ông Khái, lòi Hổ, bàu Rồng, cồn Kéc, cồn Trai, dốc Con Cầy, đảo Yến,
đồông Chó Câu, hang Dơi, khe Bò Niệng, eo Trâu Chẹt…
Môi trƣờng tự nhiên hội đủ các đặc điểm về tính chất và địa hình vùng đất -
một thế giới động thực vật phong phú gắn với đặc trƣng vùng miền. Tất cả đều đƣợc

hóa thân thành địa danh, khắc họa một không gian văn hóa Quảng Bình đa dạng, đặc
sắc.
14

3.3.2.2. Sự phản ánh các giá trị văn hóa lịch sử của địa danh ở Quảng Bình
a. Phản ánh quá trình di trú
Cách đây khoảng 4-5 nghìn năm, vùng đất Quảng Bình là địa bàn của nƣớc
Việt cổ. Tƣ liệu điền dã cho thấy hiện còn 65 làng mang tên kẻ: kẻ Chao, kẻ Giang,
kẻ Chung, kẻ Sô, kẻ Nghẹn… Các địa danh di chỉ khảo cổ học Yên Lạc, Kim Bảng,
Xóm Thón, Xóm Thâm và Đức Thi có thể khẳng định các tộc ngƣời Bru-Vân Kiều,
Chứt, Nguồn đã có mặt lâu đời ở vùng rừng núi phía tây Quảng Bình.
Cho đến nay, chƣa có một căn cứ nào cho phép nhận diện sự tồn tại một loại
hình làng Chăm cổ nào ở Quảng Bình. Tuy nhiên, trên đất Quảng Bình vẫn còn lƣu
lại vết tích của ngƣời Chăm qua các địa danh: lũy Hoàn Vương, lò gạch Chuyên
Lũng, chợ Thùi, thành Nhà Ngo, thành Lồi…
Sau thế kỷ XI, lịch sử làng xã Quảng Bình có thể tóm tắt thành ba thời kì hình
thành và phát triển: thời kỳ thứ nhất vào năm 1075, thời kỳ thứ hai vào thời Trần - Hồ
- Lê, thời kỳ thứ ba vào thế kỷ XVII. Tƣ liệu địa danh còn cho thấy quá trình di trú ở
Quảng Bình còn diễn ra theo hƣớng từ miền xuôi lên miền ngƣợc, từ Quảng Bình vào
miền Nam.
b. Phản ánh các biến cố, sự kiện lịch sử đã xảy ra trên vùng đất chứa địa
danh
- Các địa danh cổ có yếu tố pù (chuyển âm thành rú theo tiếng Việt-Mƣờng):
pù Quan, pù Cây, pù Nha…; có yếu tố sách: sách Hung Đằng, sách Thanh Lãng…;
có yếu tố kẻ: kẻ Sạt, kẻ Xét, kẻ Trem, kẻ Pộôc… phản ánh vùng đất Quảng Bình (xƣa)
thuộc nhà nƣớc Văn Lang-Âu Lạc.
- Các địa danh hành chính cổ xƣa: Tây Quyển, Tỷ Ảnh, Vô Lao, Thọ Linh ;
các thành lũy cổ: lũy Hoàn Vương, thành Khu Túc, thành Nhà Ngo… phản ánh thời
Quảng Bình thuộc vƣơng quốc Chăm Pa, chứng kiến nhiều cuộc giao tranh với các
triều đại phong kiến Trung Quốc.

- Thời cận đại, hàng loạt các địa danh: cửa sông Nhật Lệ, hệ thống lũy Thầy,
đầm Võ Xá….là chứng tích của một thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ngày nay, vùng
chiến địa Trịnh-Nguyễn vẫn còn đầy ắp những địa danh liên quan đến cuộc chiến:
đồông Mồ Ma, đồông Mộc Sắt, độông Chòi, độông Cháy, cồn Hội, lòi Voi v.v.
- Nhiều địa danh phía tây Quảng Bình còn ghi dấu triều đình Hàm Nghi
kháng chiến chống Pháp: tôộng Pua Ngự, hang Quan Tán, Pạn Chuối, tộông Ải , eo
Lập Cập, rục Mòn, thác Dài, hón Róoc…
- Quảng Bình có hàng trăm địa danh phản ánh hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc chống Pháp và Mỹ: Cha Lo, Cổng Trời, đèo Mụ Dạ, ngầm Rinh,
sân bay Khe Gát, sân bay Đồng Hới (Bờ Hơ), hang Tám Cô, đường Gùi, đường Cơ
Giới, đường Kín, đường Hở…
c. Phản ánh những thay đổi về địa giới hành chính trên địa bàn
Quảng Bình, một trong những tỉnh có địa giới hành chính thay đổi nhiều nhất
trong suốt chiều dài lịch sử. Thời Nhà Mạc năm 1553, Quảng Bình có 236 xã, 7 sách,
2 nguồn, 4 trang; năm 1776 thống kê đƣợc 18 tổng, 200 xã, 28 thôn, 80 phƣờng, 11
trang; thời Đồng Khánh có 2 phủ, gồm 7 huyện, 24 tổng 324 xã, thôn, phƣờng, ấp,
giáp, trang; ở vùng đầu nguồn có 2 nguyên (nguồn), 7 sách.
Hiện ở Quảng Bình có 275 địa danh làng xã vẫn giữ nguyên tên gọi cũ nhƣ:
làng Xuân Hồi, Cỗ Liễu, Qui Hậu, Uẩn Áo, có 154 địa danh đặt mới hoàn toàn, có
395 tiểu khu, thôn, tổ, đội, chòm, xóm, khu phố, đường đƣợc đặt tên theo kiểu số hóa.
15

3.3.2.3. Sự phản ánh đặc điểm chủ thể văn hóa của địa danh ở Quảng Bình
a. Địa danh phản ánh tên người
Từ xa xƣa, con ngƣời đã muốn lấy tên ngƣời, tên dòng họ đặt tên cho các đối
tƣợng địa lý nơi cƣ trú thể hiện sự tri ân.
- Có 15 làng mang tên dòng họ khai khẩn: Trần Xá, Lê Xá, Đặng Xá, Mai Xá,
Võ Xá, Hoàng Xá…
- Có những địa danh, công trình đƣợc đặt tên của ngƣời kiến tạo: lũy Thầy, lũy
Ông Ninh, điền trang Hoàng Hối Khanh, đường Ông Trụ, đồng Quan Hoàng, giếng

Mụ Tộ, bến đò Mẹ Suốt, bến đò Cu Bu…
- Nhiều con đƣờng đƣợc đặt tên của các danh nhân, lãnh tụ, anh hùng dân tộc:
Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du…
- Địa danh dân tộc thiểu số ở Quảng Bình phản ánh văn hóa đặt tên ngƣời theo
truyền thuyết thần thoại, thần thánh hoặc những ngƣời khai phá làng bản: núi Cu
Lôông, eo Ôông Đùng, thác Pụt, hang Pua Son…
b. Phản ánh đặc điểm tâm lý văn hóa tộc người
- Khát vọng cuộc sống thanh bình, vùng đất trƣờng tồn, yên ổn với các yếu tố:
Bình Giang, An Náu, Trường Dục, Thọ Linh, Vĩnh Tuy…
- Mong muốn sự thịnh vƣợng: Phú Lộc, Phú Định, Di Lộc, Lộc Ninh, Hưng
Lộc, Tân Lợi, Hòa Ninh….
- Mong ƣớc sự trẻ trung, đổi mới với: Tân Tiến, Tân Hạ, Xuân Kiều, Xuân
Dục,Cảnh Dương, Dương Xá….
- Khát vọng về một quê hƣơng non nƣớc hữu tình, tƣơi đẹp: Mỹ Lộc, Mỹ Cảnh,
Tiên Lệ, Tiên Giới, Tú Loan, Vân Tiền…
- Ƣớc vọng vẽ đẹp trong tâm hồn: Nghĩa Ninh, Nhân Trạch, Chánh Hòa, Đức
Phổ, Cổ Hiền, Lương Ninh, Hóa Lương…
c. Phản ánh những tác động về mặt chính trị, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng
trong cách đặt địa danh
- Tục kiêng tên húy thời phong kiến: Tân Lang - Tiên Lang, Thủy Lan - Thủy
Liên, Phù Tông - Phù Chính.
- Các đƣờng phố Đồng Hới đặt lại tên: Huỳnh Côn (Rue Huynh Con) - Cô
Tám, Quảng Bình Quan (Rue Porte Quang Binh) - Mẹ Suốt, Thuộc Địa số 1 (Route
coloniale no 1) - Lý Thường Kiệt…
- Địa danh hành chính: làng Phù Lưu xƣa kia gồm 3 làng: Phù Lưu, Vân Tiền,
Tam Đa; làng Di Luân sát nhập làng Di Lộc thành Liên Di
- Các di sản hữu thể về tôn giáo tín ngƣỡng: cồn Chùa, giếng Đình, bến Chùa
Non, ruộng Nghè, lòi Miệu,….Riêng yếu tố “nhà thờ” Thiên chúa giáo hầu nhƣ
không lƣu dấu ấn vào địa danh, thể hiện thái độ chính trị.
d. Phản ánh đặc trưng văn hóa sản xuất

Phản ánh nghề trồng lúa: có 360 địa danh đồông, 83 địa danh rọong, 286 địa
danh xứ. Nhiều địa danh liên quan đến tƣới tiêu ruộng đồng: 72 hồ, 90 bàu, 76 hói, và
hơn 300 khe, mƣơng, kênh. Địa danh còn lƣu lại dấu hiệu các loại cây trồng trong sản
xuất nông nghiệp nhƣ: cồn Dưa, cồn Dâu, hung Mít, bản Cây Cà, bản Chuối, hồ
Muống, bàu Sen, nương Cau…
Yếu tố văn hóa sản xuất còn thể hiện qua các địa danh có liên quan đến làng
nghề. Các nghề thủ công đó đã tạo nên các địa danh nổi tiếng nhƣ các làng mộc Trúc
ly, Quảng Cư, Hòa Ninh, Mai Xá; các làng rèn Hoàng Giang, Phan Xá; làng đan Thọ
16

Đơn; làng giấy Tuy Mộc, Đại Phong, làng dệt Lũ Phong, Võ Xá, Khương Hà, làng đồ
gốm Mỹ Cương, làng muối Diêm Điền, Phú Lộc, làng làm nƣớc mắm Cảnh Dương,
Bảo Ninh…
Làng ở Quảng Bình đã vƣợt ra khỏi mô hình làng truyền thống của vùng Bắc
Bộ do tính chất, đặc điểm địa văn hóa của vùng đất, mang đặc trƣng văn hóa sản xuất
mở, không hoàn toàn dựa vào sản xuất nông nghiệp.
3.3.2.4. Đặc trƣng văn hóa thể hiện qua các yếu tố ngôn ngữ của địa danh ở
Quảng Bình
a. Địa danh phản ánh sự biến âm của tiếng địa phương Quảng Bình so với
tiếng Việt phổ thông (TPT)
(1). Trong địa danh tỉnh Quảng Bình, hiện tƣợng biến âm các phụ âm đầu của
âm tiết là rất phổ biến, có tính hệ thống theo sự tƣơng ứng đƣợc phân bố với sự xuất
hiện của các âm. Điển hình nhƣ:
- Âm /b-/ trong TPT tƣơng ứng /m-/: cồn Mùa Cua - Bồ Quân
- Âm /ş-/ trong TPT tƣơng ứng / t’/ hoặc /ʈ/: rọong Đất Théc - Đất Sét, cồn
Trèng - Sành .
- Âm /t-/ tƣơng ứng /ʈ-/: đầm Trít - Tịt
- Âm /t’/ tƣơng ứng /l-/: bàu Lủng - Thủng
- Âm /z-/ tƣơng ứng /d-/: rú Dẻ - Đẻ, đồng Dưới - Đưới…
(2). Hiện tƣợng biến âm ở phụ âm cuối:

- Yếu tố lách trong TPT đƣợc phát âm thành léc: rọong Léc - ruộng Lách, vùng
Hà Lẹc - Hà Lạch (lạch nƣớc).
- Yếu tố chếch tƣơng ứng chếc: độông Chếc - động Chếch.
Cách phát âm cổ này tiêu biểu cho phƣơng ngữ Trung. Ở vùng Bắc Bình Trị
Thiên (giữa hai con sông Bến Hải và sông Gianh) vẫn giữ [-ng, -k] sau nguyên âm
ngắn [-ing -ik], [-ênh, -êk], [-eng -ek].
(3). Sự biến âm ở các âm chính trong địa danh ở Quảng Bình thể hiện dấu vết
bảo lƣu của tiếng Việt cổ từ nguồn gốc ngôn ngữ Việt - Mƣờng.
Ví dụ: rọong Cơn Mưng - Cây Mưng, roọng Troong - Trong, suối Nước Moọc
- Mọc, chợ Côộc - Gốc, cầu Bôộng- Bộng, cồn Du -Dâu, hang Trù -Trầu, Hà Su -
Sâu, đôộng Chủ- Chổi, roọng Đàng Quan - Đường Quan, đôộng Rò - Rùa.
(4). Sự biến đổi thanh điệu cũng thể hiện khá phổ biến trong địa danh tỉnh
Quảng Bình:
- Thanh ngã nhập vào thanh nặng: roọng Cộ - ruộng Cũ.
- Thanh sắc nhập vào thanh nặng: roọng Miệu - ruộng Miếu.
- Thành huyền nhập vào thanh nặng: roọng Bợc Cụ Lại - Ruộng Bờ Cụ Lại
- Thanh hỏi nhập vào thanh nặng: yếu tố cựa tƣơng ứng cửa trong địa danh
đôồng Cựa Hói…
b. Địa danh phản ánh hiện tượng dùng từ ngữ tiếng địa phương Quảng
Bình tương ứng với từ đồng nghĩa trong TPT
- Yếu tố lớn đƣợc biểu thị bằng: nậy, đùng, cấy, đôộc, côộc, cồ, lôộng (nguồn
Côộc, đôộng Nậy, khe Cấy, lèn Ôông Đùng, cồn Cồ, rú Đôộc, làng Cấy Đôộc, đồng
Lôộng…)
- Yếu tố nhỏ, bé: roọng Mọn, đôồng Mén, đập Con, ao Chút…
- Các từ chỉ sự vật: cồn Nôốc, đồi Úp Lịp, dốc Vọt, rú Trôốc Tru…
- Các từ chỉ ngƣời: đèo Mụ Dạ, lèn Mệ Ngó, bến đò Cu Bu

×