Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận môn học tài chính công Ngoại tác tiêu cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.22 KB, 28 trang )

Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình phát triển kinh tế đã thu hút các nguồn đầu tư mạnh mẽ. Theo đó, các
khu công nghiệp (KCN) tạo ra các giá trị công nghiệp và giá trị xuất khẩu ngày càng lớn,
tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, quá trình phát triển KCN đã bộc
lộ một số khiếm khuyết trong việc xử lý chất thải và đảm bảo chất lượng môi trường.
Việc phát triển các KCN đã làm gia tăng lượng thải và các chất gây ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường tại các KCN là một trong những ngoại tác tiêu cực phát sinh
trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Chúng gây tổn hại lâu dài cho sinh hoạt cũng như
sản xuất của những người dân ở các khu vực xung quanh nhưng không được xử lý và đền
bù thỏa đáng. Ngoại tác tiêu cực này gây tổn hại phúc lợi chung của xã hội, ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững vì vậy đòi hỏi phải có sự can thiệp của chính phủ.
Trang 1
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Ngoại tác
1. Khái niệm
-Đó là phần lợi ích hoặc là chi phí, gắn với dạng hoạt động cụ thể hoặc là yếu tố
sản xuất, mà những người ngoài nhận được.
-Tức là, hành động của một người hoặc một hãng có gây ảnh hưởng đến người
khác hoặc hãng khác, khi một hãng gây ra thiệt hại cho hãng khác nhưng lại không bồi
thường thiệt hại cho hãng đó, hoặc ngược lại, một hãng đem lại lợi ích cho hãng khác
nhưng lại không nhận được sự trọng thưởng vì đã đem lại lợi ích đó.
2. Phân loại
Ngoại tác có thể là tiêu cực hoặc tích cực:
2.1. Ngoại tác tiêu cực:
Đó là hành động của một cá nhân hoặc công ty gây tác hại cho cá nhân hoặc các
công ty khác.
2.2. Ngoại tác tích cực:


Đó là khi hành động của một người đem lại lợi ích cho những người khác, tức là
những tiện ích mà người ngoài nhận được không phải mất tiền mua.
3. Đặc điểm:
-Chúng có thể do cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng gây ra
-Trong ngoại tác, việc ai là người gây tác hại (hay lợi ích) cho ai nhiều khi chỉ
mang tính tương đối.
-Sự phân biệt tính tích cực hay tiêu cực của ngoại tác chỉ mang tính tương đối.
-Tất cả ngoại tác đều phi hiệu quả, nếu xét dưới góc độ xã hội: Vì ngoại tác dẫn
đến việc sử dụng nguồn lực kém hiệu quả (phúc lợi xã hội không lớn nhất). Cụ thể là:
Trang 2
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
+ Sản xuất quá nhiều những hàng hóa gây ra ngoại tác tiêu cực, và
+ Cung ứng quá ít những hàng hóa, dịch vụ tạo ra ngoại tác tích cực.
II. Ngoại tác tiêu cực
1. Sự tác động của ngoại tác tiêu cực
Hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp đã gây ra một ngoại tác tiêu cực như
gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng tới môi trường sống và gây ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe của người dân.
2. Các giải pháp khắc phục ngoại tác tiêu cực
2.1. Các giải pháp tư nhân đối với ngoại tác
Tư nhân có thể tự hành động để khắc phục ngoại tác tiêu cực. Những giải pháp
chính mang tính tư nhân là:
-Sáp nhập: Một cách để giải quyết vấn đề là “nội hóa” ngoại tác bằng cách sáp
nhập các bên có liên quan lại với nhau.Ví dụ, giả định nhà máy và một hợp tác xã (HTX)
đánh cá đang sử dụng chung một cái hồ, nhà máy dùng chiếc hồ làm nơi xả thải, nhưng
việc có nhiều chất thải được xả xuống hồ lại làm chết cá, gây ảnh hưởng đến hoạt động
đánh bắt thủy sản của HTX, nếu nhà máy và HTX liên kết lại với nhau trong một công ty
chung thì lợi nhuận của liên doanh này sẽ cao hơn tổng mức lợi nhuận đơn lẻ của từng
bên khi họ chưa liên kết. Khi đó, liên doanh sẽ phải cân nhắc lợi ích của cả hai hoạt động
và dừng lại ở mức sản lượng tối ưu xã hội, vì đó cũng là điểm mà lợi nhuận của liên

doanh là lớn nhất.
-Dùng dư luận xã hội: Tuy vậy, không phải lúc nào vụ sáp nhập cũng có thể diễn
ra suôn sẻ, nhất là khi ngoại tác có ảnh hưởng đến rất đông đối tượng (như cộng đồng dân
cư), chứ không chỉ là một HTX như trên. Khi đó, người ta có thể sử dụng dư luận hoặc
tập tục, lề thói xã hội làm một công cụ để buộc cá nhân phải lưu tâm đến ngoại tác mà
mình gây ra.
2.2. Quy định quyền sở hữu tài sản
Sự xuất hiện ngoại tác được nhà kinh tế học người Mỹ Ronald Coase cho là có
nguyên nhân từ việc thiếu một quy định rõ ràng về quyền sở hữu đối với các nguồn lực
được các bên sử dụng chung. Từ đó, ông đã đưa ra một định lý nổi tiếng được gọi là định
lý Coase. Theo định lý này, nếu chi phí đàm phán là không đáng kể thì có thể đưa ra một
giải pháp hiệu quả đối với ngoại tác bằng cách trao quyền sở hữu đối với các nguồn lực
Trang 3
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
được sử dụng chung. Ông cho rằng thị trường tư nhân có thể giải quyết được các ngoại
tác nếu các chủ thể đạt được các thoả thuận và cùng có lợi.
Nhưng việc vận dụng mô hình mặc cả ô nhiễm chỉ đúng trong trường hợp thị
trường cạnh tranh, đối với hoàn cảnh thị trường không cạnh tranh thì không thể thực hiện
được. Thông thường quyền tài sản được ấn định không rõ ràng, đặc biệt là đối với những
loại tài sản sở hữu chung.Việc mặc cả thành công hay tan vỡ phụ thuộc rất lớn vào việc
thông tin có chính xác không, việc giám sát có tốn kém không, vì vậy có thể dẫn đến thất
bại khi mặc cả. Và cuối cùng là chi phí giao dịch thường rất lớn và thường đổ lên vai
người không có quyền tài sản.
2.3. Sự can thiệp của chính phủ
Trong những trường hợp mà giải pháp tư nhân không đủ hiệu lực để tạo ra một kết
quả tốt, Chính phủ sẽ phải can thiệp vào bằng nhiều cách khác nhau.
-Đánh thuế: Nguyên nhân khiến nhà máy sản xuất không hiệu quả là do giá cả
các đầu vào mà nhà máy phải trả để sản xuất đã không phản ánh đúng chi phí xã hội biên.
Vì thế, một giải pháp rất tự nhiên được nhà kinh tế học người Anh C.Pigou đề nghị là
đánh thuế ô nhiễm đối với nhà máy này. Thuế Pigou là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị sản

phẩm đầu ra của hãng gây ô nhiễm sao cho nó đúng bằng chi phí ngoại tác biên tại mức
sản lượng tối ưu xã hội.
-Trợ cấp: Trong điều kiện số lượng người gây ô nhiễm là cố định thì có thể đạt
được mức sản lượng hiệu quả bằng cách trả cho người gây ô nhiễm để họ giảm bớt mức
độ gây ô nhiễm môi trường. Tuy mới đầu cách làm này có vẻ kỳ quặc, nhưng nó hoạt
động tương tự như việc đánh thuế.
-Hình thành thị trường về ô nhiễm: Sự phi hiệu quả gắn với ngoại tác tiêu cực là
do thiếu một thị trường về những nguồn lực được sử dụng chung như hồ nước, không khí
sạch… điều này gợi ý một cách khắc phục ngoại tác nữa của Chính phủ - bán giấy phép
gây ô nhiễm, hay còn gọi là giấy phép xả thải.
So sánh biện pháp đánh thuế và hình thành thị trường ô nhiễm:
• Thứ nhất, biện pháp đánh thuế đòi hỏi phải xác định chính xác thuế suất. Điều
này đòi hỏi nhà họach định chính sách phải biết khá rõ về các đường chi phí biên và lợi
ích biên, điều này vấp phải nhiều khó khăn.
Trang 4
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
• Thứ hai, nếu các doanh nghiệp đều theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì
trong cơ chế giấy phép, thì họ sẽ phải tìm ra những công nghệ rẻ nhất để đạt những tiêu
chuẩn do Nhà nước đề ra.
• Thứ ba, nếu có lạm phát thì hệ thống thuế đòi hỏi phải điều chỉnh liên tục để đảm
bảo mức thuế phản ánh đúng giá trị thực của chi phí ngoại tác biên. Còn trong cơ chế
giấy phép xả thải, mức phí xả thải sẽ tự động điều chỉnh theo lạm phát vì nó hình thành
do sự cân bằng cung cầu về giấy phép trên thị trường tạo ra.
• Tuy nhiên, nguy cơ đối với hệ thống giấy phép xả thải lại nằm ở chỗ, đối với các
doanh nghiệp lớn có thể đó sẽ là công cụ để chiếm hữu độc quyền thị trường.
Trang 5
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
PHẦN II
THỰC TRẠNG GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CỦA CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM

Khu công nghiệp (KCN) ở Việt Nam là khu vực dành cho phát triển công nghiệp
theo một quy hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân bằng tương đối
giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Khu công nghiệp được Chính phủ cấp
phép đầu tư với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những khu công nghiệp có
quy mô nhỏ thường được gọi là cụm công nghiệp.
Theo Viện Kiến trúc Quy hoạch (Bộ Xây dựng), tính đến thời điểm tháng 2/2011,
Việt Nam hiện có 256 khu công nghiệp và 20 khu kinh tế đã được thành lập.
Theo quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020, Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo
có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các khu công
nghiệp có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp.
Quá trình phát triển thời gian qua cho thấy Khu công nghiệp tăng nhanh về số
lượng, diện tích, thu hút được một lượng không nhỏ vốn đầu tư trong và ngoài nước, thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh các mục tiêu đạt được thì sự phát
triển của các KCN đã gây sức ép không nhỏ đến môi trường. Hiện trạng ô nhiễm môi
trường, những tồn tại trong quản lý môi trường KCN nếu không được xử lý và có biện
pháp giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước.
I. Tình hình hoạt động của hệ thống xử lý nước thải
Trang 6
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Hiện nay việc quy hoạch khu công nghiệp còn thiếu cơ sở khoa học: Thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội là những dẫn chứng của việc quy hoạch khu công nghiệp theo
kiểu phân tán, tạo thành vành đai công nghiệp bao vây tứ phía thành phố. Hậu quả là khó
giải quyết các vấn đề môi trường trong tương lai, hiệu quả kinh tế của các khu công
nghiệp lại không cao. Việc xây dựng khu công nghiệp trên lưu vực sông Thị Vải đã
không được thực hiện một cách khoa học, thiếu quan tâm đến vấn đề môi trường cho toàn
lưu vực một cách tổng thể, là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gây ô nhiễm

nghiêm trọng cho sông Thị Vải.
Đã triển khai xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các khu
công nghiệp, tuy nhiên tỷ lệ còn thấp và hiệu quả chưa cao.
Theo quy định, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu
công nghiệp có trách nhiệm xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Thực tế hiện nay, công tác này chưa được thực hiện nghiêm túc tại nhiều khu công
nghiệp. Có tới 57% khu công nghiệp đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý nước thải
tập trung (năm 2009)
Trang 7
Khu công nghiệp có hệ thống xử lý
nước thải đã hoạt động

Khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước
thải đang xây dựng

Khu công nghiệp chưa xây dựng hệ
thống xử lý nước thải tập trung
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Trong 3 năm gần đây, mặc dù số khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung
có tăng lên, nhưng xét trên tổng số khu công nghiệp, tỷ lệ khu công nghiệp này có hệ thống này
tăng không đáng kể.
Một số khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng lại hoạt động không
hiệu quả, hoặc hoạt động mang tính đối phó. Cụ thể ở:
+ Hải Dương: hiện có 9 khu công nghiệp. trong số đó, khu công nghiệp Nam Sách và khu
công nghiệp Đại An mặc dù đã đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung,
song không đồng bộ hoặc quy mô hệ thống không tương xứng với lượng nước thải của các
doanh nghiệp thải ra nên chưa vận hành được. 5 khu công nghiệp khác được cấp giấy phép
nhưng chưa có khu công nghiệp nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung.
+ Thành phố Cần Thơ: tất cả các khu công nghiệp đều chưa có hệ thống xử lý nước thải
tập trung đạt tiêu chuẩn.

+ Đồng Nai: là tỉnh có số lượng khu công nghiệp lớn nhất hiện nay (29 khu công nghiệp, trong
đó 21 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động) và cũng là nơi có tỷ lệ đầu tư khá cao cho các hệ
thống xử lý nước thải tập trung của các khu công nghiệp. Đến tháng 6 năm 2009 cũng chỉ mới có
10 khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Theo đánh giá sơ bộ thì chỉ 50% các hệ thống xử lý nước thải tập trung hiện tạo lập đạt
tiêu chuẩn. Nhiều khu công nghiệp hiện còn tìm cách kéo dài hoặc trì hoãn việc đầu tư cơ sở hạ
tầng để bảo vệ môi trường nói chung và hệ thống xử lý nước thải tập trung nói riêng.
Trang 8
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Một số khu công nghiệp không có đủ nước thải để hệ thống hoạt động do nhiều doanh
nghiệp trong khu công nghiệp vẫn chưa chịu đấu nối nước thải vào hệ thống. Điển hình là khu
công nghiệp phố nối B, Hải Dương chỉ có lượng nước thải khoảng 500m
3
/ngày, trong khi công
suất xử lý của hệ thống là 10.800 m
3
/ngày; khu công nghiệp Nomura, Hải Phòng với tỷ lệ tương
ứng là 300/2500.
II. Tình hình vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường
Tình hình vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường tại một số khu công nghiệp:
Khu công nghiệp Phố Nối A, Hưng Yên: Hệ thống xử lý nước thải tập trung ở khu công
nghiệp này được xây dựng từ năm 2008, có công suất 3.000 m
3
/ngày đêm, trong khi đó
theo phê duyệt hệ thống xử lý nước thải phải có công suất 10.200 m
3
/ngày đêm mới đáp
ứng nhu cầu thực tế. Do công suất chưa đạt tiêu chuẩn nên công ty quản lý khai thác hạ
tầng khu công nghiệp Phố Nối A chưa hoàn thành các thủ tục cấp phép xả nước thải ra
môi trường. Đến năm 2009, còn 29 doanh nghiệp chưa đấu nối hệ thống nước thải với

nhà máy xử lý nước thải tập trung, mà được xử lý riêng rồi trực tiếp xả ra môi trường và
không có sự kiểm soát.
Trang 9
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Khu công nghiệp Lê Minh Xuân, Thành phố Hồ Chí Minh: Kết quả kiểm tra của
ban quản lý các KCN-KCX tp Hồ Chí Minh tại 108 doanh nghiệp đang hoạt động trong
khu công nghiệp cho thấy, tình hình vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường rất phổ
biến, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp này đã không
tuân thủ báo cáo định kỳ về môi trường, vi phạm việc xả nước thải, đấu nối hệ thống
thoát nước không đúng quy định, không đăng ký chủ nguồn thải đối với chất thải nguy
hại.
Trang 10
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Như vậy tác hại của ô nhiểm môi trường khu công nghiệp đem lại là rất lớn. Ngoài tổn
thất tới hệ sinh thái, năng suất cây trồng nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản do nguồn
nước bị ô nhiễm, nó còn làm gia tăng gánh nặng bệnh tật. Cụ thể:
Số người mắc bệnh về đường ruột, các bệnh do ký sinh trùng, vi khuẩn, các bệnh
do vi yếu tố và các chất khác trong nước ngày càng gia tăng. Tỷ lệ người mắc bênh nghề
nghiệp (là người trực tiếp làm việc trong các khu công nghiệp) ngày càng tăng.
Theo số liệu năm 2010, trong số 5 nhóm bệnh nghề nghiệp được giám định, nhóm
bệnh bụi phổi và phế quản có tỷ lệ cao nhất (75,5%), sau đó là bệnh do các yếu tố vật lý,
bệnh nhiễm độc nghề nghiệp…
Ô nhiễm không khí không chỉ làm cho người lao động bị nhiễm bệnh mà còn làm
cho những người sống xung quanh cũng chịu bệnh theo. Con số cụ thể về bệnh hô hấp
bệnh hô hấp cấp tính và hô hấp mãn tính của Thọ Sơn, Gia Cẩm đã chỉ rất rõ tác hại này
bằng số liệu cụ thể trên sơ đồ sau: (ta so sánh Thọ Sơn là phường chịu tác động ô nhiễm
với Gia Cẩm là phường không chịu tác động trực tiếp của ô nhiễm).
Trang 11
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Trang 12

Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
PHẦN III
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NGOẠI TÁC TIÊU CỰC GÂY Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. Các biện pháp kinh tế
1. Chính sách thuế, phí và lệ phí
- Áp dụng chế độ ưu đãi thuế đối với những doanh nghiệp có hoạt động bảo vệ
môi trường:
Tập trung các biện pháp ưu đãi đối với thuế trực thu trong việc khuyến khích giảm
thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường. Tập trung ưu đãi về thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với các doanh nghiệp có sử dụng các biện pháp hạn chế ô nhiễm môi trường,
sử dụng các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sạch trong sản xuất sản phẩm Việc ưu đãi
thuế trực thu này xuất phát từ cách tiếp cận về tác động khích lệ trong lý thuyết kinh tế
học.

Trang 13
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Thuế trực thu có liên quan trực tiếp tới lợi nhuận, lợi ích trực tiếp của doanh
nghiệp và ưu đãi này ngầm định khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nguồn tài chính để
giải quyết những vấn đề chống ô nhiễm môi trường. Cụ thể, có thể áp dụng các biện pháp
như:
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực xử lý chất thải, ô nhiễm; khuyến khích
các doanh nghiệp xử lý chất thải bằng cách cho tăng gấp đôi chi phí xử lý chất thải khi
xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, để giải pháp này phát huy
được tác dụng như mong muốn, cần quy định rõ một số vấn đề như: những hoạt động nào
là hoạt động xử lý chất thải và gắn với nó - những chi phí nào sẽ được tính trừ.
+ Tiếp tục các quy định về khuyến khích đầu tư vào các dự án làm sạch môi
trường bằng cách cho áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp (10%) suốt quá
trình thực hiện dự án.
+ Sử dụng ưu đãi thuế để khuyến khích, thúc đẩy phát triển các nguồn năng lượng

sạch, quản lý chặt chẽ việc khai thác và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
+ Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng
sạch như năng lượng mặt trời, năng lượng gió nên được áp dụng cơ chế ưu đãi tối ưu
như miễn thuế trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo
(mức ưu đãi cao nhất trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành); đồng thời, cho
phép áp dụng mức thuế suất thấp như đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi
trường - đó là mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%.
+ Các chi phí liên quan đến việc tìm kiếm và sử dụng nguồn năng lượng sạch
cũng cho phép được tính gấp đôi khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp. Những ưu đãi
này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp tăng cường đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực khai
thác và sử dụng nguồn năng lượng sạch.
Bên cạnh đó, đối với các doanh nghiệp nói chung, cần có biện pháp khuyến khích
việc nghiên cứu và phát triển các công nghệ sạch, công nghệ mới tiết kiệm năng lượng và
tài nguyên.
Hiện nay, chính sách thuế của nước ta cũng đã có những ưu đãi nhất định khi cho
phép các doanh nghiệp trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh
nghiệp với mức tối đa 10% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp và số tiền trích lập
quỹ này được giảm trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, với một số đơn vị
không phát sinh thu nhập tính thuế thì ưu đãi này không phát huy được tác dụng. Vì vậy,
Trang 14
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
có thể áp dụng các biện pháp khác nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên
cứu và phát triển, ví dụ như cho phép khấu trừ gấp đôi hoặc gấp 1,5 lần các chi phí mà
doanh nghiệp chi ra cho hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ khi
xác định chi phí được trừ để tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Với cách
này, chi phí được trừ sẽ tăng lên và số thuế phải nộp vì vậy cũng được giảm đi với tỷ lệ
25% trên chi phí nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ. Áp dụng phương án này
sẽ khuyến khích doanh nghiệp tích cực trong việc nghiên cứu và phát triển khoa học công
nghệ.


Song song với việc ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
khai thác và sử dụng năng lượng sạch, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ đối với các hoạt
động khai thác tài nguyên như khai thác các loại quặng, than, dầu khí ở dạng thô.
Trong trường hợp này, thuế tài nguyên được xem như một công cụ quan trọng
nhất, đang được áp dụng một cách rộng rãi và có hiệu quả cao nhất. Đối với thuế tài
nguyên, nên áp dụng mức thuế suất cao hơn nữa đối với loại tài nguyên dạng thô, ngược
lại, đánh thuế suất thấp hơn đối với tài nguyên dạng tinh hoặc đã chế biến.
- Nghiên cứu, xây dựng thuế các bon:
Về mặt dài hạn, cần có sự nghiên cứu về thuế các bon, đây là thuế đánh vào
lượng khí thải CO2, từ quá trình đốt nhiên liệu chứa các bon.
Trang 15
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Thuế các bon được kỳ vọng trở thành một sắc thuế quan trọng để giảm luồng khí
thải các bon. Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia coi sắc thuế này là giải pháp quan
trọng chống lại ô nhiễm môi trường nói chung và biến đổi khí hậu nói riêng đang đe dọa
sự sống của con người và hệ sinh vật tự nhiên trên trái đất.
Thuế các bon là sắc thuế mới, nước ta chưa có kinh nghiệm, nhưng không thể
đứng ngoài cuộc trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường có tính toàn cầu hiện nay.
Thuế các bon là công cụ để điều chỉnh các chi phí ngoại tác nhằm nội hóa các chi phí
ngoại tác tiêu cực trên phạm vi toàn cầu liên quan đến các khí thải CO2 vào chi phí sản
xuất.
Thuế các bon là một trong những công cụ để giảm lượng khí thải CO2 một cách
hiệu quả. Việc đánh thuế các bon vào các chất đốt sẽ khuyến khích việc tìm ra các nguồn
năng lượng thay thế không phát thải hoặc phát thải ít.
2. Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng được
Giấy phép xả thải là loại giấy phép cấp cho các doanh nghiệp, quy định mỗi một
doanh nghiệp cụ thể được phép xả thải đến một mức độ nhất định phù hợp với tiêu chuẩn
môi trường tại khu vực đó. Việc phân phối giấy phép xả thải thường dựa vào mức độ ô
nhiễm hoặc hiện trạng tác động môi trường của từng doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh muốn thải ra lượng thải lớn hơn lượng thải cho phép được quy định

đối với doanh nghiệp đó và một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có mức xả thải thấp
hơn lượng thải được phép xả theo qui định. Vì vậy, xuất hiện nhu cầu mua bán, trao đổi,
chuyển nhượng giấy phép xả thải giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong đó
người mua là các doanh nghiệp cần giấy phép xả thải còn người bán là các doanh nghiệp
sở hữu giấy phép xả thải và hình thành thị trường mua bán giấy phép xả thải. Thị trường
này vận hành theo quy luật cung cầu như các thị trường thông thường khác, tuy nhiên
hàng hóa giao dịch trên thị trường này đặc biệt hơn các thị trường khác, đó là việc mua
bán các chứng chỉ hay giấy phép mang một giá trị nhất định với giá cả được định đoạt
theo chủ quan, kỳ vọng và dự báo của các bên tham gia giao dịch, hay nói cách khác, giá
cả của giấy phép xả thải được quyết định trên quan hệ cung cầu của thị trường.
Thị trường mua bán, chuyển nhượng giấy phép xả thải cho phép các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh lựa chọn các phương án là mua thêm giấy phép xả thải để tiếp tục
thải hay tìm cách cải thiện chất lượng môi trường bằng cách giảm thải, từ đó tạo ra động
cơ khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hạn chế hành vi gây ô nhiễm môi
Trang 16
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
trường. Thông qua việc mua bán, trao đổi giấy phép xả thải, chất lượng môi trường vẫn
được đảm bảo đồng thời cả người mua và người bán đều có lợi.
Trong những năm gần đây, việc sử dụng giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng
như là công cụ chính sách môi trường dựa trên thị trường đã được các nhà hoạch định
chính sách ngày càng quan tâm. Chính sách này cũng đã nổi lên như một công cụ kiểm
soát ô nhiễm hiệu quả từ những năm 1970 trên thế giới. Giấy phép xả thải có thể chuyển
nhượng đã trở thành một phương pháp tiếp cận môi trường ngày càng được chấp nhận ở
nhiều nước. Việc hình thành hạn ngạch xả thải hoặc tổng giấy phép xả thải phù hợp với
khả năng của môi trường là cách thức hiệu quả để kiểm soát ô nhiễm và đảm bảo được
mục tiêu kinh tế. Công cụ này áp dụng phổ biến với nước thải và khí thải tại các nước
phát triển như Mỹ, Thụy Điển, Ba Lan v.v
Việc thị trường giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng hoạt động như thế nào rõ
ràng có ý nghĩa quyết định đến việc chính sách này có phát huy tác dụng được hay
không. Có cả một loạt các yếu tố quan trọng chi phối: Doanh nghiệp nào sẽ được cấp

phát giấy phép lúc ban đầu, mức độ mong muốn giảm thiểu chi phí của họ, mức độ cạnh
tranh trên thị trường, các quy định giao dịch mua bán giấy phép do cơ quan quản lý đặt
ra, khả năng theo dõi giám sát và cưỡng chế thi hành v.v…
II. Các biện pháp hành chính
1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý môi trường các KCN
Việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý môi trường các khu công nghiệp
là một công việc rất quan trọng. Dưới đây là một số biện pháp chính:
1.1. Phân cấp và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể theo hướng tổ chức
quản lý tập trung
Ban quản lý (BQL) khu công nghiệp cần được UBND các cấp (tỉnh, huyện), Bộ
Tài Nguyên & Môi Trường (Bộ TN&MT) và các Bộ, ngành khác ủy quyền để trở thành
một chủ thể đầy đủ, có quyền và chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý môi
trường bên trong KCN và triển khai các quy định bảo vệ môi trường liên quan.
Việc ủy quyền đầy đủ này trước hết thể hiện ở mặt tổ chức. Ban quản lý các KCN
cần được tăng cường tổ chức chuyên trách về bảo vệ môi trường theo Nghị định số
81/2007/NĐ-CP bằng việc thành lập Phòng Quản lý môi trường thuộc ban quản lý nhằm
nâng cao vai trò, trách nhiệm và hiệu quả quản lý Nhà nước về môi trường KCN của
Trang 17
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
BQL các KCN và tạo cơ chế “một cửa” giúp các doanh nghiệp đầu tư trong KCN thuận
lợi hơn trong việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thứ hai, Ban quản lý các KCN cần được giao đầy đủ thẩm quyền và trách nhiệm
liên quan đến bảo vệ môi trường bên trong KCN với vai trò là đơn vị chủ trì thực hiện:
- Thẩm định và phê duyệt báo cáo đầu tư mới (ĐTM), xác nhận bản cam kết bảo
vệ môi trường của dự án đầu tư và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN và các dự án, cơ sở
sản xuất kinh doanh đầu tư vào KCN;
- Kiểm tra, xác nhận kết quả chạy thử các công trình xử lý chất thải của dự án đầu
tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN và các dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh
đầu tư vào KCN trước khi đi vào hoạt động chính thức;
- Kiểm tra, theo dõi việc thực hiện bảo vệ môi trường của các chủ đầu tư xây dựng

và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN và các dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh trong KCN
theo cam kết của báo cáo ĐTM hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường;
- Tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
KCN đối với chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN và các cơ sở sản
xuất kinh doanh trong KCN;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong
KCN;
- Tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp, kiến nghị về môi trường giữa các cơ sở
sản xuất, kinh doanh trong KCN.
Chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN chịu trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các cam kết trong báo cáo ĐTM của KCN; xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường KCN, vận hành và đảm bảo hoạt động của hệ thống xử
lý chất thải KCN, tham gia ứng phó các sự cố môi trường trong KCN …
Triển khai mô hình kinh doanh dịch vụ môi trường với sự tham gia của các doanh
nghiệp bằng hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ và nghĩa vụ các bên và được ràng buộc
bởi những cơ chế và chế tài cụ thể.
1.2. Tăng cường năng lực cán bộ quản lý bảo vệ môi trường KCN
Tăng cường năng lực cho đội ngũ thực hiện tại các bộ phận chuyên môn về môi
trường của ban quản lý các KCN. Việc tăng cường này cần chú trọng đào tạo nâng cao
trình độ và tăng cường số lượng của đội ngũ cán bộ.
Trang 18
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định thành lập KCN, đặc biệt thẩm định các
yếu tố môi trường cũng như chất lượng công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo thi hành các
quy định về bảo vệ môi trường tại các KCN.
1.3. Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị có liên quan
Tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương (giữa Bộ TN&MT, Sở
TN&MT và Ban quản lý các KCN) trong việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường
KCN.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước có

liên quan gồm: Sở TN&MT, Cảnh sát môi trường, UBND quận, huyện (có KCN) với ban
quản lý với ban quản lý các KCN trong kiểm tra, giám sát, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong KCN.
2. Rà soát, bổ sung các văn bản về thể chế, chính sách và tăng cường thực thi
pháp luật về bảo vệ môi trường KCN
2.1. Rà soát, bổ sung các văn bản, chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường
KCN
Rà soát, điều chỉnh lại các văn bản đã ban hành liên quan đến việc phân cấp quản
lý môi trường KCN nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng phân cấp và phân công
trách nhiệm rõ ràng, cụ thể đối với các đơn vị trong hệ thống quản lý môi trường các
KCN. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc:
- Kiến nghị rà soát, sửa đổi những quy định liên quan trong Luật bảo vệ môi
trường về tổ chức thanh tra môi trường trong các KCN, về phân cấp quản lý môi trường
các KCN cũng như một số vấn đề khác có liên quan;
- Các văn bản cần đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền và trách nhiệm trực tiếp
cho các BQL các KCN của cấp tỉnh; Sở TN&MT thực hiện tốt chức năng của đơn vị
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, không can thiệp sâu vào hoạt động bên trong của
KCN; phân định trách nhiệm quản lý nhà nước cụ thể giữa BQL các KCN và Sở
TN&MT;
- Các văn bản cần phân định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư xây dựng và kinh
doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN với các doanh nghiệp đầu tư trong KCN.
Phát triển các chính sách, văn bản cho phép và khuyến khích việc xây dựng Quy
định quản lý môi trường nội bộ KCN
Trang 19
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Việc ban hành Quy chế quản lý môi trường nội bộ KCN là đặc biệt cần thiết. Quy
định này sẽ tạo cơ chế hoạt động riêng theo đặc thù của từng KCN và xác định rõ trách
nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia trong KCN. Trong đó, nhiều cơ chế, ưu đãi và
lợi ích của từng KCN sẽ được quy định. Mỗi KCN có thể có những cơ chế riêng, mang
tính nội bộ như thỏa thuận giá xử lý nước thải (một giá, nhiều giá), nhưng không được

trái các quy định pháp luật hiện hành.
Tạo hành lang pháp lý hoàn thiện cho công tác bảo vệ môi trường
-Xây dựng các chế tài có tính bắt buộc cao đối với các chủ đầu tư trong việc xây
dựng các công trình xử lý chất thải tập trung trong KCN;
-Rà soát, hoàn thiện các văn bản liên quan đến các hướng dẫn kỹ thuật trong hoạt
động bảo vệ môi trường KCN (hướng dẫn xử lý, vận hành trạm xử lý nước thải tập trung,
chế độ tự quan trắc, báo cáo, các tiêu chuẩn Việt Nam có liên quan …);
-Sở TN&MT, BQL các KCN, Sở công an của các tỉnh, thành phố sớm ban hành
quy chế phối hợp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy định pháp luật
về bảo vệ môi trường KCN;
-Xây dựng các quy định cụ thể về an toàn LĐ và bảo vệ môi trường đối với KCN.
2.2. Tăng cường thực thi pháp luật bảo vệ môi trường KCN
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường KCN
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường KCN cần
triển khai đồng bộ các giải pháp:
-BQL các KCN cần tăng cường chất lượng thẩm định báo cáo đánh giá tác động
môi trường, bản cam kết đạt tiêu chuẩn môi trường, cũng như tăng cường công tác kiểm
tra sau thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, sau khi xác nhận bản cam kết
đạt tiêu chuẩn môi trường của các dự án đầu tư trong KCN;
-BQL các KCN chủ trì và phối hợp chặt chẽ với Sở TN&MT, Sở công an (Phòng
cảnh sát môi trường) tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong KCN;
-Cương quyết đình chỉ hoạt động nếu doanh nghiệp để tình trạng ô nhiễm kéo dài,
truy tố trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
gây hậu quả nghiêm trọng;
-Tăng cường hoạt động giám sát nguồn thải của các KCN, tăng cường hệ thống
các trạm quan trắc liên tục, tự động tại các nguồn thải.
Trang 20
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Tăng cường hiệu quả áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường KCN

-Cần phát huy tối đa vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường KCN
nhằm nâng cao hiệu quả cải thiện chất lượng môi trường với chi phí thấp nhất. Điều này
rất quan trọng đối với Việt Nam trong điều kiện còn thiếu hụt ngân sách cho công tác bảo
vệ môi trường.
-Cần rà soát, đánh giá và điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể đối với các quy định trong
việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, chất thải rắn để đảm bảo tính khả thi và
hiệu quả.
-Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các công cụ kinh tế còn thiếu như phí bảo vệ môi
trường đối với khí thải, giấy phép ô nhiễm, hệ thống ký quỹ và hoàn trả …
-Quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009
của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt
trong việc áp dụng các mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường của các doanh nghiệp.
-Tạo các nguồn vay ưu đãi (quỹ vay, đối tượng vay, các hình thức ưu đãi, các cơ
chế đặc biệt) cho các dự án đầu tư bảo vệ môi trường trong KCN.
-Ban hành khung giá dịch vụ môi trường làm cơ sở để áp dụng triển khai thống
nhất trên cả nước, tránh hình thức nâng giá, ép giá doanh nghiệp và ngược lại.
-Địa phương ban hành các cơ chế phạt đối với hình thức vi phạm của doanh
nghiệp và thưởng đối với các sáng kiến tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường phù hợp
với các quy định hiện hành.
Tăng cường công cụ thông tin trong bảo vệ môi trường KCN
-Khẩn trương tổ chức thực hiện việc công bố thông tin và dân chủ cơ sở liên quan
đến bảo vệ môi trường KCN theo các nội dung được quy định tại Điều 103, Điều 104 và
Điều 105 Luật bảo vệ môi trường.
-Tăng cường công tác thông tin; đảm bảo thông tin, số liệu về môi trường KCN
đầy đủ và cập nhật thường xuyên.
-Công khai công tác bảo vệ môi trường của các KCN, các doanh nghiệp trong
KCN cũng như các doanh nghiệp không nằm trong KCN trên các phương tiện thông tin
đại chúng (báo, đài, trang tin điện tử), nhằm tạo sức ép đối với các doanh nghiệp vi
phạm, gây ô nhiễm môi trường và động viên, khuyến khích những doanh nghiệp thực

hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.
Trang 21
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
-Xác lập cơ chế thông tin, tăng cường tuyên truyền phổ biến luật và quy chuẩn về
môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thông tin môi trường các KCN.
3. Đẩy mạnh việc triển khai công tác bảo vệ môi trường của chính các KCN
3.1. Xây dựng, hoàn thiện các hệ thống xử lý chất thải tập trung của KCN
Chủ đầu tư và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN cần xây dựng và hoàn
thiện các hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các hạng mục này cần được thiết kế đúng và
phù hợp với điều kiện thực tế; xây dựng, lắp đặt đúng thiết kế; duy trì hoạt động ổn định
và hiệu quả trong suốt quá trình hoạt động của KCN.
Thường xuyên giám sát hoạt động của các công trình kể trên thông qua lượng điện
tiêu thụ (lắp đặt đồng hồ điện có kẹp chì riêng), sổ nhật ký vận hành, hóa đơn, phiếu xuất
nhập hóa chất phục vụ hệ thống xử lý nước thải tập trung, lắp đặt thiết bị giám sát tự
động lưu lượng nước thải và một số thông số ô nhiễm chính.
Chủ đầu tư và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN cần xây dựng các khu vực
lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại từ các doanh nghiệp trong KCN theo quy định.
3.2. Các doanh nghiệp trong KCN thực hiện nghiêm túc việc xử lý chất thải
Tất cả các doanh nghiệp trong KCN có nước thải phải xử lý sơ bộ đạt tiêu chuẩn
đầu vào của hệ thống xử lý nước thải tập trung trước khi thải vào hệ thống thu gom nước
thải của KCN.
Trường hợp KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì từng doanh
nghiệp phải xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép trước khi thải ra ngoài.
Các doanh nghiệp có phát sinh khí thải phải có hệ thống xử lý khí thải đạt tiêu
chuẩn Việt Nam trước khi xả thải.
Khu công nghiệp phải bố trí địa điểm lưu giữ tạm thời và trung chuyển chất thải
rắn của KCN.
Tất cả các doanh nghiệp có phát sinh chất thải nguy hại phải có hợp đồng thuê các
đơn vị có chức năng và đủ năng lực để thu gom và xử lý đúng cách.
3.3. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự quan trắc và báo cáo môi trường

Chủ đầu tư và các doanh nghiệp trong KCN thực hiện nghiêm túc việc tự quan
trắc theo đúng cam kết và tuân thủ chế độ báo cáo thường xuyên cho các cơ quan có thẩm
quyền theo quy định.
Yêu cầu bắt buộc các trạm xử lý nước thải tập trung của các KCN phải lắp đặt hệ
thống quan trắc tự động giám sát chất lượng nước thải trước khi thải ra môi trường. Số
Trang 22
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
liệu được truyền tự động và liên tục về các cơ quan quản lý môi trường quốc gia và địa
phương.
3.4. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các mô hình quản lý và công nghệ thân
thiện môi trường.
Thường xuyên tổ chức tập huấn, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về
bảo vệ môi trường đối với chủ doanh nghiệp đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ
thuật KCN và chủ các dự án đầu tư trong KCN.
Tăng cương tuyên truyền, phổ biến các chỉ tiêu và mục tiêu bảo vệ môi trường của
KCN và doanh nghiệp trong KCN, các mô hình quản lý và công nghệ thân thiện với môi
trường.
III. Các biện pháp khác
1. Bồi thường thiệt hại môi trường
Đến năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2005 đã đề cập một cách rõ
ràng các quy định về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường (được quy
định từ Điều 131 đến Điều 135).
Ngoài ra tại Điều 624 Bộ Luật Dân sự (2005) có quy định “Cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”.
Khác với các quan hệ pháp lý khác có liên quan đến bồi thường thiệt hại, trong
lĩnh vực môi trường, người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thường phải thực hiện
đồng thời cả hai biện pháp: khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm và bồi thường
thiệt hại về môi trường. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi
trường là vấn đề không đơn giản ngay cả ở những nước phát triển, nơi mà lý thuyết về

lượng giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố môi trường đã được định hình và
củng cố. Một tình trạng khá phổ biến trong lĩnh vực môi trường hiện nay là nhiều cá
nhân, tổ chức cùng gây ô nhiễm môi trường và cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có
trách nhiệm phối hợp với các bên liên quan để làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng
trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường.
Trên thực tế không dễ dàng xác định chính xác mức độ gây hại đến môi trường.
Một khía cạnh khác cũng cần phải xem xét đó là thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời đã trở thành nguyên
tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, do giá trị của các thiệt hại về môi trường
Trang 23
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
thường rất lớn và khó xác định nên trong đa số các trường hợp việc áp dụng trách nhiệm
bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. Bộ luật
Dân sự quy định về thời hạn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 2 năm kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Nhưng
trong lĩnh vực môi trường, quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn toàn trùng
khít với ngày phát sinh thiệt hại trên thực tế ví dụ như thiệt hại đối với người bị nhiễm
chất phóng xạ, nhiễm hóa chất độc hại… có thể kéo dài nhiều năm, từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Đây cũng là một khía cạnh mà các nhà quản lý cần cân nhắc khi xây dựng các
quy định, thông tư hướng dẫn thực hiện bồi thường thiệt hại do hoạt động làm ô nhiễm,
suy thoái môi trường.
Ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng xảy ra vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại môi
trường của người dân do việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của công ty Vedan.
Việc xả thải của công ty Vedan đã làm ô nhiễm lưu vực sông Thị Vải, trong đó có một
đoạn sông dài trên 10km gọi là “dòng sông chết”. Tại lưu vực sông Thị Vải, nguồn nước
bị ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối cả ngày lẫn đêm, cả
khi có thủy triều. Nguồn nước bị ô nhiễm dẫn đến sản lượng đánh bắt thủy sản của người
dân bị giảm đáng kể, và nó cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống của
người dân sống trong khu vực đó. Vì vậy, việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường đối với công ty Vedan phải tiến hành kiên quyết, triệt để.

Theo báo cáo của Tổng cục Môi trường, sau những vi phạm gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng do Vedan gây ra đối với sông Thị Vải, ảnh hưởng đến cuộc sống
hàng chục nghìn hộ dân, ngày 9/4/2010, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có Công văn yêu cầu
Công ty Vedan bồi thường thiệt hại cho 1.255 hộ dân với số tiền 53,619 tỷ đồng; ngày
1/6/2010, UBND thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Vedan bồi thường thiệt hại cho 839 hộ
dân huyện Cần Giờ với số tiền 45,74 tỷ đồng; ngày 21/6/2010, UBND tỉnh Đồng Nai có
Công văn 4901 yêu cầu Vedan bồi thường thiệt hại cho nhân dân 4 xã (thuộc hai huyện
Long Thành và Nhơn Trạch) với số tiền 119, 581 tỷ đồng.
Theo văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ được Thứ trưởng Bộ Tài nguyên -
Môi trường Nguyễn Thái Lai ký vào ngày 1/9/2010, thì ngày 11/8/2010 Công ty Vedan
đã thống nhất bồi thường thiệt hại 100% số tiền yêu cầu bồi thường cho toàn bộ người
dân của 3 địa phương bị ảnh hưởng trên lưu vực sông Thị Vải là gần 219 tỉ đồng. Trong
đó, nông dân ở Bà Rịa - Vũng Tàu được bồi thường hơn 53,6 tỉ đồng, nông dân ở Đồng
Trang 24
Bài thuyết trình: Ngoại tác tiêu cực GVHD: PGS,TSKH. Phạm Đức Chính
Nai là hơn 119,5 tỉ đồng và nông dân huyện Cần Giờ (TP HCM) là hơn 45,7 tỉ đồng. Số
tiền bồi thường này được chia thành 2 đợt. Đợt 1: 50% số tiền được chuyển cho mỗi địa
phương trong vòng 7 ngày kể từ ngày ký biên bản thỏa thuận bồi thường. Đợt 2 chuyển
từ ngày 10 đến ngày 14/1/2011 và được bảo lãnh của ngân hàng theo quy định
Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các văn bản quy định tiêu chí lượng hoá
thiệt hại do ô nhiễm môi trường để làm cơ sở cho việc xác định thiệt hại và bồi thường
nhằm khắc phục những khó khăn hiện nay. Bên cạnh đó, cần xây dựng và ban hành
những văn bản hướng dẫn thủ tục, trình tự khiếu kiện và giải quyết bồi thường thiệt hại
để cộng đồng có thể nắm rõ và dễ dàng thực hiện khi chịu thiệt hại, tránh tình trạng sách
nhiễu hành chính, gây khó khăn cho người bị hại và tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng
gây ô nhiễm lách luật, trốn tránh trách nhiệm.
Ngoài ra, đối với việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại cần có các quy
định mang tính chất linh hoạt hơn. Theo luật quy định thì thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời, song trong lĩnh vực môi trường, do giá trị của các thiệt hại về môi
trường thường rất lớn và khó xác định nên trong nhiều trường hợp việc thực hiện là rất

khó khăn. Ví dụ như người gây thiệt hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần
hoặc nhiều lần trong khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc đến các quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Theo bộ Luật dân sự thì thời hạn này là hai năm kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Song cũng cần tính
đến trong lĩnh vực môi trường, ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn
toàn trùng khít với ngày phát sinh thiệt hại trên thực tế. Thiệt hại đối với người bị nhiễm
chất phóng xạ, nhiễm hóa chất độc hại là những ví dụ điển hình. Nên chăng pháp luật
môi trường cần hướng tới việc quy định thời hiệu khởi kiện gắn với ngày mà thiệt hại
thực tế xảy ra và cần có khoảng thời gian dài hơn 2 năm.
2.Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân, cùng nhau giám sát việc
xả thải của các khu công nghiệp
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính của tình trạng trên là do sự nhận thức về
bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung và môi trường trong các KCN nói riêng chưa thực
sự được coi trọng; chưa đánh giá được đúng mức tầm quan trọng của môi trường trong
mối quan hệ bền vững giữa hoạt động sản xuất và sinh hoạt trong KCN, giữa KCN với
Trang 25

×