Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.55 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU 2
Lý do chọn đề tài 2
lịch sử vấn đề nghiên cứu 3
Chương 1. Nội dung – giải pháp thực hiện 4
Quá trình triển khai thực hiện đề tài 4
Tạo cho học sinh tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết 4
Phân loại nhóm chữ viết và rèn luyện(Đây là biện pháp trọng tâm) 4
Chữ viết giáo viên phải ngay ngắn, rõ ràng 7
Kế hoạch bồi dưỡng 13
Đối với giáo viên 14
Chương 2- Cơ sở lý luận-giả thiết – quy trình 20
Cơ sở lý luận 20
KẾT LUẬN 24
Kết luận chung và kiến nghị 28
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng chữ viết của học sinh là vấn đề luôn được thầy cô giáo và phụ
huynh học sinh quan tâm, bởi từ trước người xưa đã nói: ”Nét chữ, nết người”.

1
Đặc biệt trong năm học này, năm học chuyển giao từ kiểu chữ cải cách sang
kiểu chữ truyền thống thì việc rèn chữ cho học sinh là đặc biệt quan trọng. Chính vì
vậy, tôi đã chọn đề tài: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN CHỮ
VIẾT CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC
Một trong những mục tiêu chương trình Tiếng Việt hiện nay, nhất là trong
chương trình Tiếng Việt thay sách lớp 1,2,3 đã đặc biệt chú trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc, viết, nghe, nói ). Do đó,
việc hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt là rất quan
trọng. Chính vì vậy, các em học sinh không chỉ nắm chắc tri thức tiếng Việt mà còn


biết sử dụng tiếng Việt khá thành thạo , góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất
lượng không chỉ ở môn Tiếng Việt mà còn cả cho các môn học khác.
So với kĩ năng nghe và đọc, kĩ năng nói và viết hiện nay còn rất nhiều điều phải
cần quan tâm nếu không nói là băn khoăn, lo lắng nhất là kĩ năng viết.
Vậy để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập viết và rèn chữ viết cho
học sinh người giáo viên cần có những biện pháp nào để thực hiện có hiệu quả cao
nhất ? Đây cũng là câu hỏi trong nhiều năm qua tổ 2+3 cùngbộ phận chuyên môn
trong nhà trường cùng giáo viên đã trao đổi và từng bước thực hiện.
Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc
và học viết. Biết đọc, biết viết, cả một thế giới mới mở ra trước mắt các em. Chương
trình môn Tiếng Việt thay sách ở bậc Tiểu học hiện nay, đã đặc biệt chú trọng nhiệm
vụ hình thành và phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe – nói- đọc – viết).
Trong đó đọc thông, viết thạo có mối quan hệ mật thiết với nhau, cũng như dạy Tập
viết, Học vần, Tập đọc không thể tách rời nhau.Viết đúng mẫu, rõ ràng, nhanh, đẹp,
học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn.Viết chữ
đẹp là một nghệ thuật, đòi hỏi sự chịu khó rèn luyện, đó là cả một quá trình không
phải ngày một, ngày hai. Ngoài ra luyện viết chữ đẹp còn góp phần quan trọng vào
việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và óc
thẩm mĩ. Như cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng có nói : “ Chữ viết cũng là một biểu
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp
phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như
đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”. Hơn nữa bậc Tiểu học là bậc học nền
tảng- góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người , những gì các

2
em được học tập, được rèn luyện ở Tiểu học sẽ là nền tảng vững chắc giúp các em
học tốt ở những bậc học tiếp theo.Chính vì vậy, rèn chữ viết cũng là một trong
những mục tiêu giáo dục các em phát triển một cách toàn diện trong chiến lược giáo
dục của nước ta hiện nay.
2 . Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Để viết đẹp, trước hết học sinh phải viết chữ đúng, rõ ràng, đúng tốc độ. Viết
đúng, đẹp tạo điều kiện học tốt các môn học vì viết là công cụ để ghi chép lại kiến
thức. Viết chậm, viết sai sẽ ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Tóm lại, chất lượng
các môn học đều có quan hệ chặt chẽ với chất lượng chữ viết.
Là giáo viên lớp bốn tôi thấy chữ viết của học sinh hay viết sai hoặc xấu ở các
trường hợp sau:
Chữ cái viết thường.
Chữ cái viết hoa.
Liên kết nét trong chữ ghi tiếng.
Sau đâu chúng tôi xin trình bày một kinh nghiệm nhỏ để hướng dẫn học sinh viết
chữ đẹp
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát
Phương pháp đánh giá
Phương pháp so sánh
Phương pháp trải nghiệm
4.Cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Nội dung – giải pháp thực hiện
Chương 2: Cơ sở lý luận-giả thiết – quy trình
Chương 1
Nội dung – giải pháp thực hiện
1.Quá trình triển khai thực hiện đề tài
Muốn cho học sinh viết đẹp, trước hết và chủ yếu, phải do việc dạy dỗ của các
thầy cô giáo theo một phương pháp khoa học cùng với sự kèm cặp của phụ huynh và

3
chính bản thân học sinh cũng phải nỗ lực học tập. để rèn chữ cho học sinh, tôi đã
thực hiện một số biện pháp sau:
2.Tạo cho học sinh tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết

Trước hết, tôi cho các em xem những bài viết chữ đẹp của anh chị lớp
trước(hoặc của chính học sinh trong lớp). Mặt khác kể cho các em nghe tấm gương
rèn chữ của Cao Bá Quát: học giỏi, hiểu rộng nhưng chữ lại xấu. Ông phải kiên trì
luyện viết ngày đêm mới đẹp được và trở thành nhà thư pháp nổi tiếng. Qua đó động
viên, khích lệ các em tinh thần học hỏi, quyết tâm rèn luyên của mình.
3.Phân loại nhóm chữ viết và rèn luyện(Đây là biện pháp trọng tâm)
Để học sinh viết chữ đúng kích thước tôi giúp các em nắm chắc:
- Chữ viết thường:Cao một đơn vị chữ, những chữ có nét khuyết(hoặc nét
thẳng) cao hai đơn vị chữ.
- Chữ viết hoa: Tất cả đều có độ cao hai đơn vị chữ.
- Đặc điểm giống nhau của hai loại chữ này là phần lớn các chữ đều có điểm
đặt bút, điểm dừng bút ở 1/3 đơn vị chữ.
Căn cứ vào cấu tạo của cách viết các chữ cái tôi chia ra các nhóm chữ và vào
quy trình viết chữ ghi tiếng tôi rèn cho cho học sinh như sau:
Chữ cái viết thường
Nhóm 1: Nét cong (gồm15 chữ cái).
A ă â c d đ e ê g o ô ơ q s x
- Hoc sinh viết xấu ở chỗ nét cong không đều, nét tròn viết quá nhỏ hoặc quá
to.
- Hướng dẫn: viết lại chữ o vì viết đúng chữ này học sinh dễ dàng viết đúng các
chữ còn lại trong nhóm. Khi hướng dẫn, tôi đặc biệt lưu ý: điểm dừng bút trùng với
điểm đặt bút, điểm này chính là điểm thêm dấu hỏi"," phía phải để tạo chữ "ơ" và
điểm liên kết để nối chữ khi viết nhanh.
Ví dụ:

4
Nhóm 2: Nét móc (gồm 9 chữ cái)
I n m p r t u ư v
- Học sinh viết chưa đẹp ở điểm uốn lượn hoặc sai ở điểm bắt đầu và điểm kết
thúc của chữ.

- Tôi đã sửa sai cho những học sinh đó lên ngay bài viết bằng bút đỏ.
Ví dụ:
Học sinh viết đẹp các chữc có nét móc sẽ thuận lợi để viết đẹp các chữ thuộc
nhóm 1, 3. b h k l y
Học sinh hay viết sai ở chỗ:
Không có điểm uốn lượn.
Phần lượn của nét không đúng kích thước.
Phần sổ thẳng gẫy nét.
Tôi đã hướng dẫn học sinh viết cho đúng bằng cách:
Gọi học sinh lên bảng viết.
Dùng phấn mầu sửa lại chỗ sai.
Nhấn mạnh điểm đặt bút, điểm dừng bút ở 1/3 đơn vị chữ.
Ví dụ:
Với chữ cái viết thường tôi sửa theo từng loại nét, sửa dứt điểm xong loại này
mới sang loại khác.
Chữ cái viết hoa.
ít sai hơn chữ viết thường do cấu tạo nét dễ viết, tuy nhiên các em hay sai ở
điểm uốn lượn như chữ M N S
Cách hướng dẫn: Giảng lại cấu tạo, quy trình viết chữ. Nếu học sinh vẫn chưa
sửa được tôi dùng bút đỏ viết lại cho đúng.
Liên kết nét trong chữ ghi tiếng:

5
- Với học sinh lớp 4 để viết đúng tốc độ, tiến tới viết nhanh, viết đẹp cần hướng
dẫn quy trình viết chữ liền mạch: viết các con chữ theo thứ tự từ trái sang phải, sau
đó mới viết dấu phụ và dấu thanh. Để viết liền mạch thì việc liên kết nét là hết sức
quan trọng. Các em phải có kỹ năng lia bút, rê bút một cách thành thạo.
Khi liên kết nét, học sinh viết chưa đẹp trong các trường hợp sau:
Hay viết sit nhau
-Nối các con chữ viết thường khi không có nét liên kết.

Chữ viết thường đứng sau chữ viết hoa
Hướng dẫn:
Cần phải tạo nét phụ, sử dụng kỹ năng lia bút, rê bút để viết.
Ví dụ: Nét phụ từ o đến a
Nét phụ từ b đến a
Cả hai trường hợp này khoảng cách từ con chữ trước đến con chữ sau là 1/2 con chữ
o tưởng tượng.
4.Chữ viết giáo viên phải ngay ngắn, rõ ràng
Song song việc rèn chữ cho học sinh tôi thấy chữ viết của giáo viên qua lời
nhận xét có vai trò quan trọng. Ngoài việc khuyến khích, động viên:”Chữ viết có tiến
bộ. Con hãy cố lên”, dòng chữ đó còn thể hiện sự chuẩn mực về chữ viết của cô. Vì
vậy, bản thân tôi cũng coi việc luyện chữ của giáo viên là rất cần thiết.
Thực trạng chữ viết của học sinh hiện nay
So với kĩ năng nghe và đọc, kĩ năng nói và viết hiện nay còn rất nhiều điều phải
cần quan tâm nếu không nói là băn khoăn, lo lắng nhất là kĩ năng viết. Lâu nay,
nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung
và phương pháp dạy Tập viết. Tuy vậy, hiện nay học sinh vẫn còn viết sai nhiều, viết
xấu và chậm. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng Tiếng Việt nói
riêng, học các môn khoa học khác nói chung.

6
Đặc biệt đối với học sinh trường TH Nguyễn Văn Trỗi, nơi mà tập trung phần
đông là con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, chỗ ở không ổn định, trình độ
văn hóa của cha mẹ thấp, thì thực trạng về chữ viết lại càng nhiều hạn chế.
Qua kiểm tra , chúng tôi có số liệu khảo sát như sau : Tỉ lệ học sinh viết chữ
rõ ràng, đủ nét , thẳng hàng:
Đạt 60% - 70% ở các lớp được đánh giá tốt về phong trào rèn chữ giữ vở.
Đạt 50% - 60% ở các lớp được đánh giá khá về phong trào rèn chữ giữ vở.
Còn lại mới xấp xỉ 30% - 40%.
Cá biệt , có học sinh viết rồi không đọc nổi chữ mình, nói gì đến giáo viên

đọc để chấm, chữa bài.
Qua đánh giá thực trạng chữ viết của học sinh chúng tôi có nhận định sau :
Ưu điểm
- Nhìn chung các em học sinh đã nắm được quy trình viết, biết các viết chữ
ghi âm tiếng Việt ngay từ năm học lớp 1.
- Về cơ bản , các em đã viết đúng mẫu các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng và
đảm bảo đúng cỡ chữ quy định.
- Phần lớn học sinh nắm khá chắc luật chính tả và viết đúng chính tả.
- Khi viết, nhiều em đã thể hiện được tính thẩm mỹ , biết cách trình bày một
bài viết theo yêu cầu của thể lọai ( văn xuôi, thơ : lục bát, bốn chữ ( năm chữ )
,…. ).
- Tốc độ viết cơ bản đã đạt được và vượt mức yêu cầu quy định ở từng giai
đọan của từng khối lớp.
Nhược điểm
- Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để ghi
âm , vần, tiếng ; không đúng cỡ chữ ( độ cao, rộng, khỏang cách giữa các con
chữ và giữa các chữ thường quá hẹp hoặc quá rộng ); ………
Ví dụ : Học sinh thường viết sai mẫu chữ, nhất là những chữ dễ lẫn như : n
với u ; ô với â ; s với r ; tr với th ; k với h ; ……………
- Dấu thanh không ghi đúng vị trí .
Ví dụ : phựơng, ngòai, qủa,………
- Một số học sinh chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai chính tả.

7
- Phần lớn học sinh viết chưa đẹp ( chưa có tính thẩm mỹ) ; các nét chữ, con
chữ chưa đều ; sự kết hợp các con chữ chưa hài hòa , mềm mại, chữ viết
nghiêng ngả( lúc bên phải, lúc bên trái ) một cách tùy tiện.
- Một số học sinh chưa biết các trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính khoa
học vừa thể hiện tính thẩm mỹ ; chưa biết trình bày một bài văn xuôi khác với
bài văn vần, thơ lục bát khác với thơ tự do …

5. Nguyên nhân
Qua tìm hiểu và phân tích, theo chúng tôi : Những tồn tại nói trên trong
chữ viết học sinh hiện nay là do những nguyên nhân sau:
+ Trước hết là do nhận thức của giáo viên và học sinh, nhận thức của các bậc
cha mẹ học sinh chưa thấy hết được vị trí , tầm quan trọng và sự tác động qua lại
của các môn học , thường coi trọng môn Tóan và Tiếng Việt , còn xem nhẹ các
môn còn lại. Ngay cả trong môn Tiếng Việt cũng chưa thật sự coi trọng các phâm
môn : Tập viết , Chính tả , TN-NP , …………., vì thế , chưa tạo được hứng thú
khi dạy và học các phân môn này , thay vào đó là sự nhàm chán, đơn điệu , cẩu thả
và tùy tiện.
+ Trong giờ Tập viết , Chính tả , giáo viên chưa hướng dẫn một các cơ bản , tỉ
mỉ về việc viết đúng chữ mẫu ( mẫu chữ để ghi âm , vần , tiếng và dấu thanh ) ;
chữ viết chưa theo đúng quy trình ( từ nét đầu tiên đến khi kết thúc chữ ghi tiếng
và kết hợp các chữ ghi tiếng trong một từ, ngữ ) ; chưa kết hợp nhuần nhuyễn việc
dạy nghĩa của từ với dạy chữ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày theo từng
lọai văn bản ( thơ , văn xuôi ).
+ Học sinh còn mắc lỗi chính tả nhiều vì :
Do phát âm không chuẩn, các tiếng phát âm không phân biệt ( phụ âm đầu ,
vần , thanh )
Do quên mặt chữ ghi âm , ghi tiếng , từ.
Do không nắm được nghĩa của từ.
Do nghe – hiểu còn hạn chế.
Do chưa nắm thật chắc luật chính tả nên không biết khi nào viết r , khi nào
viết d , khi nào viết gi ; khi nào viết g , khi nào viết gh ; khi nào viết ng , khi nào viết
ngh ; khi nào viết c , khi nào viết k , khi nào viết q ….
Chưa nắm được luật viết hoa và cách viết hoa .

8
Một nguyên nhân nữa đó là : để hòan thành khối lượng kiến thức bài học, bài
tập ngày càng nhiều , các em phải tăng tốc độ viết trong giờ học , giờ làm bài nên

chữ viết thường không được nắn nót , không đúng qua định , kích cỡ , khỏang cách
giữa các từ không đếu. Hiện tượng viết sai nét , sai chữ , hở nét , thừa nét, thiếu nét ,
thiếu dấu , hoặc dấu đánh không đúng vị trí thường xuyên xảy ra.
Việc hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên trong những giờ tập viết , Chính tả
đôi lúc cũng chưa đến nơi đến chốn , chưa thật sự nghiêm khắc với học sinh nên khi
viết , các em ngồi chưa đúng tư thế ( nghiêng bên phải, nghiêng bên trái ) , cách để
vở, để tay , cách cầm bút chưa khoa học , hợp lí dẫn đến việc viết chữ cẩu thả , tùy
tiện . Thực tế , cho thấy càng lên lớp trên giáo viên càng ít chú ý rèn chữ viết cho
học sinh nên chữ viết của nhiếu em càng xấu, càng cẩu thả, tùy tiện hơn
Qua kiểm tra, đánh giá kết quả “ Vở sạch – Chữ đẹp “ đầu năm học ( cuối
tháng 9 năm học 2008- 2009 ), có số liệu cụ thể như sau :
Khối
lớp
Loại A Loại B Loại C Ghi chú
SL % SL % SL %
Khối 1 44 38,9 41 36,3 28 24,8
Khối 2 26 29,5 36 41,0 26 29,5
Khối 3 30 30,0 50 50,0 20 20,0
Khối 4 21 22,3 50 53,2 23 24,5
Khối 5 17 17,7 49 51,0 30 31,3
TT 138 27,9 230 46,5 127 25,6
Sau thời gian nghỉ hè, học sinh viết xấu hơn nhiều- tỉ lệ học sinh xếp loại C về “
Vở sạch – Chữ đẹp” khá cao. Học sinh khối Một được giáo viên có thời gian đầu tư
hơn trong giờ Tập viết và Học vần nên tỉ lệ học sinh viết chữ xếp loại A cao hơn các
khối khác.
Qua kiểm tra trực tiếp trên vở viết của các em hàng tháng , chúng tôi nhận
thấy :
- Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để ghi
âm , vần, tiếng ; không đúng cỡ chữ ( độ cao, rộng, khoảng cách giữa các con chữ và
giữa các chữ thường quá hẹp hoặc quá rộng ); …

Ví dụ : HoÏc sinh thường viết sai mẫu chữ, nhất là những chữ dễ lẫn như : n
với u ; ô với â ; s với r ; tr với th ; k với h ;…
- Dấu thanh không ghi đúng vị trí .

9
Ví dụ : phựơng, ngòai, qủa,…
- Một số học sinh chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai chính tả.
Ví dụ : nhầm lẫn khi sử dụng g với gh; ng với ngh; d với gi với r; c với k; ch
với tr; s với x; giữa thanh hỏi và thanh ngã;…
- Phần lớn học sinh viết chưa đẹp ( chưa có tính thẩm mỹ) ; các nét chữ, con chữ
chưa đều ; sự kết hợp các con chữ chưa hài hòa , mềm mại, chữ viết nghiêng ngả( lúc
bên phải, lúc bên trái ) một cách tùy tiện, học sinh lớp 3,4 & 5 thường viết nghiêng
về bên trái hoặc cong vẹo các nét khuyết trên của chữ h , chữ l và chữ k ; hay viết
lẫn chữ thường với chữ in : như s với s , x với x…
- Đa số HS viết chữ hoa chưa đúng mẫu, chưa đẹp, còn lẫn giữa chữ hoa thường
với chữ hoa in như : B – B ; T -
- Một số học sinh chưa biết các trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính khoa học
vừa thể hiện tính thẩm mỹ ; chưa biết trình bày một bài văn xuôi khác với bài văn
vần, thơ lục bát khác với thơ tự do, …
Nguyên nhân
Qua tìm hiểu và phân tích, theo tôi : Những tồn tại nói trên trong chữ viết học
sinh hiện nay là do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu
sau:
Trước hết là do nhận thức của giáo viên và học sinh, nhận thức của các bậc cha
mẹ học sinh chưa thấy hết được vị trí , tầm quan trọng và sự tác động qua lại của
các môn học , thường coi trọng môn Toán và Tiếng Việt , còn xem nhẹ các môn
còn lại. Ngay cả trong môn Tiếng Việt cũng chưa thật sự coi trọng các phân môn :
Tập viết , Chính tả. Vì thế, chưa tạo được hứng thú khi dạy và học các phân môn
này , thay vào đó là sự nhàm chán, đơn điệu , cẩu thả và tùy tiện.
Trong giờ Tập viết , Chính tả , giáo viên chưa hướng dẫn một các cơ bản , tỉ mỉ

về việc viết đúng chữ mẫu ( mẫu chữ để ghi âm , vần , tiếng và dấu thanh ) ; chữ
viết chưa theo đúng quy trình ( từ nét đầu tiên đến khi kết thúc chữ ghi tiếng và kết
hợp các chữ ghi tiếng trong một từ, ngữ ) ; chưa kết hợp nhuần nhuyễn việc dạy
nghĩa của từ với dạy chữ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày theo từng lọai
văn bản ( thơ , văn xuôi ).

10
Kế hoạch rèn chữ viết và phong trào “ Vở sạch – chữ đẹp “ những năm trước
đây chưa được quan tâm đầu tư đúng mức( kể cả BGH nhà trường – GV – phụ
huynh HS và HS ).
Mẫu chữ viết trước đây chưa đẹp ( đặc biệt là mẫu chữ viết hoa cải cách của
chương trình chưa thay sách còn dư âm lại, GV vẫn viết bảng theo theo thói quen).
Việc tự rèn chữ viết của GV còn hạn chế, nhiều GV viết bảng chưa đẹp, chưa
đúng mẫu chữ quy định.
Học sinh còn mắc lỗi chính tả nhiều vì :
Do phát âm không chuẩn, các tiếng phát âm không phân biệt ( phụ âm đầu , vần
, thanh )
Do quên mặt chữ ghi âm , ghi tiếng , từ.
Do không nắm được nghĩa của từ.
Do nghe – hiểu còn hạn chế.
Do chưa nắm thật chắc luật chính tả nên không biết khi nào viết r , khi nào viết
d , khi nào viết gi ; khi nào viết g , khi nào viết gh ; khi nào viết ng , khi nào viết ngh
; khi nào viết c , khi nào viết k , khi nào viết q, ….
Chưa nắm được luật viết hoa và cách viết hoa .
Một nguyên nhân nữa đó là : để hoàn thành khối lượng kiến thức bài học, bài
tập ngày càng nhiều , các em phải tăng tốc độ viết trong giờ học , giờ làm bài nên
chữ viết thường không được nắn nót , không đúng qua định , kích cỡ , khoảng cách
giữa các từ không đếu. Hiện tượng viết sai nét , sai chữ , hở nét , thừa nét, thiếu nét ,
thiếu dấu , hoặc dấu đánh không đúng vị trí thường xuyên xảy ra.
Việc hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên trong những giờ Tập viết , Chính tả

đôi lúc cũng chưa đến nơi đến chốn , chưa thật sự nghiêm khắc với học sinh nên khi
viết , các em ngồi chưa đúng tư thế ( nghiêng bên phải, nghiêng bên trái ) , cách để
vở, để tay , cách cầm bút chưa khoa học , hợp lí dẫn đến việc viết chữ cẩu thả , tùy
tiện . Thực tế , cho thấy càng lên lớp trên giáo viên càng ít chú ý rèn chữ viết cho
học sinh nên chữ viết của nhiều em càng xấu, càng cẩu thả, tùy tiện hơn.
Bản thân chúng tôi là một Hiệu phó phụ trách công tác chuyên môn nhà
trường.Tôi thấy mình cần phải có trách nhiệm cùng với giáo viên tìm ra những biện
pháp rèn chữ viết cho học sinh. Đây cũng là một trong những mục tiêu phấn đấu của

11
nhà trường ở những năm học qua. Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả rèn chữ viết
và phong trào Viết chữ đẹp cho học sinh?
Đây là câu hỏi trong nhiều năm qua mà bộ phận chuyên môn trong nhà trường,
cùng giáo viên đã trao đổi để tìm ra những giải pháp, từng bước thực hiện và có hiệu
quảù khá khả quan.
5- Giải pháp đã sử dụng
Để khắc phục những tồn tại đã được nêu trên đồng thời nâng cao chất lượng
dạy học phân môn Tập viết, Chính tả cũng như công tác rèn chữ giữ vở đối với học
sinh, cần có một số biện pháp như sau :
Nhà trường
- Nhà trường phải quán triệt và nâng cao nhận thức cho giáo viên , học sinh và
cha mẹ học sinh về tầm quan trọng của việc dạy và học phân môn Tập viết , Chính tả
của môn Tiếng Việt( thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn toàn trường , Hội
nghị PHHS đầu năm học).
- Phải phát động phong trào “ Vở sạch- Chữ đẹp” ( đối với tất cả các khối lớp),
ghi vở luân hoán ( đối với khối 2,3,4 &5) và đi vào nề nếp ngay từ đầu năm học. Có
biện pháp theo dõi, đánh giá thường xuyên( có bảng theo dõi kết quả chấm Vở sạch-
Chữ đẹp hàng tháng, kết hợp chuyên môn kiểm tra trên vở của học sinh). Xem kết
quả VS-CĐ như một mức phấn đấu trong từng tháng.
- Có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu viết chữ đẹp, đầu tư đúng

mức và bồi dưỡng thường xuyên.
- Phô tô ( phóng to ) mẫu chữ viết hoa các chữ cái và treo trước tường từng lớp
học để GV - học sinh tiện quan sát và viết cho đúng mẫu.
- Chọn giáo viên viết chuẩn mẫu chữ dạy lớp Một ( nếu là GV viết chữ đẹp càng
tốt – vì HS tiểu học thường bắt chước theo thầy cô giáo).
- Phát động phong trào luyện chữ viết đối với tất cả giáo viên, yêu cầu viết đúng
mẫu chữ sau đó hướng tới luyện viết chữ đẹp.
- Tổ chức Hội thi “ Viết chữ đẹp” cấp trường hàng năm đối với GV & HS. Tổ
chức thật nghiêm túc, đánh giá chính xác, có khen thưởng thích đáng để khuyến
khích động viên kịp thời cũng như tạo phong trào thi đua sôi nổi trong nhà trường.
- Tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức sinh họat
tổ khối thảo luận về việc tích cực cải tiến, đổi mới phương pháp dạy và học gây hứng

12
thú cho học sinh hăng say tập viết và có ý thức viết đúng viết đẹp để không ngừng
nâng cao hiệu quả giờ dạy phân môn này, tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ
học sinh viết đúng , viết đẹp từ khi mới bắt đầu tập viết ( lớp 1 ) ; bồi dưỡng cho học
sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong việc rèn chữ viết như : lòng say mê , ý
chí quyết tâm , chính xác , có óc thẩm mỹ , lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm
cao… , tạo điều kiện nâng cao chất lượng các môn học khác.
- Chọn giáo viên viết chữ đẹp và có kinh nghiệm để bồi dưỡng những HS có
năng khiếu viết chữ đẹp.
Kế hoạch bồi dưỡng
+ Sau khi KSCL đầu năm, GVCN chọn những HS viết chữ đẹp, lập danh sách
nộp cho bộ phận chuyên môn để lên kế hoạch bồi dưỡng.
+ Hình thức bồi dưỡng tập chung ( 2 – 3 buổi / tuần ).
+ Nội dung bồi dưỡng:
Trước hết cho HS trình bày trên vở ô li chữ viết theo đúng mẫu quy định ( Viết
đúng mẫu chữ theo Quyết định số 31/ 2002/ QĐ – BGD & ĐT ngày 14/6/2002 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo). Sau đó có thể cho HS viết chữ trên giấy kẻ

ngang để tập dần cho HS tự ước lượng độ cao của từng con chữ.
Luyện viết chữ đẹp theo 2 kiểu chữ ( chữ đứng nét đều, chữ nghiêng nét thanh
đậm.Lúc đầu viết chậm sau đó yêu cầu tăng tốc độ viết nhanh theo quy định của từng
khối lớp.
Luyện viết hoa các chữ cái : Trước hết hướng dẫn HS viết đúng mẫu chữ cho
thạo. Từ mẫu chữ hoa quy định hướng dẫn HS viết sáng tạo một số nét chữ sao cho
hợp lý, làm cho chữ hoa thêm mềm mại, uốn lượn, tạo vẻ đẹp cho chữ viết.
Để khắc phục những tồn tại đã được nêu trên và nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Tập viết và duy trì phong trào rèn chữ giữ vở đối với học sinh, nhà trường
đã có một số biện pháp như sau :
- Nhà trường đã quán triệt , nâng cao nhận thức cho giáo viên , học sinh và cha
mẹ học sinh về phân môn Tập viết , Chính tả của môn Tiếng Việt .
- Tham dự đầy đủ các lớp tập huấn, chuyên đề, hội thảo về phương pháp dạy và
học phân môn Tập viết do Sở và Phòng tổ chức . Nhà trường tổ chức bồi dưỡng cho
giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức sinh họat tổ khối thảo luận về việc tích
cực cải tiến, đổi mới phương pháp dạy và học gây hứng thú cho học sinh hăng say

13
tập viết và có ý thức viết đúng viết đẹp để không ngừng nâng cao hiệu quả giờ dạy
phân môn này, tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ học sinh viết đúng , viết
đẹp từ khi mới bắt đầu tập viết ( lớp 1 ) ; bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và
thái độ cần thiết trong việc rèn chữ viết như : lòng say mê , ý chí quyết tâm , chính
xác , có óc thẩm mỹ , lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm cao… , tạo điều kiện
nâng cao chất lượng các môn học khác.
- Muốn học sinh viết đúng và đẹp, trước hết và chủ yếu phải có sự dạy dỗ công
phu của các thầy cô giáo theo một phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được
đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên , sâu sát của các bậc phụ huynh , sư nổ
lực , kiên trì của mỗi học sinh . Do vậy, đối với giáo viên , nhà trường yêu cầu phải
không ngừng tự rèn luyện để viết chữ đúng và đẹp. Để làm gương cho học sinh, giáo
viên cần phải viết chữ mẫu mực khi chấm và ghi lời nhận xét vào bài làm, bài kiểm

tra của học sinh , khi ghi sổ liên lạc cũng như khi viết bảng ……
- Nhà trường kiểm tra thường xuyên. định kì hàng tháng việc chấm VSCĐ của
giáo viên, việc rèn chữ viết cho học sinh của giáo viên, các biện pháp các giáo viên
đã sử dụng để nâng cao việc rèn chữ cho học sinh. Ngòai ra, nhà trường còn tổ chức
thi VSCĐ, thi Viết chữ đẹp 2 tháng / 1 lần để tạo phong trào thi đua sôi nổi trong nhà
trường.
- Các học sinh cần có các đồ dùng học tập môn Tập viết đúng theo quy định :
Vở : Cần có vở tập viết in sẵn, vở kẻ ôli rõ ràng, giấy tốt, không lem( nhòe).
Học sinh phải bao bìa , dán nhãn vở.
Bút : giai đọan đầu học kì I sử dụng bút chì mềm, tốt, không nên gọt nhọn quá
dễ gãy hoặc tày quá khó viết, chiều dài của bút không dưới 10 cm ( vì nếu quá ngắn ,
khi viết sẽ lọt bút vào lòng bàn tay hoặc tư thế cầm bút sẽ sai lệch, khó cầm ) Sau
giai đọan trên nên cho học sinh sử dụng bút mực.
Thước kẻ : dùng thước vuông chiều dài 20 cm, không nên dùng thước bẹt khó
cầm.
Bảng con : nên dùng cỡ 20x30 cm , mặt bảng có vạch rõ các ô vuông kích
thước 3x3 cm( nếu không có giáo viên dùng bút xóa kẻ thêm cho học sinh ). Không
nên dùng bảng nỉ , bút dạ cho các học sinh lớp 1 vì trơn , to, không phù hợp tay trẻ ,
khó điều chỉnh nét chữ cho đều.
Phấn viết : Dùng phấn mềm trắng, tốt nhất nên sử dụng phấn không bụi.

14
- Xây dựng tư thế ngồi đúng cách cho học sinh :
Ngồi ngay ngắn , thẳng cột sống , vai ngang bằng, ngực cách mép bàn ít nhất 1
cm ( tránh tì ngực vào bàn, dễ mắc bệnh tim phổi ).
Chân gập thành góc vuông , đầu hơi cúi nghiêng ; mắt cách vở 20-25 cm.
Tay phải cầm bút, tay trái giữ chặt mép vỡ.
- Rèn cách cầm bút, để vở :
Hiện nay, nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh cách
cầm bút để vở nên nhiều em cầm bút sai lệch, rất đáng lo ngại.

Giáo viên hướng dẫn tư thế cầm bút vừa chặt để không tuột bút, không co
thắt cơ tay. Cùng với ngón cái , ngón trỏ , ngón giữa để cầm bút , 2 ngón còn lại và
phần dưới của bàn tay dùng làm chỗ tựa khi viết . Ngón trỏ để cách đầu quản bút 1
cm ( khoảng một đốt ngón tay ).
Khi viết, ngòi bút úp xuống, không quay nghiêng ngòi bút, khi viết sẽ cạo
giấy, không trơn. Vở nên để hơi chếch về bên trái từ 15 đến 20 độ so với mép bàn
( cần cho học sinh tự định hướng và ước lượng ngay từ nhỏ ) ; đưa trang giấy lên cao
hay xuống ăn khớp với quá trình viết.
Tóm lại, trong các giờ Tập viết, Chính tả giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân
thủ nghiêm ngặt và thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồiviết , cách để tay ,
cầm bút …………; bàn viết đảm bảo đủ ánh sáng và thuận chiều ; cầm bút xuôi theo
chiều ngồi ; bút nghiêng nghiêng so với mặt giấy khỏang 45
0
. Khi viết , yêu cầu học
sinh đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, không ấn mạnh ngòi bút vào mặt
giấy …
- Giúp giáo viên nắm chắc các khái niệm, thuật ngữ để thống nhất trong việc dạy
tập viết.
Ví dụ : nét cong ( kín , hở ) ; nét thẳng ( đứng, nghiêng ) ; nét khuyết ( trên,
dưới ) ; nét hất ; nét thắt ; ………viết liền nét ; lia bút ; ………….
- Mục đích quan trọng của việc dạy tập viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy
định , có kĩ năng viết nhanh ( đạt và vượt tốc độ yêu cầu đề ra ở mỗi lớp ) và biết
trình bày một bài viết sạch đẹp ( có tính thẩm mỹ ) . Do vậy , khi dạy và luyện chữ
viết cho học sinh , nhà trường đã yêu cầu giáo viên chú trọng phương pháp làm mẫu,
thực hành luyện tập , giúp học sinh hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ. Theo tinh
thần thay sách lớp 1,2,3 : đổi mới phương pháp giảng dạy , tiết Tập viết , Chính tả

15
cần tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức ( tự quan sát , nhận xét ,
ghi nhớ ) tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự

hướng dẫn của giáo viên.
- Trong quá trình phân tích giáo viên cần cho học sinh nắm chắc và so sánh các
độ cao của các con chữ, khỏang cách giữa các chữ, cách viết các con chữ cần liền nét
hay phải lia bút………… Các nhóm độ cao của các con chữ được phân ra như sau
Độ cao 1 ô li : a, ă , â , c , n, m, o, ô , ơ , e , ê , u , ư ,…………
Độ cao 2 ô li rưỡi : h, k , l , b , ………….
Độ thấp 2 ô li rưỡi : y , g ,
Độ cao 1 ô li rưỡi : t, p , q , …….
Độ cao 1 ô li một phần tư : r, s , …
Độ cao 3 ô li : các chữ hoa.
- Trong quá trình viết mẫu giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh quan sát
và rút ra nhận xét : quy trình viết , đặt bút ở đâu , thực hiện các nét nào , …Khi viết
chữ cần cho học sinh nhận thức được cách cầm bút khi nào viết liền nét , khi nào cần
lia bút .
- Trong quá trình rèn luyện chữ viết , giáo viên cần phân lọai chữ viết thành các
nhóm để rèn dứt điểm theo những trọng tâm mà giáo viên lựa chọn.
Ví dụ :
Kiểu chữ thường : nhóm rèn luyện trọng tâm là nét móc : u , ư , n , m……nét
khuyết : l , b . k , h , y…
Kiểu chữ hoa : chia nhóm theo tương tự theo cấu tạo nét giống nhau.
Đối với giáo viên :
- Muốn học sinh viết đúng và đẹp, trước hết và chủ yếu phải có sự dạy dỗ công
phu của các thầy cô giáo theo một phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được
đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên , sâu sát của các bậc phụ huynh , sự nổ
lực , kiên trì của mỗi học sinh . Do vậy, đối với giáo viên , nhà trường yêu cầu phải
không ngừng tự rèn luyện để viết chữ đúng và đẹp . Để làm gương cho học sinh,
giáo viên cần phải viết chữ mẫu mực khi chấm và ghi lời nhận xét vào bài làm, bài
kiểm tra của học sinh , khi ghi sổ liên lạc đặc biệt là khi viết bảng.
- Nhận thức đúng đắn về việc rèn chữ viết cho HS, giúp học sinh thấy được sự
cần thiết phải rèn chữ viết.


16
- Xây dựng kế hoạch rèn chữ viết cho HS ngay từ đầu năm học, nhiệt tình, chịu
khó hướng dẫn học sinh, thường xuyên kiểm tra tập vở học hàng ngày, vở rèn chữ ở
nhà 1 lần/ tuần, có sửa lỗi – nhận xét- đánh giá cụ thể, rõ ràng ( chú ý sửa các lỗi mà
HS thường mắc phổ biến- yêu cầu HS sửa lại các lỗi đó cho đến khi nào viết đúng
mới thôi , phải khuyến khích tuyên dương kịp thời khi HS có sự tiến bộ dù là rất nhỏ,
tránh yêu cầu HS luyện viết với nội dung bài quá dài khiến HS mỏi tay dẫn đến viết
ẩu và chán rèn viết).
- Quy định tập vở, cách trình bày từng môn học ngay từ đầu năm. Sắp xếp những
HS viết chữ đẹp ngồi xen lẫn với những HS viết chưa đẹp để các em dễ học tập và
kèm cặp lẫn nhau.
- Hướng dẫn HS luyện viết ở nhà theo từng mức độ: Viết theo đúng mẫu chữ quy
định với tốc độ chậm cho quen ( viết rõ ràng, đều nét) sau đó mới viết nhanh dần rồi
tiến tới luyện viết đẹp( viết nét thanh, nét đậm theo mẫu chữ đứng, mẫu chữ nghiêng,
viết chữ hoa có sáng tạo).
- Đưa kết quả phong trào rèn chữ viết và thực hiện ghi vở luân hoán vào một
trong những nội dung sinh hoạt cuối tuần: Cuối tuần tổng kết xem tổ nào có nhiều
bạn viết chữ đẹp được ghi vào vở luân hoán, nhiều bạn được điểm 10 về bài Tập viết
- Chính tả- Tập làm văn, để khuyến khích tuyên dương, tạo hứng thú cho HS, có thể
phối hợp với Tổng phụ trách Đội để tuyên dương dưới cờ nhằm nhân rộng phong
trào thi đua này và vận động hội phụ huynh của lớp gây quỹ khen thưởng cho HS.
Đưa một số hoạt động vui chơi theo tính thi đua về việc rèn chữ, chẳng hạn :
+ Mỗi tổ cử 3 bạn lên bảng thi viết chữ hoa, xem tổ nào viết đúng, nhanh, đẹp
hoặc trình bày một khổ thơ …
- GV phải chú ý rèn ngay từ lớp Một, khi các em bắt đầu học vần kết hợp tập viết
trên bảng con và trên vở những âm vần đã học, để tạo nề nếp ngay từ đầu. Bởi vì,
thực tế cho thấy : Nếu các em viết đúng mẫu chữ thường ở lớp Một – mẫu chữ hoa ở
lớp Hai thì lên lớp Ba, Bốn & Năm các em thường viết đúng, viết đẹp hơn.
- Xây dựng tư thế ngồi viết đúng cách cho học sinh :

+Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào bàn.
+ Hai chân để song song, thoải mái , đầu hơi cúi ; mắt cách vở 25- 30 cm.
+ Tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ.
- Rèn cách cầm bút, để vở :

17
Hiện nay, nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh cách
cầm bút để vở nên nhiều em cầm bút sai lệch, rất đáng lo ngại.
Giáo viên hướng dẫn tư thế cầm bút vừa chặt để không tuột bút, không co
thắt cơ tay. Cầm bút bằng 3 ngón tay : ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa , 2 ngón còn
lại và phần dưới của bàn tay dùng làm chỗ tựa khi viết . Ngón trỏ để cách đầu quản
bút 1 cm ( khoảng một đốt ngón tay ).
Khi viết dùng 3 ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về
phía bên phải; cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái. Không
cầm bút tay trái.
Lúc viết, ngòi bút úp xuống, không quay nghiêng ngòi bút, khi viết sẽ cạo
giấy, không trơn. Vở nên để hơi chếch về bên trái từ 15 đến 20 độ so với mép bàn
( cần cho học sinh tự định hướng và ước lượng ngay từ nhỏ ) ; đưa trang giấy lên cao
hay xuống ăn khớp với quá trình viết.
Tóm lại, trong các giờ Tập viết, Chính tả giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân
thủ nghiêm ngặt và thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết , cách để tay ,
cầm bút …; bàn viết đảm bảo đủ ánh sáng và thuận chiều ; cầm bút xuôi theo chiều
ngồi ; bút nghiêng nghiêng so với mặt giấy khoảng 45
0
. Khi viết , yêu cầu học sinh
đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, không ấn mạnh ngòi bút vào mặt giấy

GV phải nắm chắc các khái niệm, thuật ngữ để thống nhất trong việc dạy tập viết.
Ví dụ : nét cong ( kín , hở ) ; nét thẳng ( đứng, nghiêng ) ; nét khuyết ( trên,
dưới ) ; nét hất ; nét thắt ; ………viết liền nét ; lia bút ; ………….

- Mục đích quan trọng của việc dạy tập viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy
định , có kĩ năng viết nhanh ( đạt và vượt tốc độ yêu cầu đề ra ở mỗi lớp ) và biết
trình bày một bài viết sạch đẹp ( có tính thẩm mỹ ) . Do vậy , khi dạy và luyện chữ
viết cho học sinh , yêu cầu giáo viên chú trọng phương pháp làm mẫu, thực hành
luyện tập , giúp học sinh hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ. Theo tinh thần thay
sách toàn cấp : đổi mới phương pháp giảng dạy , tiết Tập viết , Chính tả cần tạo điều
kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức ( tự quan sát , nhận xét , ghi nhớ ) tự
giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của
giáo viên.

18
- Trong quá trình phân tích giáo viên cần cho học sinh nắm chắc và so sánh các
độ cao của các con chữ, khoảng cách giữa các chữ, cách viết các con chữ cần liền nét
hay phải lia bút… Lưu ý HS viết đúng độ cao của các con chữ theo các nhóm sau:
Độ cao 1 ô li : a, ă , â , c , n, m, o, ô , ơ , e , ê , u , ư ,…………
Độ cao 2 ô li rưỡi : h, k , l , b , y, g, ………….
Độ cao 2 ô li : p, q , d , đ
Độ cao 1 ô li rưỡi : t
Độ cao 1, 25 ô li : r, s
Các chữ cái viết hoa có độ cao 2 ô li rưỡi, riêng chữ G và chữ Y có độ cao 4
ô li.
- Trong quá trình viết mẫu giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh quan sát
và rút ra nhận xét : quy trình viết , đặt bút ở đâu , thực hiện các nét nào , …Khi viết
chữ cần cho học sinh nhận thức được cách cầm bút khi nào viết liền nét , khi nào cần
lia bút .
- Trong quá trình rèn luyện chữ viết , giáo viên cần phân lọai chữ viết thành các
nhóm để rèn dứt điểm theo những trọng tâm mà giáo viên lựa chọn.
Ví dụ :
Kiểu chữ thường : nhóm rèn luyện trọng tâm là nét móc : u , ư , n , m……;
nét khuyết : l , b . k , h , y…

Kiểu chữ hoa : chia nhóm theo tương tự theo cấu tạo nét giống nhau.
Chương 2
Cơ sở lý luận-giả thiết – quy trình
1. Cơ sở lý luận
- Rèn chữ viết được thể hiện chủ yếu qua việc dạy và học các phân môn Tập viết
và Chính tả. Chính vì vậy, ở bậc tiểu học cần phải dạy và học tốt 2 phân môn này.
Yêu cầu cần đạt:
Về tri thức : Giúp HS nắm được những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, tọa
độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm

19
liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái… Từ đó hình thành ở các em những biểu tượng
về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của các chữ viết.
Về kỹ năng : Giúp HS nắm được các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, bao
gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái, tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các
em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết
đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh và đẹp.
Nắm vững các quy tắc chính tả để từ đó hình thành kỹ năng chính tả, đó chính
là tạo năng lực và thói quen viết đúng chính tả.
- Rèn chữ viết mang tính thực hành nhiều và cần phải đảm bảo 2 nguyên tắc sau
:
+ Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể tham
gia vào việc viết chữ.
Việc đánh giá sản phẩm chữ viết của HS cần phải được kết hợp với việc theo
dõi quá trình viết của các em. Chu trình viết chữ của HS thực chất là quá trình vận
động của việc viết bằng toàn thân đến việc viết bằng 3 ngón tay một cách thoải mái
chủ động.
+ Nguyên tắc coi việc rèn chữ viết là hình thành một kỹ năng.
Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi người học phải tri giác chính xác sản phẩm,
nắm vững các thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các thao tác đó. Chữ viết

tiếng Việt là hệ thống chữ cái Latin ghi âm ( âm vị ), mỗi nhóm chữ cái có những
đặc điểm riêng nên quá trình thực hiện các thao tác ở từng nhóm cũng không giống
nhau. Do đó, khi rèn kỹ năng viết chữ, học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm
từng chữ cái, các thao tác viết các nhóm chữ cái và từng chữ ( thao tác viết nhóm
chữ nét cong khác thao tác viết nhóm chữ nét khuyết… ) và phải luyện tập liên tục
nhiều lần trên vở tập viết.
Trong việc rèn luyện kỹ năng viết chữ, HS nhỏ tuổi thường gặp những khó
khăn sau :
+ Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng. Trong khi đó, để
viết được chữ, người viết phải tri giác cụ thể, chi tiết từng nét chữ, từng thao tác kỹ
thuật tỉ mỉ. Do vậy, khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ, HS không tránh khỏi những lúng
túng khó khăn.

20
+ Học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện các động
tác đòi hỏi sự khéo léo cẩn thận.
Vì vậy, người giáo viên tiểu học cần phải nắm được đặc điểm đặc thù của HS
tiểu học để khắc phục những nhược điểm trên và phải có đức tính kiên trì. Sự nhiệt
tâm chu đáo của GV là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của việc dạy
phân môn Tập viết cũng như việc rèn viết chữ đẹp cho học sinh.
2. Giả thuyết
Dựa trên cơ sở lý luận, trên thực tế, tôi thấy để viết đúng, đẹp, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Không phải ngẫu nhiên do năng khiếu bẩm sinh, không được rèn luyện một
cách có kỹ thuật, có phương pháp mà tự nhiên học sinh viết đúng, viết đẹp được.
Chẳng hạn như những năm học trước đây, trường TH Nguyễn Văn Trỗi chưa đầu tư
nhiều vào công tác rèn chữ viết cho học sinh, cũng có thực hiện nhưng không đồng
bộ( chỉ nhắc nhở, chưa có biện pháp cụ thể, phụ thuộc vào giáo viên chủ nhiệm, phụ
thuộc vào sự kèm cặp của phụ huynh), chính vì thế mà số học sinh viết chữ đẹp rất ít
( có 1 đến 2 em tập trung vào con em giáo viên là chủ yếu), chính vì thế mà trường
có nhiều học sinh viết chữ xấu, trình bày cẩu thả, có những học sinh lớp 4&5 viết

một bài văn mà giáo viên không thể luận ra nội dung gì, có nhiều bài chính tả sai đến
trên 20 lỗi,…Những năm học gần đây, nhất là từ khi thay sách giáo khoa toàn cấp,
mẫu chữ cải cách được thay thế bằng mẫu chữ theo quy định số 31/ QĐ- BGD ra
ngày 14/6/2002 của Bộ Trưởng BGD&ĐT, trên tinh thần chỉ đạo của ngành- đặc biệt
là sự chỉ đạo trực tiếp của Phòng Giáo Dục huyện Tân Thành, cũng như từ yêu cầu
cấp thiết của nhà trường là cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả Rèn chữ – Giữ vở cho học sinh toàn trường. Những biện pháp này đã được
tôi đưa vào “Kế hoạch Rèn chữ – Giữ vở” cho học sinh hàng năm và thực sự được
áp dụng bắt đầu từ năm học 2005 – 2006. Tôi thiết nghĩ : Nếu nhà trường tiểu học
không có những biện pháp hữu hiệu trong công tác rèn chữ viết cho học sinh thì khó
có thể giúp học sinh viết đúng, viết đẹp được.
3. Quá trình thử nghiệm và hiệu quả
Với những biện pháp đã nêu trên, Ban giám hiệu cùng với giáo viên trường TH
Nguyễn Văn Trỗi đã thực hiện trong suốt 4 năm học qua- ngay từ đầu năm học – áp
dụng cho toàn trường và từng bước đã nâng cao dần hiệu quả rèn chữ viết cho học
sinh. Nhìn chung chữ viết của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt hơn những năm học

21
trước, 100% học sinh đều có vở Rèn chữ viết ở nhà- nhiều phụ huynh học sinh đã
quan tâm hơn và hỗ trợ nhà trường trong việc kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn con em
luyện viết ở nhà. Các em đã có ý thức hơn và có hứng thú trong việc rèn chữ – giữ
vở, được thể hiện qua phong trào “ Vở sạch- Chữ đẹp” và kết quả các kỳ thi Viết chữ
đẹp cấp Trường, Huyện, Tỉnh hàng năm. Cụ thể như sau :
* Năm học : 2005 – 2006
Kết quả xếp loại VSCĐ toàn trường
Xếp loại Đầu năm Cuối năm Ghi chú
SL % SL %
Loại A 124 26,4 206 44,8 Tăng 18,4 %
Loại B 235 50,0 222 48,3
Loại C 111 23,6 32 6,9 Giảm 16,7 %

Kết quả kỳ thi “Viết chữ đẹp” các cấp:
Cấp trường : Dự thi 22 em – Đạt giải : 12 em
Cấp Huyện : Dự thi 8 em - Đạt giải : 6 em ( 2 giải Nhì - 2 giải Ba – 2 giải KK)
Cấp Tỉnh : Dự thi 3 em ( Đạt giải KK : 2 em –Được công nhận : 1 em )
* Năm học : 2006 – 2007
Kết quả xếp loại VSCĐ toàn trường
Xếp loại Đầu năm Cuối năm Ghi chú
SL % SL %
Loại A 144 30,6 224 48,6 Tăng 18,6 %
Loại B 230 49,0 206 44,7
Loại C 96 20,4 31 6,7 Giảm 13,7 %
Kết quả kỳ thi “Viết chữ đẹp” các cấp:
Cấp trường : Dự thi 22 em – Đạt giải : 15 em
Cấp Huyện : Dự thi 8 em - Đạt giải : 7 em ( 4 giải Nhì - 2 giải Ba – 1 giải KK)
Cấp Tỉnh : Không tổ chức
* Năm học : 2007 – 2008
Kết quả xếp loại VSCĐ toàn trường
Xếp loại Đầu năm Cuối năm Ghi chú
SL % SL %
Loại A 138 29,9 180 40,2 Tăng 10,3 %
Loại B 218 47,2 220 49,1 Tăng 1,9 %
Loại C 106 22,9 48 10,7 Giảm 12,2 %
Kết quả kỳ thi “Viết chữ đẹp” các cấp:
Cấp trường : Dự thi 26 em – Đạt giải : 12 em

22
Cấp Huyện : Dự thi 8 em - Đạt giải : 5 em ( 1 giải Ba – 4 giải KK)
* Năm học : 2008 – 2009
Kết quả xếp loại VSCĐ toàn trường
Xếp loại Đầu năm Cuối năm Ghi chuù

SL % SL %
Loại A
138 27,9 225 45,9 Taêng 18,0 %
Loại B
230 46,5 220 44,9 Giaûm 1,6 %
Loại C
127 25,6 45 9,2 Giaûm 16,4 %
Kết quả kỳ thi “Viết chữ đẹp” các cấp:
Cấp trường : Dự thi 32 em – Đạt giải : 18 em
Cấp Huyện : Dự thi 8 em - Đạt giải : 1 em ( 1 giải Ba )
Với kết quả trên tuy chưa phải là mỹ mãn song với điều kiện của học sinh trường
TH Nguyễn Văn Trỗi thì đó là một kết quả đáng khích lệ. Đó cũng niềm vui, đáp lại
sự cố gắng nổ lực của thầy và trò trong suốt 4 năm học qua.
KẾT LUẬN

Đề tài này được nêu lên một số giải pháp có hiệu quả trong công tác Rèn chữ
viết cho học sinh tiểu học. Có thể áp dụng rộng rãi. Chẳng hạn, Ban Giám hiệu, Giáo
viên, phụ huynh học sinh đều có thể tham khảo để sử dụng vào việc rèn chữ cho học
sinh hoặc con em mình tại nhà.
Muốn cho phong trào “ Vở sạch – chữ đẹp ” đạt kết quả tốt , sự phối hợp giữa
phụ huynh học sinh với các thầy cô giáo chủ nhiệm là hết sức quan trọng . Nhà
trường luôn quan tâm đến sự phối hợp giáo dục và rèn chữ viết cho học sinh thông
qua các bậc cha mẹ học sinh . Đây là lực lượng xã hội quan trọng, vì khi trình độ dân
trí ngày càng cao , nhiều phụ huynh học sinh hết sức chăm lo đến con em họ . Nếu
biết phối hợp sẽ giúp rất nhiều cho việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh
tiểu học ( nhất là những lớp đầu cấp ).
Đối với học sinh, việc xây dựng phong trào “ vở sạch – chữ đẹp” có ý nghĩa hết
sức quan trọng . Kết quả của phong trào chính là những sản phẩm do bản thân học
sinh làm ra , vì vậy các em rất tự hào về những gì mình đã đạt được , sẽ ảnh hưởng


23
rất lớn đến tình cảm thẩm mỹ, yêu quí , trân trọng vẻ đẹp về chữ viết của học sinh
tiểu học .
Tuy nhiên , mặt khác chúng ta cũng thấy rằng : một phần do muốn đạt tỉ lệ học
sinh viết chữ đẹp nên có nhiều giáo viên bắt học sinh nắn nót từng con chữ một , làm
giảm tốc độ viết của học sinh . có khi vì yêu cầu chữ đẹp họ sẵn sàng cắt giảm số
lượng chữ viết trong tiết Tập viết hoặc chính tả . Tốc độ viết chậm của học sinh kéo
theo một số chậm trễ khác ở các môn học trong chương trình.
Với những biện pháp vừa nêu trên , nhà trường bước đầu đã đạt được một số
thành quả nhất định . Song, việc rèn luyện cho học sinh viết đúng và đẹp là cả một
quá trình , không thể một sớm một chiều . Chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng tìm ra những
biện pháp hữu hiệu , thiết thực hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy học . Rất mong
được trao đổi và học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp.
- “ Rèn chữ viết “ để có hiệu quả cao phải quan tâm đầu tư, phải có thời gian và
phải có phương pháp.
- Nâng cao nhận thức cho GV – HS – phụ huynh HS về tầm quan trọng của việc
dạy và học 2 phân môn Tập viết và Chính tả. Giảng dạy có hiệu quả 2 phân môn này.
- Phối hợp tốt giữa Ban Giám hiệu – GV và phụ huynh HS để tạo điều kiện giúp
các em rèn chữ viết.
- Chọn GV viết đúng mẫu chữ, viết đẹp, có năng lực chuyên môn khá trở lên, có
đức tính kiên trì, chịu khó để dạy lớp Một.
- Tổ chức tốt phong trào“ Vở sạch – Chữ đẹp toàn khối – theo dõi ,kiểm tra, đánh
giá thường xuyên, phát hiện những lỗi phổ biến để uốn nắn kịp thời.
- Yêu cầu tất cả GV phải luyện viết chữ thường xuyên ( viết đúng mẫu chữ, viết
đẹp). Phải có tâm huyết với công tác này.
- Kịp thời phát hiện những HS có năng khiếu viết chữ đẹp để bồi dưỡng thường
xuyên. Tổ chức Hội thi “ Viết chữ đẹp” cấp trường cho GV và HS để tạo phong trào
và gây hứng thú cho học sinh.
* Kết quả thực hiện:
-Ưu điểm:

- Học sinh có tiến bộ rõ rệt: Chữ viết rõ ràng, đều đẹp hơn.

24
Cụ thể thông qua vở thi viết chữ đẹp hàng tháng của lớp điểm chữ của nhiều
học sinh đã đạt điểm 9,10.
- Nhiều em trong lớp sau khi viết chữ chuẩn đã say mê luyện viết nét chữ nét
thanh đậm, tập viết chữ hoa tham khảo. Tôi thấy đây là cơ sở thuận lợi để chuyển
sang kiểu chữ viết truyền thống.
- Trong đợt kiểm tra “Vở sạch chữ đẹp” của Phòng giáo dục vừa qua, lớp tôi
được nhận xét có nhiều học sinh viết chữ đẹp-tỉ lệ vở loại A đạt 95%.
Nhược điểm
Việc viết chữ đẹp của học sinh mới chỉ dừng lại ở các phân môn Tập viết,
Chính tả hoặc các loại vở chấm Vở sạch chữ đẹp chưa được đều ở các vở khác.
Bắt đầu sang năm học 2002-2003 sẽ chuyển sang viết chữ hoa kiểu truyền thống.
Vì vậy học sinh sẽ khó khăn khi viết hoa bộ chữ này. Chúng tôi thấy cần phải có thời
gian thích hợp để học sinh làm quen với kiểu chữ hoa tham khảo (sẽ là chính thức
trong năm học sau).
Kết luận
Với những biện pháp vừa nêu trên , nhà trường bước đầu đã đạt được một số
thành quả nhất định. Mặc dù kết quả trong các kỳ thi “ Viết chữ đẹp” cấp Huyện,
Tỉnh chưa cao nhưng với điều kiện khó khăn như hiện tại của nhà trường, đặc biệt là
đối tượng học sinh đa số có hoàn cảnh khó khăn, nằm trên địa bàn nghèo, trình độ
dân cư thấp, nhiều tệ nạn xã hội, phụ huynh không quan tâm tới việc học của con cái,
… thì những gì đã đạt được về công tác “ Rèn chữ – giữ vở” cho học sinh trong
những năm qua đã là một sự cố gắng, phối hợp nhịp nhàng giữa BGH – GV – HS –
BCH Hội PHHS . Song, việc rèn luyện cho học sinh viết đúng và đẹp là cả một quá
trình , không thể một sớm một chiều . Chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng tìm ra những
biện pháp hữu hiệu , thiết thực hơn, cụ thể là quan tâm đầu tư đúng mức cho công
tác này, không ngừng nâng cao chất lượng chữ viết nói riêng, chất lượngDạy & Học
nói chung . Rất mong được trao đổi và học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng

nghiệp.
Kiến nghị:

25

×