Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.36 KB, 24 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THĂNG BÌNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC CAO BÁ QUÁT

Đề tài :
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP
CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
NĂM HỌC : 2010- 2011
Tác giả : Trịnh Thị Thanh
Chức vụ : Giáo viên
Tổ : 4-5
1
Thăng Bình, tháng 02 năm 2011

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THĂNG BÌNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC CAO BÁ QUÁT

Đề tài :
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP
CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
NĂM HỌC : 2010- 2011
Tác giả : Trịnh Thị Thanh
Chức vụ : Giáo viên
Tổ : 4 - 5
Phạm vi nghiên cứu : Tập làm văn lớp 5
Phạm vi áp dụng : Lớp 5C Trường T.H Cao Bá Quát
Thời gian nghiên cứu : Năm học 2009 - 2010
Thời gian áp dụng : Năm học 2010 – 2011
Kí hiệu : TV – TH
2


I. TÊN ĐỀ TÀI :
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ
TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
II. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là
vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Chương trình thay sách tiểu học
phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Học sinh tiểu học
ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác nhau, có nội dung
gần gũi trong cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với cộng đồng. Đó là một
ưu điểm không ai phủ nhận. Tuy nhiên, chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả
về nội dung và kỹ năng rèn luyện lẫn hình thức, biện pháp và quy trình lên lớp . Là
giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn
khoăn là làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng làm bài Tập làm văn, nhất
là văn miêu tả.
Qua thực tế sáu năm giảng dạy lớp 5, qua thời gian bồi dưỡng học sinh giỏi tại
Trường Tiểu học Cao Bá Quát, tôi hiếm khi phát hiện được vài ba học sinh giỏi
môn Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn ít ỏi, đếm trên đầu ngón tay như vậy,
trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã
biết nói, năm sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta đã tự hào tiếng
Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng
một thực tế làm buồn lòng những thầy cô giáo chúng tôi vì học sinh giỏi phân môn
Tập làm văn còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh
đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về
từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học
Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 4, lớp 5? Đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi trên là một quá trình và cũng là mục đích cần hướng đến của các kỹ sư tâm
hồn.
Để làm tốt vai trò người tổ chức và hướng dẫn, tôi đã tìm tòi, phân tích thực
trạng và lựa chọn một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm
văn miêu tả.

Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài : “ Biện pháp giúp học sinh lớp 5
học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả”, trước hết là giúp nâng cao chất lượng
Tập làm văn cho lớp tôi phụ trách. Sau đó, mục tiêu quan trọng hơn là góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung.
 Giới hạn nghiên cứu:
- Nghiên cứu và áp dụng cho học sinh lớp 5C Trường Tiểu học Cao Bá Quát từ năm
học 2010 – 2011 và rút kinh nghiệm áp dụng cho các năm sau.
3
Thăng Bình, tháng 02 năm 2011

III. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, để viết
nên một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ
điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả
người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện
từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ- câu
thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên
nhiên, con người,
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như
tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập
tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng
môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
 Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức,

kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-
ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của
Bộ GD-ĐT đã đề ra.
 Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu
quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng
Việt lớp 4, lớp 5.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng học sinh:
Năm nay (2010 – 2011), tôi được phân công phụ trách lớp 5C với 23 học sinh.
Hầu hết 23 học sinh của lớp 5C tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm
văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4
đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Nhưng qua khảo sát chất lượng
đầu năm học này, đã có 60,8% học sinh bị điểm yếu về Tập làm văn, dẫn đến môn
Tiếng Việt của lớp tôi yếu 26,1 %.
o Các hạn chế của học sinh là:
 Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.
 Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
 Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều
em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
4

 Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời
hợt.
 Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng
Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận
thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu

Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
2. Nguyên nhân của thực trạng
Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau:
1/ Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
2/ Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
3/ Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát
những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng
cần miêu tả.
4/ Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả
khi quan sát.
5/ Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc,
chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về
một con người cụ thể nào đó.
6/ Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập
làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo
viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập
và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý
Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt
Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ
đẻ.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm
vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra bảy giải pháp
sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi.
1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp
dạy Tập làm văn:
Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn
miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương
trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến
thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng

5

mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ
và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những vấn đề
sau :
a. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó Tập
làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức
và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu vốn
sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách
cho học sinh.
b. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và
làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:
 Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
 Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
c. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại
bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng
loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho
học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,
Ví dụ:
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào
là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần
thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối
tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên).
2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập
1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp
người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn
miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình

tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải, (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,
Ví dụ 1:
Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh.
Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu
sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc
Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
Ví dụ 2:
6

Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn
cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
b. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh
vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ 1:
“ Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe.
Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ
đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn, người
ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa- Tiếng Việt 4).
Ví dụ 2:
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm
lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên
đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân lẻ,
thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
c. Tả theo trình tự tâm lí:

Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm
xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau.
Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả
những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối
tượng.
Ví dụ 1:
“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xoã
xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, bà đưa
một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi
dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi bà mỉm
cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả, ” (Bà Tôi - Tiếng
Việt 5- Tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt. Mái tóc
“dày kì lạ”.
Ví dụ 2:
“Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt, mùi
thơm đậm, bay rất xa Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm Hoa đậu từng chùm màu
trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ này. Thân nó
khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột ”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
7

Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học
sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, ) để quan
sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3:
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
 Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.

 Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
 Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những
trận mưa đầu mùa.
 Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng
hót của chào mào.
3. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng
đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn
chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về
trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung
bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài
“Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên
cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn
“Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các
em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,
4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
 Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và
thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em

nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng
8

miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm
xúc của mình.
 KIỂU BÀI TẢ CẢNH : Cần xác định các yêu cầu sau:
a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn
trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn
phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản
nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao quát
toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để
quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên
xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong là tuỳ thuộc đặc
điểm của cảnh.
c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm
đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, trong cảnh để góp phần làm
cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong
nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế
nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong
niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại
xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên:
“Bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi.”
Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống.

e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh
hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng
trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ :
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức
(Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi
nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.”
Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà
lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã
dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng
nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết:
9

“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng
trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
 KIỂU BÀI TẢ NGƯỜI :
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người
đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc
điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh
“miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực,
sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Ví dụ:
Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu tả
người thợ rèn đang làm việc:
“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa
hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”

Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh người
thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép
thành một lưỡi rựa.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh
xác định các yêu cầu sau:
a. Chú ý tả ngoại hình hoạt động:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển
về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới
tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm
sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
b. Quan sát trò chuyện trực tiếp:
Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý
kiến với người đó. Quan sát khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói,
cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi bật (chọn và quan sát người định tả
trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát gián tiếp là
thông qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ sung
những thông tin cần thiết.
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội dung
bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết
đan xen với tả hoạt động.
d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình:
Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về người
đó, không cần phải tô điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên một
hình ảnh toàn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu sự chân thật
10

làm người đọc cảm thấy khó chịu. Thầy cô giáo cần lưu ý học sinh rằng, trong mỗi
con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao giờ cũng nhiều hơn
( đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn….) Nếu học sinh phát hiện, cảm

nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho bài văn miêu tả của các em
sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ chấp nhận hơn.
Ví dụ:
Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 156) nhà văn Đào
Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp thì
không thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
“Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ
cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần
cơm và lao động để sống .”
“Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho cây
lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác ”
5. Làm giàu vốn từ cho học sinh
 Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài
đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm.
Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một cảnh
vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá được
bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng từ, viết
câu, làm văn
a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:
 Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội
dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người, ). Mỗi
tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả
của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả.
 Môn Luyện từ- câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất
khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ
rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp
xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ
miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,
Đặc biệt ở chính phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm giàu
vốn từ theo các đề tài nhỏ:

Ví dụ 1:
Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dòng sông (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xôn xao, ào ào )
Ví dụ 2:
Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dòng sông: dòng sông như dải lụa,
dòng sông như con trăn khổng lồ, dòng sông như người mẹ hiền ôm ấp đồng lúa
chín vàng
b. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả:
11

Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách
sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ
mọng, đặc sệt, trong suốt ), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá,
ẩn dụ ).
Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ ”
Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim
báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời nhô lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp
nhà ai bay trong gió. Đàn gà con gọi nhau, theo chân mẹ. Đường làng đã
người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu
văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải lụa,
giọng bà tiên).
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như ( những chùm sao )
- Nắng cứ như xối xuống mặt đất. ( thuỷ tinh )
- Giọng bà trầm ấm ngân nga như ( tiếng chuông )
Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải
suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.
6. Lập và hoàn thiện dàn ý
Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về
hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng đòi hỏi học sinh phải có
vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.

Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây
dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài,
thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh
viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan
trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở,
học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp
học sinh thành công trong quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài
xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài.
7. Giáo viên chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả người,
4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có chấm bài chu
đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có cái
nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài đúng
12

thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những chỗ hay,
chưa hay hoặc sai những lỗi gì của từng HS.
Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học
sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung
để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…
b. Trả bài viết:
Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, theo
sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút kinh

nghiệm (TV5- T1- T53).
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học
sinh (đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách
bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
 Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
o Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh đọc
đề bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình
hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số
bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp ).
o Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của
kiểu bài tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh nghe
và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.
 Hoạt động 2: Chữa bài:
Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
 Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà
trong quá trình chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính
tả … Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng
như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn đạt
cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS vì tiết
trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
 Riêng tôi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt
cho lớp, mỗi tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó
một cách bền vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
* Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :
o Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và
thực trạng viết câu.
13


o Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời
khen, chê của cô giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết
câu, lỗi chính tả…)
o Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.


Hoạt động 3:
Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả lớp
nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến cuối
học kì I năm học 2010 – 2011 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định
để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không
sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã
có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác,
viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng
khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ
được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết
học Tập làm văn.
Diễn biến chất lượng Tập làm văn:
Thời điểm Số
HS
Điểm 5 Điểm 4 Điểm 3 Điểm 1, 2
Khảo sát đầu
năm
2010-2011
23 0 0% 1 4,4% 8 34,8% 14 60,8%
Giữa học kì I
23 2 8,7%
5 21,7% 10

43,5% 6 26,1%
Cuối học kì I 23
4 17,4%
7 30,4% 9 39,1% 3 13,1%
Diễn biến chất lượng môn Tiếng Việt (Điểm kiểm tra):
Thời điểm
Số
HS
Điểm
9 - 10
Điểm
7- 8
Điểm
5 - 6
Điểm
1,2,3,4
Khảo sát đầu năm
2010 – 2011
23 0 0% 5 21,7% 12 52,2% 6 26,1%
Giữa học kì I
23 4 17,4%
7 30,4% 9 39,1% 3 13,1%
Cuối học kì I 23
7 30,4%
8 34,8% 8 34,8% 0 0%
Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật
đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của cô giáo và học sinh
lớp 5C trường Tiểu học Cao Bá Quát. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ
14


rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và
của tổ chuyên môn.
VII. KẾT LUẬN
Sau một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tả sinh
động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên
cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy
cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ
không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy
học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập
làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên
mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải
tôn trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết đâu sau
này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ
Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục
áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở học kì II và các năm sau, với mong
muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp
Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng
nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của
giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì
bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì
chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.
Rất mong nhận được sự đồng tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp lớp
4- 5.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học ( nhất là văn miêu tả ở lớp 4, 5

) tôi xin có mấy đề nghị sau :
1. Đối với cấp trên : Cần điều chỉnh phân phối chương trình Tập làm văn lớp
4-5 để có thêm số tiết Tập làm văn viết và trả bài.
2. Đối với BGH nhà trường : Cần cho áp dụng đối với các lớp khối 4,5 trong
trường, nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng
dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng.
3. Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4, 5 : Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về
phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn ( từng thể loại,
từng kiểu bài cụ thể ) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói
15

lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ
ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt .
IX. PHỤ LỤC
Giáo án minh hoạ 1 :
Tuần : 1
Tiết : 2
LUYỆN TẬP TẢ CẢNH

Ngày dạy :
27/08/2010
I- Mục tiêu : HS biết:
- Nêu được n/xét về cách miêu tả cảnh vật trong bài Buổi sớm trên cánh
đồng(BT1).
- Lập được dàn ý bài văn tả cảnh một buổi trong ngày (BT2).
II- Đồ dùng dạy-học: - 2 bảng phụ, tranh ảnh cánh đồng vào buổi sớm.
III- Các hoạt động dạy-học:
Hoạt động của GV Hoạt động của HS HTĐB
1/ Kiểm tra bài cũ (4-5 phút)
- Trình bày cấu tạo của bài văn tả cảnh?

- Hãy phân tích cấu tạo của bài Nắng trưa.
- GV nhận xét chung, ghi điểm.
2/ Bài mới : (32-35 phút)
a/Hoạt động 1: Giới thiệu bài (1-2 phút)
- Qua việc phân tích bài Buổi sớm trên cánh
đồng, các em sẽ hiểu thế nào là q/sát và chọn
lọc chi tiết trong 1 bài văn tả cảnh.
b/Hoạt động 2: Hướng dẫn HS làm BT(24-25’)
- 2 HS trình bày.
- Nhận xét.
- Lắng nghe.
16

* Bài 1 :
- 1 HS đọc yêu cầu của BT 1 và đoạn văn.
- GV giao việc theo nhóm đôi:
- Tìm những sự vật được tác giả tả trong buổi
sớm mùa thu.
- Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan
nào?
- Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế
của tác giả.
- Tổ chức cho các nhóm trình bày.
- GV nhận xét, chốt kết quả đúng.
*Những sự vật được tả trong bài :
+Bằng xúc giác: mát lạnh, ướt lạnh bàn chân.
+Bằng thị giác: mây xám đục, vòm trời xanh
vòi vọi.
+Câu 3 “Giữa những…xanh vòi vọi", chi tiết
“vài giọt mưa loáng thoáng rơi…"

* Bài 2 : 1 HS đọc yêu cầu BT2.
- Cho HS giới thiệu tranh ảnh với nhau.
- GV kiểm tra kết quả quan sát ở nhà của HS.
- HS tự lập dàn ý vào vở nháp, 2 HS làm bảng
phụ.
- GV gọi HS khác đọc dàn ý của mình.
- GV nhận xét chung.
* Ví dụ: Dàn ý tả cảnh công viên vào buổi
sáng.
+ MB: Giới thiệu bao quát cảnh yên tĩnh của
công viên.
+ TB: (Tả các bộ phận của cảnh vật)
+ KB: Rất thích đến công viên vào buổi sớm
mai.
- GV cho HS tự sửa lại dàn ý của mình.
3/Củng cố-dặn dò: (1-2 phút)
- Nhận xét tiết học.
-Chuẩn bị tiết sau :Viết đoạn văn tả cảnh một
buổi trong ngày.
- Lớp đọc thầm.
- Thảo luận nhóm đôi.
- Đại diện nhóm trình bày.
- Nhận xét.
- HS trao đổi giới thiệu
tranh ảnh với nhau.(nhóm
đôi)
- 2 HS làm bảng.
- Nhận xét, bổ sung.
- 2-3 HS trình bày.
- Nhận xét, bổ sung.

- Tự sửa bài .
- Lắng nghe.
* HS
K, G
hoàn
chỉnh
dàn ý
rồi viết
vào vở.
* GV
giúp
HS
trung
bình,
yếu
hoàn
thành
dàn ý.
Giáo án minh họa 2 :
Tuần : 15
Tiết : 29
LUYỆN TẬP TẢ NGƯỜI
(Tả hoạt động)
Ngày dạy:
2/12/2010
I/ Mục tiêu :
17

1/ Nắm được cách tả hoạt động của người ( các đoạn của bài văn, nội dung chính
của từng đoạn, các chi tiết tả từng hoạt động ). (BT1)

2/ Viết được một đoạn văn tả hoạt động của người (BT2).
II/ Đồ dùng dạy học: - Bảng phụ + dàn ý đã làm từ tiết TLV trước.
- Tranh 1 số hoạt động của người trong cuộc sống.
III/ Các hoạt động dạy và học chủ yếu:
Hoạt động của GV Hoạt động của HS HTĐB
1/ KTBC: (4-5 phút)
-HS đọc lại biên bản đã tập ghi ở tuần trước.
-HS nêu cách viết phần tả ngoại hình của bài
văn tả người.
-GV nhận xét, ghi điểm.
2/ Bài mới: (32-33 phút)
Hoạt động 1 : GV giới thiệu bài mới (1-2 phút)
Hoạt động 2 : H/dẫn HS tìm hiểu bài(13-15’)
Bài 1 :*Gọi HS đọc yêu cầu bài 1, phân tích đề.
- Giao việc theo từng câu hỏi.
a/ Các em cho biết bài văn có mấy đoạn? Mỗi
đoạn từ đâu đến đâu?
-GV ghi tóm tắt lên bảng lớp.
b/ Nêu ý chính của mỗi đoạn.
-Ghi lại những chi tiết tả bác Tâm trong bài
văn.
- Cho HS làm bài và trả lời kết quả.
- GV nhận xét, chốt ý.
c/Những chi tiết tả hoạt động của bác Tâm
-GV ghi tóm tắt lên bảng ý chính.
* Qua bài văn giúp em nắm được điều gì?
-GV gạch chân từ tả hoạt động ở đề
*Để các em biết thêm một số hoạt động của
người lao động:
-GV đính tranh lên bảng.

-GV nhận xét, sửa chữa cách tả hoạt động.
Bài 2 : *Cho HS đọc đề bài 2.
-Cho HS phân tích đề, GV giúp đỡ HS làm bài
cá nhân.
-GV chấm bài.
-Nhận xét: dùng từ, câu, lỗi chính tả.
- GV nhận xét, khen những HS viết đoạn văn
đúng chủ đề, hay.
3/ Củng cố, dặn dò:
- 1HS đọc
- HS lắng nghe.
- HS nêu yêu cầu
- 1 HS đọc to bài “Công
nhân sửa đường” lớp
theo dõi đọc thầm.
-HS thảo luận cặp
-Trả lời
-Nhận xét
-HS thảo luận N4
- HS trả lời đại diện
- Cả lớp nhận xét.
-HS nêu lại toàn bộ nội
dung.
-HS trả lời cá nhân
- Lớp nhận xét.
-HS quan sát và nêu
một số hoạt động của
từng tranh
-HS nêu thêm hoạt động
2/ 1 HS nêu đề.

-HS nắm 1 số hoạt động
từ đó viết một đoạn văn
thể hiện điều đó.
-HS nắm yêu cầu của
đề.
Làm vào vở bài tập.
-GV
giúp
HS( Nh
ất là HS
yếu)
nắm
được
cách tả
hoạt
động
của
người,
các chi
tiết tả
từng
hoạt
động ).
Viết
được
một
đoạn
văn tả
hoạt
động

của
người.
18

*GV nhận xét tiết học.
- Yêu cầu HS về nhà hoàn chỉnh đoạn văn tả
hoạt động của người mà em yêu mến.
Bài sau: Luyện tập tả người
Lắng nghe
Giáo án minh họa 3 :
Tuần: 17
Tiết : 34
TRẢ BÀI VĂN TẢ NGƯỜI Ngày dạy:
17/12/2010
I/ Mục tiêu :
1/ Biết rút kinh nghiệm để làm tốt bài văn tả người (về các mặt bố cục, trình tự miêu
tả, cách diễn đạt, cách trình bày, chính tả.)
2/ Có khả năng phát hiện và sửa lỗi trong bài làm của mình, của bạn. Nhận biết
điểm của những bài văn hay. Viết lại được một đoạn trong bài cho hay hơn.
II/ Đồ dùng dạy học :
- Phiếu ghi thống kê các lỗi sai + bút dạ + bảng phụ.
III/ Các hoạt động dạy và học :
Hoạt động của GV Hoạt động của HS HTĐB
1/ Kiểm tra bài cũ : (4- 5 phút)
- Gọi một số học sinh đứng tại chỗ đọc đơn xin học
môn tự chọn ở tiết trước.
- Nhận xét, ghi điểm.
2/ Bài mới :
a/ Hoạt động 1 : Giới thiệu bài (1-2 phút)
- Trong tiết TLV hôm nay, cô sẽ trả bài kiểm tra

cho các em.
- 3 HS lần lượt đọc
- Nghe.
b/ Hoạt động 2: Nhận xét chung (4-5 phút)
- GV ghi đề bài ( cả 4 đề ).
- Cho HS đọc lại đề.
- Xác định trọng tâm đề.
- GV nhận xét kết quả bài làm của HS.
• Ưu điểm.
o Về nội dung.
o Về hình thức trình bày.
• Hạn chế về nội dung, về hình thức trình bày.
- 1 HS đọc.
- Cả lớp lắng nghe.
c/ Hoạt động 3 : Chữa lỗi (12-14 phút)
• Sửa lỗi chính tả và cách dùng từ.
- Đọc lỗi chính tả sai cho HS sửa.
- Đọc câu dùng từ sai cho HS sửa
- Cho HS tự sửa vào VBT và lên bảng làm.
• Sửa lỗi những câu văn sai
- HS làm việc cá
nhân
- HS lên bảng sửa.
- Lớp nhận xét.
-Giúp HS
yếu nhận
biết lỗi
trong bài
văn và tự
sửa được

lỗi.
19

- Đọc cho HS những câu văn sai.
- Cho HS tự sửa vào VBT và lên bảng làm.
d/ Hoạt động 4 : Hướng dẫn học sinh học tập
những đoạn văn, bài văn hay và viết lại một đoạn
văn (8-10’)
- Gọi một số học sinh có đoạn văn hay, bài văn
được điểm cao đọc cho cả lớp nghe.
- Gợi ý cho HS chọn một đoạn văn, có nhiều lỗi
chính tả, đoạn văn lủng củng diễn đạt chưa rõ ý.
Đoạn văn dùng từ chưa hay. Mở bài, kết bài đơn
giản.
- Gọi một số HS đọc lại đoạn văn vừa viết.
- HS lắng nghe, tự
ghi chép
- 3 đến 5 học sinh
đọc.
- Viết lại đoạn văn
có nhiều chỗ sai đó.
- 3 đến 5 học sinh
đọc đoạn văn vừa
viết lại.
4/ Củng cố, dặn dò (1-2 phút)
- Nhắc lại một số điểm cần ghi nhớ về cách làm bài
văn tả cảnh.
- GV nhận xét tiết học.
- Yêu cầu HS về nhà đọc kĩ bài làm và hoàn thiện
một đoạn và cả bài văn.

- Yêu cầu HS về nhà viết lại đoạn văn, ôn tập để
chuẩn bị kiểm tra cuối HKI.
- HS về nhà thực
hiện.
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4, Lớp 5 hiện hành.
2- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 3.
3- Học tốt Tiếng Việt 5 (Tập 1, Tập 2)- Tác giả: Phạm Thị Hồng Hoa.
4- Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học- Tác giả: Trần Mạnh Hưởng.
5- Tạp chí thế giới trong ta.
6- Dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
7- Phương pháp luyện từ và câu Tiểu học (Lớp 4)- Tác giả: Trần Đức Niềm, Lê Thị
Nguyên, Ngô Lê Hương Giang.
20

XII. MỤC LỤC
Trang
I. TÊN ĐỀ TÀI ….3
II. ĐẶT VẤN ĐỀ 3
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3-4
IV.CƠ SỞ THỰC TIỄN 4-5
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 5-13
1/ GV phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn
2/ Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
3/ Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài
4/ Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả
5/ Làm giàu vốn từ cho học sinh
6/ Lập và hoàn thiện dàn ý
7/ Giáo viên chấm bài và trả bài viết
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 13-14

VII. KẾT LUẬN 14-15
VIII. ĐỀ NGHỊ 15
IX.PHỤ LỤC 16-18
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
21

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học : 2010 - 2011
I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường Tiểu học Cao Bá Quát
1. Tên đề tài : Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập
làm văn miêu tả
2. Họ và tên tác giả : Trịnh Thị Thanh
3. Chức vụ : Giáo viên Tổ : 4 - 5
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài :
a. Ưu điểm :


b. Hạn chế :


5. Đánh giá, xếp loại :
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường :
22
Mẫu SK1


thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định : Chủ tịch HĐKH

( Ký, ghi rõ họ tên) ( Ký, ghi rõ họ tên)


II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD & ĐT Thăng Bình
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT:

thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định : Chủ tịch HĐKH
( Ký, ghi rõ họ tên) ( Ký, ghi rõ họ tên)


III. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD & ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT:

thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định : Chủ tịch HĐKH
( Ký, ghi rõ họ tên) ( Ký, ghi rõ họ tên)


PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2010 – 2011

(Dành cho người tham gia đánh giá xếp loại SKKN)
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Trường (Phòng, Sở) ………………………
- Đề tài: Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn
miêu tả
- Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Thanh
- Đơn vị: Trường TH Cao Bá Quát
- Điểm cụ thể:

Phần
Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài
Điểm
tối đa
Điểm
đạt
được
1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề
1
3. Cơ sở lý luận 1
23
Mẫu SK3

4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 9
6. Kết quả nghiên cứu 3
7. Kết luận 1
8. Đề nghị
9. Phụ lục
1
10. Tài liệu tham khảo
11. Mục lục
12. Phiếu đánh giá xếp loại
1
Thể thức văn bản, chính tả 1
Tổng cộng 20đ
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại:
Người đánh giá xếp loại đề tài :

24

×