Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.66 KB, 56 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, một trong
những mục tiêu quan trọng đó là tạo nguồn ngoại tệ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa- hiện đại hoá đất nước. Do vậy đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là biện pháp
hữu hiệu.
Thị trường EU là thị trường lớn, với nhu cầu nhập khẩu cao phần lớn là
nguyên liệu, may mặc, giày da, thuỷ sản...Mọi doanh nghiệp đều muốn thâm nhập
vào thị trường đầy tiềm năng này. Nhưng bên cạnh đó, cạnh tranh trên thị trường
này cũng hết sức khốc liệt. Đối với nước ta, EU luôn được coi là đối tác lâu dài và
ổn định. Nước ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng sang thị trường EU như dệt may,
giày dép, thủ công mỹ nghệ...Trong đó ngành giày dép đóng vai trò quan trọng
trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang EU. Thị trường giày dép đã dần
khẳng định được vị thế của mình trên thị trường này thể hiện kim ngạch xuất khẩu
trong những năm gần đây liên tục tăng. Nhưng những thành tích đó vẫn chưa
xứng đáng với tiềm năng của ngành.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều khó khăn, mặt hàng giày dép của nước ta đã bị
kiện bán phá giá trên thị trường EU- điều này ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch
xuất khẩu của ngành đồng thời còn ảnh hưởng nhiều đến đời sống lao động. Do
vậy cần có những biện pháp để tránh cho nước ta có nguy cơ mất thị trường đầy
tiềm năng. Do vậy tôi lựa chọn đề tài:"Thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị
trường EU của các doanh nghiệp."
Mục tiêu của đề tài:" Từ cơ sở lý luận và đánh giá một cách khách quan ưu,
nhược điểm cũng như những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp xuất
khẩu giày dép trong thời gian qua, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu sản phẩm giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, với thời gian có hạn và tính chất phức tạp của
vấn đề nghiên cứu nên đề án này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em
mong được sự đóng góp, phê bình từ phía người đọc để đề tài sẽ có giá trị thực
tiễn hơn.
Trong khi thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ của giáo viên


hướng dẫn: TS. Trần Văn Bão. Em xin chân thành cảm ơn thày đã giúp em hoàn
thành đề tài này.
Phạm Thị Nhàn 1 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
1.1 Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu.
1.1.1 Khái niệm cơ bản.
- Khái niệm xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài nhằm mục đích
thu lợi nhuận. Đây là một hoạt động cơ bản của lĩnh vực kinh doanh Thương mại
quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước thì mở rộng xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng của chính
sách đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu dưới nhiều hình thức
như: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu ủy thác, buôn bán đối lưu, gia công xuất khẩu
và xuất khẩu theo nghị định thư.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tự sản xuất ra
hàng hoá hoặc tiến hành thu mua, gom hàng; sau đó bán ra thị trường nước ngoài
thông qua mạng lưới, tổ chức kinh doanh của mình. Người xuất khẩu và người
nhập khẩu trực tiếp quan hệ với nhau không thông qua bất cứ khâu trung gian nào.
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức xuất khẩu mà hoạt động xuất khẩu được
tiến hành thông qua một hoặc một số tổ chức trung gian thương mại như: môi giới
đại lý. Theo hình thức này, doanh nghiệp xuất khẩu ( bên uỷ thác) sẽ giao cho tổ
chức xuất khẩu trung gian ( bên được uỷ thác hay bên nhận uỷ thác) tiến hành xuất
khẩu lô hàng với danh nghĩa của bên nhận uỷ thác nhưng chi phí của bên uỷ thác.
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu; người bán đồng thời cũng là người mua với một giá trị hàng hóa tương
đương nhau. Mục đích của hoạt động này không phải là thu ngoại tệ mà nhằm thu

về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương mà sản xuất trong nước đang cần.
Gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu mà trong đó, bên đặt ở nước
ngoài cung cấp máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu hoặc bán thành phẩm the
Phạm Thị Nhàn 2 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
yêu cầu của bên đặt gia công và nhận về một khoản thù lao ( phí gia công ) mà hai
bên đã thoả thuận từ trước.
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu mà theo đó hàng hoá
được thực hiện theo nghị định thư giữa các chính phủ của hai nước. Ưu điểm của
hình thức này là giá cả hàng hóa dễ được chấp nhận, khả năng thanh toán tốt.
Như vậy tuỳ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp mà doanh nghiệp
có thể lựa chọn theo các hình thức xuất khẩu khác nhau sao cho phù hợp với doanh
nghiệp và đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2 Vai trò của xuất khẩu
-Vai trò đối với đất nước.
Mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng nguồn ngoại tệ cho ngân sách
nhà nước, từ đó tạo cơ hội cho việc thúc đẩy hoạt động nhập khẩu máy móc thiết
bị, công nghệ hiện đại nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hoá
đất nước.
Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, vùng kinh tế,
sản xuất phát triển theo chiều rộng và cả theo chiều sâu. Đồng thời khi hoạt động
xuất khẩu phát triển góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; từ đó
góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Mặt khác, nó cũng góp phần mở rộng mối quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại
giao của nước ta với các nước trên thế giới.
- Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp mục tiêu quan trọng là tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến hoạt động kinh doanh của mình
nhằm tăng năng lực sản xuất, tăng sức cạnh tranh nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu sản phẩm, hàng hoá ra thị trường thế giới. Xuất khẩu không chỉ đóng vai trò

to lớn đối với nhà nước mà không những thế có vai trò rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu, đó là:
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa giúp cho doanh nghiệp thực hiện được mục
tiêu của doanh nghiệp đó là tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hoạt động này
càng quan trọng hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.
Phạm Thị Nhàn 3 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì cần phải có sự đầu
tư thích đáng đến cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Vì một doanh nghiệp
có khả năng cạnh tranh cao thì cần phải có cơ sở vật chất tốt, không bị lạc hậu. Để
có thể mua sắm, thay thế trang thiết bị thì hoạt động xuất nhập khẩu giúp doanh
nghiệp có được nguồn vốn để đầu tư.
Khi hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp phát triển thì sẽ tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào, từ đó có thể đầu tư vào việc mở rộng
sản xuất kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. giúp cải
thiện đời sống của lao động... Với nguồn tài chính dồi dào cũng sẽ giúp doanh
nghiệp có thể đầu tư vào các hoạt động như thâm nhập thị trường, thực hiện các
hoạt động xúc tíên thương mại... tạo điều kiện đẩy nhanh thị trường tạo lập các
mối kinh doanh mới, tạo uy tín và vị thế của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Cán bộ công nhân viên sẽ ngày càng được cải thiện, tăng mức thu nhập của
người lao động, từ đó tạo động lực cho cán bộ công nhân sẽ gắn bó hơn với doanh
nghiệp.
Do vậy, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức to lớn đối với đẩt nước
nói chung và với doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Đồng thời xuất khẩu sẽ làm
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế, làm cho nền kinh tế giữ vững ổn định và không ngừng phát triển.
1.2 Nội dung hoạt động xuất khẩu
1.2.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Đây là vấn đề rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham
gia hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi tham gia vào thị trường kinh doanh quốc

tế.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển
vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương
pháp thực hiện mục tiêu đó. Qúa trình nghiên cứu thị trường thực chất là quá trình
thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu và rút ra
kết luận, từ đó đề ra biện pháp thích hợp đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thị trường EU thì điều quan
trọng là phải có đầy đủ thông tin về thị trường EU để có thể đề ra các phương án
Phạm Thị Nhàn 4 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hay chiến lược kinh doanh phù hợp. Các doanh nghiệp cần trang bị cho mình
những kiến thức về thị hiếu, phong tục, thu nhập...của người dân.
EU là một thị trường khó tính, người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm có chất
lượng cao và đặc biệt yếu tố quyết định khi họ lựa chọn sản phẩm là sản phẩm đó
phải có thương hiệu. Những xu hướng tiêu dùng của người dân Châu Âu ngày
càng thể hiện sự chú trọng hơn nữa vào chất lượng, kiểu dáng, xu hướng thời trang
của thế giới...
Khi các doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu thì có rất nhiều vấn đề
cần được giải quyết và chính giai đoạn nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho doanh
nghiệp giải quyết được những thắc mắc. Nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp
giải quyết các câu hỏi sau:
- Nước nào là thị trường có triển vọng đối với các sản phẩm của doanh
nghiệp?
- Số lượng hàng hóa bán ra là bao nhiêu?
- Sản phẩm có những thích ứng trước đòi hỏi của thị trường như thế nào?
- Các doanh nghiệp tham gia bán sản phẩm đó trên thị trường như thế nào?
- Lựa chọn phương thức bán hàng cho phù hợp?
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường doanh nghiệp có thể áp dụng 2 phương
pháp để có thể thu thập thông tin cần thiết đó là phương pháp nghiên cứu tại bàn
và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Hai phương pháp này hỗ trợ lẫn nhau

giúp cho doanh nghiệp có nguồn thông tin đầy đủ và chính xác hơn.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn về cơ bản bao gồm việc thu thập thông
tin từ các nguồn tài liệu. Đây là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị
trường. Áp dụng phương pháp này đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng tài chính
của nhiều doanh nghiệp khi mới tham gia thị trường, tuy nhiên cũng có nhiều hạn
chế như chậm, độ chính xác không cao. Thông tin có thể lấy qua sách báo, mạng
internet... cũng có thể lấy thông tin từ các tổ chức quốc tế như trung tâm thương
mại quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế, tổ chức phát triển liên hợp quốc, phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam...
- Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: việc thu thập thông tin theo
phương pháp này chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Đây
Phạm Thị Nhàn 5 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Phương pháp này chủ yếu
thu thập thông tin trực tiếp và qua quan hệ giao tiếp với thương nhân và người tiêu
dùng. Đây là nguồn thông tin đem lại cho doanh nghiệp độ chính xác cao. Nhưng
phương pháp này tốn kém đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn lực tài chính đủ
mạnh để có thể nghiên cứu thị trường theo phương pháp này.
Các phương pháp này giúp cho doanh nghiệp có thể định hướng tốt hơn cho
việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp phân
tích được các yếu tố cung,cầu thị trường và các điều kiện khác của thị trường.
Giá cả hàng hoá không chỉ là phương tiện tính doanh thu mà còn là phương
tiện để bán hàng. Nên muôn bán được sản phẩm thì yếu tố không thể thiếu được
đó là vấn đề nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, giá cả hàng hoá
còn phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới có ảnh hưởng tới
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu.
Các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo các trình tự sau:
- Xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu thị trường
- Lựa chọn phương pháp nghiên cứu

- Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
- Thực hiện các hoạt động điều chỉnh và viết báo cáo.
1.2.2 Xác định nhu cầu của thị trường xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ xác định cho
mình thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Để cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu
quả thì nhất thiết doanh nghiệp cần phải xác định chính xác nhu câu của thị
trường là như thế nào, để từ đó đưa ra được chiến lược sản xuất kinh doanh phù
hợp với doanh nghiệp và có hiệu quả cao.
Nghiên cứu thị trường đã giúp cho doanh nghiệp xác định được phong tục
tập quán, thị hiếu tiêu dùng, thu nhập, và dự đoán được khả năng thanh toán của
khách hàng. Từ đó đưa ra những chiến lược sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng.
Phạm Thị Nhàn 6 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu và lựa chọn được thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ
tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng. Để có thể ký kết hợp đồng mua bán với
nhau, hai bên mua bán thường phải tiến hành giao dịch, thương lượng về các điều
kiện giao dịch. Các bước giao dịch thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá (inquiry): Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước
vào giao dịch, nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề
nghị người bán báo cáo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Người mua có thể hỏi về: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, địa
điểm giao hàng, phương thức thanh toán...
- Phát giá hay chào hàng ( offer): luật pháp coi đây là lời đề nghị ký hợp
đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng
trong buôn bán thì phát giá lại là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý
định bán hàng của mình.
Trong chào hàng người ta nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số
lượng...

- Đặt hàng ( order): lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người
mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá ( couter offer): là việc mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao
dịch.
- Chấp nhận (accpetance): là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện của
chào hàng mà phía bên kia đưa ra.
- Xác nhận (confirmation): hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả
thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cần thận trọng ghi lại mọi điều đã
thoả thuận và gửi cho bên kia- đó gọi là văn kiện xác nhận. Văn kiện đó do bên
bán gửi gọi là xác nhận bán hàng, do bên mua gửi gọi là giấy xác nhận mua hàng.
Sau khi đã giao dịch thì doanh nghiệp sẽ tiến hành ký kết hợp đồng. Một số
đặc điểm của hợp đồng xuất khẩu bao gồm:
Luật điều chỉnh: là luật của nước xuất khẩu, nhập khẩu và điều ước quốc tế
mà hai bên thoả thuận và can kết thực hiện. Ngoài ra còn quy định chủ thể hợp
đồng, ngôn ngữ trong hợp đồng, đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán.
Phạm Thị Nhàn 7 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do vậy các doanh nghiệp trước khi ký kết hợp đồng giao dịch cần hiểu và
nắm chắc các điều kiện cơ bản của hợp đồng kinh doanh xuấtt khẩu gồm các điều
kiện:
- Điều kiện về đơn hàng.
- Điều kiện về phẩm chất.
- Điều kiện về số lượng.
- Điều kiện về cơ sở giao hàng.
- Điều kiện về giá cả.
- Điều kiện giao hàng.
- Điều kiện về thanh toán tiền trả.
- Điều kiện về khiếu nại và cách thức giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp
xảy ra…
1.2.4 Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu

Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một
địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện
xuất khẩu được.
Công tác thu mua tạo nguộn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ
trong kinh doanh mua bán, trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất
khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện chuyên môn hoá,
phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế, tiết kiệm nhân công giảm lao
động dư thừa đồng thời góp phần quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng theo
đúng tiêu chuẩn. Có nhiều hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu như mua theo đơn
đặt hàng, theo hợp đồng gia công...hoặc thông qua liên doanh, liên kết, đại lý...
Tạo nguồn hàng xuất khẩu gồm các nội dung sau: nghiên cứu nguồn hàng
xuất khẩu, tổ chức thu mua hàng cho xuất khẩu, ký kết hợp đồng trong tạo nguồn,
xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu, tiếp nhận bảo quản và xuất kho giao
hàng.
Phạm Thị Nhàn 8 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.5 Tổ chức việc thực hiện xuất khẩu
Sau khi doanh nghiệp đã có hàng hoá xuất khẩu theo đúng yêu cầu của đối
tác nước ngoài, doanh nghiệp sẽ tổ chức bán hàng ra nước ngoài. Việc bán hàng
dựa trên cơ sở hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp và đối tác. Doanh nghiệp
phải lựa chọn cho mình phương thức bán hàng xuất khẩu và chi phí thấp nhất song
lại tối ưu và hiệu quả nhất. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần thực
hiện các yêu câu sau:
- Xin giấy phép xuất khẩu.
- Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá.
- Thuê tàu lưu cước
- Mua bảo hiểm

- Làm thủ tục hải quan.
- Giao nhận hàng với tàu
- Giải quyết khiếu nại (nếu có).
1.2.6 Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện xuất khẩu doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm
tra giám sát các hoạt động để có các biện pháp kịp thời khắc phục những tình
huống phát sinh trong quá trình thực hiện xuất khẩu. Vì hoạt động kinh doanh xuất
khẩu sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài là hoạt động rất phức tạp và trải qua nhiều
khâu nên không thể tránh khỏi những rủi ro. Đồng thời doanh nghiệp phải đánh
giá các kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu xem có hiệu quả
không để đề ra những biện pháp thích hợp và rút ra kinh nghiệm cho những lần
xuất khẩu sau.
Và một trong những hoạt động quan trọng của hoạt động xuất khẩu là thanh
quyết toán hợp đồng:
Tiền hàng xuất khẩu có thể được thanh toán theo nhiều phương thức: thanh
toán bằng thư tín dụng, thanh toán bằng phương thức nhờ thu, phương thức tiền
mặt trao tay, Séc, uỷ nhiệm chi.
Thanh toán bằng thư tín dụng: Đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc
người mua ở nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được
Phạm Thị Nhàn 9 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu
bằng L/C đó, nếu L/C đó, nếu L/C không đáp ứng được yêu cầu cần buộc người
mua sửa chữa lại rồi mới giao hàng.
Sơ đồ thanh toán theo L/C:
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người NK Người XK
1.3 Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu
1.3.1 Nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
- Nhân tố kinh tế

Mọi doanh nghiệp khi quyết định xuất khẩu hàng hoá vào thị trường nào đó
cần nghiên cứu vấn đề kinh tế của thị trường đó. Đây là vấn đề quan trọng, là yếu
tố tiên quyết để có thể khẳng định quốc gia đó có hấp dẫn doanh nghiệp tiến hành
hoạt động xuất khẩu hay không?
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp: như thu nhập của người dân, mức sống của dân cư, nhu câu tiêu
dùng của người dân, khả năng chi trả của người dân... do vậy cũng ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao, mức tiêu thụ lớn thì quốc gia
nhập khẩu mà doanh nghiệp lựa chọn phải có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng
đều... Như vậy thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị
trường, và có thể ổn định được sức mua của người tiêu dùng. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp quyết định xuất khẩu hàng hoá vào quốc gia có nền kinh tế biến
động thì thị trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ không ổn định, do vậy sẽ
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó có
Phạm Thị Nhàn 10 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể thâm nhập vào thị trường đó và sẽ không thể nghĩ tới việc mở rộng thị trường
kinh doanh của mình.
- Nhân tố chính trị, pháp luật.
Tình hình chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế
của quốc gia đó. Và chính trị cũng là nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất
khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp vào quốc gia đó.
Chính trị thường gắn liền với kinh tế của mỗi quốc gia. Chính trị không ổn
định sẽ không thể tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh.
Đồng thời nếu nước đó có nền chính trị thông thoáng sẽ có nhiều chính sách tạo cơ
hội cho doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường. Chính trị không ổn định thì kinh
tế rất khó có thể phát triển. Do đó nếu doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào quốc
gia có nền chính trị ổn định thì sẽ rất có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt, nếu
nước xuất khẩu lại có mối quan hệ chính trị ngoại giao tốt đẹp với nước ta thì việc

nhập khẩu sẽ rất thuận lợi. Do đó, phải tiến hành đánh giá cơ hội kinh doanh của
đồng thời tìm tòi hướng kinh doanh phù hợp trên thị trường sao cho đạt hiệu quả
cao nhất. Doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu hàng hoá vào thị trường có nhu
cầu về hàng hóa của mình nhưng nếu giữa các quốc gia có sự khác biệt về nền
chính trị thì doanh nghiệp nên chọn xuất khẩu hàng hoá vào quốc gia có nền chính
trị ổn định hơn- môi trường kinh doanh sẽ an toàn hơn đối với doanh nghiệp.
Mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường trong nước cũng như thị trường
nước ngoài đều phải chịu sự kiểm soát của hệ thống pháp luật. Đặc biệt đối với
doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu thì hệ thống pháp luật mà doanh
nghiệp phải tuân theo là rất phức tạp cả hệ thống pháp luật trong nước lẫn hệ thống
pháp luật của nước nhập khẩu. Do vậy phải nghiên cứu kỹ và tuân thủ hệ thống
pháp luật. Pháp luật điều tiết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hướng dẫn
doanh nghiệp phải làm gì, làm như thế nào để hoạt động kinh doanh diễn ra có
hiệu quả, đảm bảo tuân thủ pháp luật...
Pháp luật của mỗi quốc gia đều quy định rõ ràng hàng hoá nào được phép
kinh doanh, hàng hoá nào không được phép kinh doanh; đồng thời quy định các
hàng rào thuế quan, phi thuế quan để bảo vệ cho hàng hoá của nước nhập khẩu. Do
vậy doanh nghiệp cần phải nắm rõ và có sự hiểu biết đối với các hàng rào đó.
Phạm Thị Nhàn 11 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hệ thống pháp luật và nền chính trị của mỗi quốc gia vừa tạo cơ hội kinh
doanh cho doanh nghiệp đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với doanh
nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
- Nhân tố văn hoá.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng đặc trưng cho
quốc gia, dân tộc mình như phong tục tập quán, giá trị về chuẩn mực... Khi tiến
hanhg hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu kỹ vấn đề văn
hoá của nước nhập khẩu. Do các yếu tố thuộc về phong tục tập quán, giá trị chuẩn
mực... quy định thái độ và hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng xã hội.
Nếu muốn thâm nhập vào một thị trường nào đó thì cần phải xem sản phẩm

có phù hợp với phong cách tiêu dùng của nước nhập khẩu hay không? nếu không
quan tâm đến vấn đề đó thì doanh nghiệp không thể đưa sản phẩm của mình chiếm
lĩnh thị trường. Để làm tốt vấn đề này thì doanh nghiệp cần phải tăng cường công
tác nghiên cứu thị trường và nhu cầu của khách hàng nhằm đưa ra sản phẩm phù
hợp. Với mọi nền văn hoá thì đính hướng sản phẩm và các hoạt động khác theo
nền văn hoá của nước nhập khẩu chứ không nên cố gắng thay đổi phong cách tiêu
dùng của nước nhập khẩu. Riêng đối với sản phẩm giày dép thì ngoài những yếu
tố trên còn chiụ sự tác động của yếu tố thời trang. Đây là yếu tố đầu tiên mà doanh
nghiệp cần phải quan tâm khi tiến hành kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nhân tố khoa học - công nghệ
Khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá
trình kinh doanh thì sẽ làm giảm chi phí cho hoạt động kinh doanh, làm tăng hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp. Đặc biệt với tốc độ phát triển của khoa học- kỹ
thuật ngày nay thì tác động của khoa học kỹ thuật ngày càng trở nên sâu sắc thì
ảnh hưởng của nó tới hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mạnh mẽ. Máy
móc thiết bị tham gia vào hẩu hết các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên
yếu tố này lại càng trở nên quan trọng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu việc tiến
hành cải tiến máy móc. thiết bị sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng năng suất
lao động, giảm giá thành sản phẩm, và nâng cao chất lượng hàng hoá... Từ đó
giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các hàng hoá
Phạm Thị Nhàn 12 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác có mặt trên thị trường. Đồng thời trong quá trình vận chuyển hàng hoá, bảo
quản hàng hoá công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm lượng hao phí
và chi phí, thời gian...
Đặc biệt, EU có ngành công nghiệp giầy từ rất lâu với quy mô sản xuất lớn
và tiên tiến. Công nghệ sản xuất, máy móc, dây chuyền sản xuất giày của EU luôn
được đầu tư và đổi mới, nâng cao, đạt tới trình độ tinh xảo. Do đó mà sản phẩm
giày mà thị trường sản xuất ra có chất lượng cao và tinh xảo. Đây cũng là một khó

khăn lớn đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường này.
- Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác
Thị trường EU là một thị trường đầy tiềm năng không chỉ đối với các
doanh nghiệp nước ta mà còn rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của các quốc
gia trên thế giới. Do vậy, cạnh tranh trên thị trường này là rất khốc liệt. Trên thế
giới hiện nay quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. mở ra cơ hội
kinh doanh cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Do vậy số lượng doanh
nghiệp trên thị trường này là rất lớn. Các công ty xuyên quốc gia phát triển mạnh,
các quốc gia, các công ty đều muốn mở rộng thị trường, thị phần của mình.
Do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải
luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượn sản
phẩm, cải tiến mẫu mã...
Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng, đổi mới nhanh đáp ứng nhu cầu
của thị trường thì cơ hội kinh doanh sẽ rất lớn và sẽ dần khẳng định được vị thế
của mình trên thị trường. Doanh nghiệp nào khả năng thích ứng, đổi mới chậm thì
sẽ không thu được lợi nhuận cao và hoạt động kinh doanh không có hiệu quả.
Cái khó của các doanh nghiệp giày Việt Nam là: nếu tham gia thị trường
giày dép sản phẩm chất lượng cao cấp thì không cạnh tranh được với sản phẩm
của chính các quốc gia nội khối như Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức. Còn
nếu trong sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì không cạnh tranh được
với sản phẩm sản xuất hàng loạt của Trung Quốc. Chính lý do này đã buộc các
doanh nghiệp giày Việt Nam thời gian qua phải chọn hướng đi là làm gia công cho
các đối tác từ EU nà chưa có nhiều sản phẩm giày trực tiếp vào thị trường này.
Phạm Thị Nhàn 13 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.2 Nhân tố bên trong ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
- Nguyên liệu đầu vào
Nguyên liệu đầu vào là yếu tố quan trọng cấu thành nên sản phẩm, hàng
hoá. Nó quyết định trực tiếp tới chất lượng và giá thành của sản phẩm hàng hoá.
Một doanh nghiệp nếu giải quyết tốt vấn đề nguyên vật liệu đầu vào thì sẽ

thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc sản xuất hàng hoá, sản phẩm và thâm nhập
thị trường. Chất lượng của sản phẩm hàng hoá sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào
nguyên vật liệu và trình độ lao động. Nên nếu doanh nghiệp giải quyết tốt các yếu
tố đầu vào thì sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được thuận
lợi đồng thời sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá
và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì nguyên vật liệu chủ yếu là nhập
khẩu từ nước ngoài, giá nhập khẩu cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. Đồng
thời, nguyên vật liệu phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên các doanh nghiệp không
chủ động được nguyên vật liệu đầu vào gây khó khăn cho sản xuất.
Do vậy doanh nghiệp cần phải chủ động hơn trong việc cung ứng nguyên
vật liệu, phải tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu trong nước: giá rẻ, ổn định...
- Nguồn lao động
Lao động là yếu tố không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh trong
bất cứ doanh nghiệp nào. Lao động là người trực tiếp tạo nên sản phẩm do đó trình
độ của người lao động là rất quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm và tạo nên giá
trị của sản phẩm. Đối với các quốc gia có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công
rẻ sẽ làm cho chi phí sản xuất sản phẩm giảm tạo điều kiện mở rộng và phát triển
thị trường xuất khẩu.
Đối với ngành giày dép, lao động chủ yếu là lao động giản đơn, có thể đào
tạo tại chỗ, vừa học vừa làm. Đồng thời nước ta có thuận lợi là một nước đông
dân, số người trong độ tuổi lao động lớn nên rất thuận lợi cho ngành giày dép.
Song với yêu cầu của thị trường đòi hởi doanh nghiệp cần phải tạo ra
những sản phẩm chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quy định do vậy doanh nghiệp cần
có biện pháp đào tạo người lao động, tạo cho người lao động có trình độ cao, có
Phạm Thị Nhàn 14 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tác phong công nghiệp, có khả năng sử dụng máy móc công nghệ hiện đại và tạo
ra sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
- Máy móc, trang thiết bị, công nghệ

Máy móc thiết bị công nghệ là yếu tố cần thiết trong việc gia tăng năng lực
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Máy móc thiết bị là một phần tất yếu của quá trình sản xuất. Ngày nat, khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão. Doanh nghiệp nào không kịp đổi mới kịp
thời thì sẽ không thể cạnh tranh được với những khác trên thị trường. Ngược lại,
nếu doanh nghiệp nắm bắt được công nghệ kỹ thuật tiên tiến thì sẽ cải tiến được
chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, tạo ra những sản phẩm có tính đồng bộ cao...
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, tăng sức cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường. Doanh nghiệp nào muốn đứng vững trên thị trường
cần phải đầu tư thích đáng vào việc áp dụng khoa học công nghệ sản xuất.
- Khả năng tài chính và quy mô sản xuất.
Vấn đề tài chính là một yếu tố không thể thiếu khi doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh. Nó quyết định hầu hết các vấn đề kinh doanh của doanh
nghiệp như áp dụng khoa học công nghệ, trả lương cho người lao động, mức độ
đãi ngộ... Nếu doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, có thể phát triển sản xuất
theo chiều rộng và theo chiều sâu. Đồng thời có thể tạo ra những sản phẩm có khả
năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Khi quy mô sản xuất càng lớn thì cùng với nó là khó khăn và thách thức
càng nhiều và đối thủ cạnh tranh càng lớn nên tiềm lực tài chính mạnh sẽ giúp cho
doanh nghiệp có những quyết định về chiến lược phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời có những quyết định mạnh bạo cho công
tác marketing sản phẩm, giúp khuyếch trương sản phẩm trên thị trường.
Quy mô sản xuất càng lớn thì đó cũng chính là lợi thế của doanh nghiệp.
Góp phần làm giảm chi phí sản xuất và vận chuyển, tăng lợi nhuận của doanh
nghiệp khi tham gia thị trường thế giới.
Phạm Thị Nhàn 15 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phạm Thị Nhàn 16 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIÀY DÉP

THỜI GIAN QUA
2.1 Khái quát về ngành giày dép Việt Nam và đặc điểm thị trường EU
2.1.1 Đặc điểm và vai trò hoạt động xuất khẩu giày dép.
 Đặc điểm
Giày dép luôn là mặt hàng có nhu cầu trên thị trường, được sự quan tâm
của tất cả mọi người, mọi lứa tuổi. Do vậy thị trường tiêu thụ giày dép là rất lớn.
Đồng thời ngành giày dép là ngành có hàm lượng chế biến cao, kỹ thuật sản xuất
đơn giản, tốc độ thay đổi kiểu dáng và mẫu mã nhanh. Việc sản xuất giày trên thị
trường có thể phát triển trên mọi vùng kinh tế, sản xuất không cần đòi hỏi quy mô
lớn, ít phụ thuộc vào biến động toàn cầu về năng lượng, nhiên liệu, nhưng lượng
giày dép tiêu thụ trên thị trường lại rất lớn và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc
độ tăng trưởng dân số hàng năm, mức tăng thu nhập và yếu tố giá cả.
Khi thu nhập của người dân càng cao thì nhu cầu về giày dép của người
tiêu dùng càng lớn đồng thời là yêu cầu về chất lượng sản phẩm, về chủng loại,
kiểu dáng đặc biệt là tính thời trang của sản phẩm càng cao.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu giày dép sang thị trường nước ngoài thì
cần phải gắn sản phẩm của mình với thị hiếu và thói quen tiêu dùng, đời sống văn
hoá của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu.
Thị trường giày dép ở 27 nước Châu Âu ( EU) có nhữn đặc trưng riêng,
song vẫn có những đặc điểm chung. Các đặc điểm chung này tạo nền tảng cơ bản
mang tính định hướng, đón đầu cho bất cứ doanh nghiệp nước ngoài nào. EU là
một thị trường đầy tiềm năng trong việc xuất khẩu giày dép của nước ta. Nhiều
năm qua, lượng giày dép nước ta xuất vào thị trường này đều đạt trên 70%. Do đó,
cơ hội sẽ mở ra ngày càng nhiều cho Việt Nam. Các đặc điểm chung của thị
trường giày EU:
- Sự già hoá dân số
Dân số EU đang có xu hướng già đi. Nhiều nhà xã hội học châu Âu đều có
chung nhận định rằng, xu hướng này sẽ diễn ra mạnh hơn trong tương lai, đặc biệt
Phạm Thị Nhàn 17 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368

với nhóm người có độ tuổi từ 65 trở lên. Tín hiệu lạc quan ở đây là chính những
người cao tuổi ở EU lại có sức chi tiêu rất mạnh đối với các sản phẩm giày dép.
Tuy nhiên, những người trong độ tuổi này (từ 65 trở lên) là những người nghỉ hưu,
sống bằng trợ cấp, thích đi bộ đường dài, du lịch dài ngày và thường xuyên. Vì
thế, sản phẩm giày dép cho họ cần được thiết kế đặc biệt với nhiều tính năng lý, hỗ
trợ cơ bắp nhiều hơn như chất liệu phải rất mềm, đếp thấp, lót êm, mũi êm, kiểu
dáng giản đơn, màu sắc không loè loẹt và phải có độ bền cao.
- Thời tiết và thời vụ
Thời tiết là chất xúc tác quan trọng nhưng “khó dùng” nhất. Vào mùa
đông, nên cung cấp nhiều hơn cho thị trường EU sản phẩm giày ống, trong khi
mùa hè người tiêu dùng lại ưa chuộng với sản phẩm dép lê hoặc có quai hậu. Với
thị trường EU, không thể cung cấp sản phẩm của một mùa mà dùng trong bốn
mùa.
Thời vụ cũng là chất xúc tác “khó dùng” không kém. Tính thời vụ của sản
phẩm giày dép châu Âu gắn chặt với tính thời vụ của thị trường quần áo. Điều này
cũng làm cho các nhà xuất khẩu giày dép, cũng như các nhà bán lẻ tại châu Âu lao
đao. Để hạn chế tình trạng này, các nhà xuất khẩu nước ta thường không sản xuất
vượt mức cầu, nhưng phải đa dạng hoá chủng loại dựa theo các dự báo xu hướng
thời trang tại EU để tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho người tiêu dùng vốn thích
thay đổi ở thị trường này.
- Từ sang trọng đến bình dân
Phong cách tiêu dùng của nhiều người tiêu dùng EU đang đi theo hướng từ
sang trọng đến... bình dân. Xu hướng này đang tiếp diễn mạnh mẽ và dự báo gia
tăng trong tương lai. Bằng chứng là các sản phẩm giày thể thao, giày vải hơi bụi,
thường chỉ dùng để đi chơi hoặc trong sinh hoạt gia đình, gần đây bỗng chiếm cảm
tình đặc biệt với giới văn phòng và công chức lớn tuổi.
Bên cạnh đó, việc xem thương hiệu là yếu tố số 1 để lựa chọn sản phẩm
giày dép sang trọng của nhiều người châu Âu đã phần nào giảm bớt. Người Pháp
thể hiện rõ nhất hiện tượng này. Người Đức cũng vậy. Theo Deichmann Group,
nhà bán lẻ hàng đầu tại Đức thì sự thoải mái, phù hợp và chất lượng là 3 yếu tố

quan trọng nhất đối với người tiêu dùng Đức, cho dù sản phẩm đó thuộc thương
Phạm Thị Nhàn 18 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiệu nào. Và số lượng người mua sắm theo quan điểm này chiếm đến 70% thị
trường giày dép ở Đức.
Các nhà xuất khẩu nhiều kinh nghiệm dự báo, người tiêu dùng EU đang bắt đầu
thú vị với những sản phẩm làm nên sự thoải mái hơn là các sản phẩm sang trọng,
lịch lãm.
- Thời trang và nữ giới
Các sản phẩm giày dép tuy không cần lịch lãm sang trọng như đã nêu trên
song vẫn phải thời trang. Người tiêu dùng châu Âu, đặc biệt là phái nữ có 2
khuynh hướng thời trang trong việc lựa chọn giày dép.
Một là, sản phẩm đó có mẫu mã đơn giản, giá cả trung bình nhưng phải đặc biệt
trong chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, phụ kiện trang trí.
Hai là, sản phẩm đó không đẹp nhưng phải có tính bền cao, thể hiện cá tính
mạnh. Ngoài ra, khoảng hơn một nửa doanh thu xuất khẩu giày dép vào EU của họ
tập trung vào nhóm giày dép nữ có mẫu mã đơn giản nhưng mang tính thời trang
cao. Trong nhiều năm tới, sản phẩm thời trang cho nữ được nhận định là rất tiềm
năng.
Hiện nay, người tiêu dùng nữ luôn chiếm xấp xỉ 50% tại các thị trường giày
dép ở Anh, Pháp, Đức. Dự báo tỷ lệ lao động nữ sẽ tăng mạnh tại các quốc gia Ý,
Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Hy Lạp trong nhiều năm tới. Điều
đó sẽ góp phần làm gia tăng giá trị cho thị trường giày dép thời trang tại các quốc
gia này. Đây sẽ là cơ hội cho những nhà xuất khẩu giày dép các nước nói chung và
nước ta nói riêng.
 Vai trò
Ngành giày dép có kim ngạch ngày càng tăng trong hệ thống các mặt hàng
chủ lực. Hiện nay, ngành công nghiệp giày dép đang phát triển rất nhanh. Ngành
giày dép là một trong ba ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta
đứng sau dầu thô và dệt may, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả

nước.
Giày dép đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng của mọi tầng lớp xã hội và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Ngành
giày dép góp phần to lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu ngoại tệ lớn góp
Phạm Thị Nhàn 19 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, ngành giày
dép đóng một phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm của người
lao động đặc biệt là lao động nữ. Hiện nay số lao động của ngành thì gần 80% là
lao động nữ. Từ đó góp phần ổn định đời sống của người lao động, thúc đẩy và
mở rộng mối quan hệ quốc tế của nước ta với các nước khác trên thế giới.
Xuất khẩu giày dép phát triển tạo đà cho doanh nghiệp có thể mở rộng quy
mô sản xuất, cải tiến máy móc kỹ thuật, nâng cao trình độ của người lao động,
phát triển các quỹ khen thưởng... nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.1.2 Đặc điểm thị trường EU
Liên minh châu Âu (EU) là hình thức hội nhập khu vực ở trình độ cao với
nhiều triển vọng tốt đẹp cho các nước thành viên và cho toàn châu Âu, đang phát
triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu trở thành khu vực phát triển nhất
hành tinh, đủ sức đối phó với các thách thức trong thế kỷ 21 cũng như là đối trọng
đáng kể của Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và góp phần cho hoà bình
và ổn định trên thế giới.
Vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, thương mại, tài chính, khả năng phòng thủ
của EU không ngừng tăng sau mỗi lần mở rộng, đặc biệt mở rộng lần thứ năm
thêm 10 thành viên và lần thứ 6 thêm 2 thành viên mới ở Đông và Nam Âu. Việc
này đặt ra cho tất cả các thành viên EU, châu Âu và thế giới rất nhiều vấn đề cần
được nghiên cứu xử lý, không chỉ kinh tế thương mại.
Hiến pháp mới của EU được soạn thảo theo hướng minh bạch hơn, dân chủ
hơn và hiệu quả hơn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ do các bất đồng về quyền
lực giữa nước lớn và nhỏ, giữa chính phủ quốc gia thành viên và bộ máy hành
pháp của khối, giữa thành viên cũ và mới về khoảng cách phát triển, về nhập cư,

lao động, an sinh xã hội, thâm hụt ngân sách, chính sách đối ngoại, an ninh phòng
thủ chung...
Đồng tiền chung châu Âu (Euro) sau 21 năm đã được lưu hành tại 12 nước thành
viên từ 1/1/2002, kết thúc quá trình nhất thể hoá về tiền tệ, một sự kiện quan trọng
thứ 2 sau việc Mỹ quyết định chấm dứt đổi USD ra vàng, làm cho vị thế của USD
bị hạ thấp.
Phạm Thị Nhàn 20 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện nay, với dân số đông trên 500 triệu người, đời sống cao vào loại nhất
thế giới, nhu cầu giày dép là rất lớn. Mỗi người dân một năm trung bình tiêu dùng
khoảng từ 4 đến 5 đôi giày. EU là thị trường giày lớn nhất thế giới, đồng thời cũng
có ngành sản xuất giày dép từ rất lâu đời với quy mô sản xuất lớn và tiên tiến.
Công nghệ sản xuất, máy móc, dây truyền sản xuất luôn được đầu tư đổi mới và
nâng cao đạt tới trình độ tinh xảo. Ngành công nghiệp này có vai trò quan trọng
trong việc giữ ổn định, tăng trưởng, duy trì lượng cung cấp giày dép ổn định và
chất lượng cao, tinh xảo, thời trang cho thị trường thế giới. Trong đó, Italia là
nước có vai trò chủ chốt trong công nghiệp giày khu vực Châu Âu. Quốc gia này
có quy mô sản xuất giày lớn nhất, sản lượng đứng đầu, chất lượng cao nổi tiếng
trên thế giới. Nhưng sức sản xuất giày của EU vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu.
Đồng thời, EU là thị trường khó tính người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm có chất
lượng cao và đặc biệt khi họ quyết định mua sản phẩm thì sản phẩm đó phải có
thương hiệu nổi tiếng. Xu hướng tiêu dùng của người tiêu dùng Châu Âu càng thể
hiện sự chú trọng cao hơn về chất lượng, kiểu dáng, xu hướng thời trang của thế
giới. Thị trường EU về cơ bản có những nhóm người tiêu dùng sau:
- Nhóm 1: có khả năng thanh toán cao, chiếm gần 20% dấn số EU, dùng
hàng chất lượng tốt nhất, giá cả đắt nhất hoặc những hàng hoá hiếm, độc đáo.
- Nhóm 2: có khả năng thanh toán trung bình, chiếm khoảng 68% dân số
EU, sử dụng hàng hoá chất lượng, giá cả thấp hơn nhóm 1.
- Nhóm 3: có khả năng thanh toán thấp, chiếm khoảng 10% dân số EU, sử
dụng hàng hoá chất lượng, giá cả thấp hơn nhóm 1 và nhóm 2.

Gía sản phẩm giày do EU sản xuất có giá thành quá cao so với một số
nhóm người tiêu dùng nên nhu cầu nhập khẩu giày dép của EU là rất lớn. Trong
đó, Đức là nước tiêu thụ lớn nhất, tiếp đó là Pháp khoảng 330 triệu đôi, Tây Ban
Nha là nước tiêu thụ giày thấp nhất mức tiêu thụ bình quân khoảng 110 triệu đôi.
Hiện nay, ngành công nghiệp giày của EU đang có xu hướng thu hẹp lại để
chuyển sang chuyên sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao sử dụng ít lao
động, chuyển dịch sản xuất sang các nước có lợi thế về giá nhân công rẻ ( chủ yếu
là thuê nước ngoài gia công).
Phạm Thị Nhàn 21 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khách hàng chủ yếu của nước ta là những khách hàng thuộc nhóm 2 và
nhóm 3. Đồng thời, thị trường có đặc tính là mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay
đổi nhanh. Xu hướng của những năm gần đây là dùng giày vải thay cho giày da
thiên về sử dụng chất liệu tự nhiên. Nhu cầu tiêu dùng của nữ thiên về tính thời
trang hơn so với trước kia chỉ quan tâm đến chất lượng. Đối với thanh thiếu niên
và trung niên có xu hướng dùng giày thể thao tạo cảm giác trẻ trung và mạnh mẽ.
2.1.3 Quan hệ Việt Nam -EU
Nhìn chung quan hệ Việt Nam-EU phát triển toàn diện theo hướng tích cực
đặc biệt về kinh tế thương mại phù hợp với lợi ích chiến lược của ta, góp phần tạo
thế cân bằng tích cực với các đối tác khác.
Chính sách của EU với Việt Nam nằm trong chính sách với các nước đang
phát triển, hợp tác trong khuôn khổ Việt Nam là thành viên của ASEAN, WTO.
Chính sách này được hình thành rõ nét trong các năm gần đây đang trong quá trình
vừa hoàn thiện vừa khai thác. Mặc dù thiện cảm về chính trị, ủng hộ giúp đỡ nhiều
mặt, đặc biệt viện trợ phát triển, cho đại bộ phận hàng xuất khẩu của Việt Nam
được hưởng ưu đãi GSP, nhưng EU chưa công nhận Việt Nam là nước kinh tế thị
trường.
Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước thành viên và với
thể chế EU đã hình thành từ lâu, phát triển mạnh vào những năm đầu của thập kỷ
1990, nhất là sau khi hai bên ký các Hiệp định về Hợp tác kinh tế, Thương mại,

Khoa học kỹ thuật với các mục tiêu:
- Đảm bảo các điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư
trên cơ sở cùng có lợi và dành cho nhau quy chế tối huệ quốc.
- Trợ giúp phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam , đặc biệt chú trọng cải
thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư nghèo.
- Trợ giúp các nỗ lực của Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế theo
cơ chế thị trường.
- Trợ giúp nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng lâu dài nguồn tài nguyên
thiên nhiên theo hướng phát triển bền vững.
Cùng với các Hiệp định giày dép, thoả thuận Việt Nam gia nhập WTO ký
năm 2004, quan hệ thương mại giữa EU với Việt Nam đã bước sang thời kỳ phát
Phạm Thị Nhàn 22 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển mới, mạnh mẽ và toàn diện hơn.
Việt Nam nhập khẩu từ EU nhiều máy móc, thiết bị công nghệ nguồn chất
lượng cao chiếm 10% kim ngạch nhập khẩu, chủ yếu gồm thiết bị toàn bộ, máy,
phụ tùng, phương tiện vận tải bao gồm cả máy bay, tàu biển, ô tô, xe lửa, nguyên
liệu, hoá chất, tân dược, phân bón, vật liệu xây dựng, sắt thép, sản phẩm cơ khí,
hàng tiêu dùng cao cấp… Tuy vậy, thương mại dịch vụ chưa phát triển.
EU đồng thời là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam trong 19 lĩnh
vực gồm các dự án quản lý kinh tế, quản trị phát triển, tài nguyên, nông lâm thuỷ
sản, phát triển vùng, công nghiệp, năng lượng, thương mại, vận tải, truyền thông,
xã hội, y tế, phòng chống thiên tai, viện trợ nhân đạo, hỗ trợ về giới tính v.v…
Trong đó, các lĩnh vực/ngành nghề được tài trợ nhiều nhất là nông lâm thủy sản
(17,58%), tài nguyên (13,15%), y tế (9,59%), phát triển xã hội (9,58%). Ngoài ra,
các nước thành viên EU còn cung cấp vốn ODA thông qua các tổ chức tài chính đa
phương.
Hiện nay 19 trong số 27 nước thành viên EU có các dự án đầu tư vào Việt
Nam. Tính đến 3/2006, EU có 551 dự án với tổng vốn đăng ký 7,34 tỷ USD, thực
hiện 4,06 tỷ USD. Trong đó, Pháp dẫn đầu với 168 dự án tổng vốn đầu tư 2,8 tỷ

USD, tiếp theo là Hà Lan 62 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2 tỷ, Anh 70 dự án,
tổng vốn đăng ký là 1,28 tỷ USD.
Các nhà đầu tư EU đó có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của
Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và xây dựng (280 dự án với
tổng vốn đầu tư là 4,18 tỷ USD, chiếm 54,8 % số dự án và 59,8 % tổng vốn đầu
tư), trong đó công nghiệp nặng có 118 dự án với tổng vốn đầu tư gần 1,97 tỷ USD,
tiếp theo là khai thác dầu khí 6 dự án với 1,32 tỷ USD. Trong lĩnh vực dịch vụ, EU
có 181 dự án với tổng vốn 2,43 tỷ USD (chiếm 35,4 % số dự án và 34,6 % tổng
vốn đầu tư). Còn lại là nông, lâm nghiệp - 50 dự án với tổng vốn đầu tư là 457,6
triệu USD.
Nhìn chung, các nhà đầu tư Châu Âu có ưu thế về công nghệ, vì vậy đã
góp phần tích cực trong việc tạo ra một số ngành nghề mới và sản phẩm mới có
hàm lượng công nghệ cao. Một số tập đoàn lớn của EU đang hoạt động có hiệu
quả tại Việt Nam như BP (Anh), Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp Bỉ),
Phạm Thị Nhàn 23 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Daimler Chrysler (Đức), Siemen, Alcatel Comvik (Thuỵ Điển)…. Xu thế đầu tư
của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, tuy
nhiên, gần đây có xu hướng phát triển tập trung hơn vào các ngành dịch vụ (bưu
chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ
2.2 Tình trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước của nước ta trong những năm gần
đây liên tục tăng. Đặc biệt, sau một năm trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu
hàng hoá của nước ta đạt được kết quả quan trọng, vượt kế hoạch đề ra, thị trường
xuất khẩu tiếp tục được mở rộng cả ở thị trường truyền thống và các thị trường
mới có nhiều tiềm năng. Gía trị xuất khẩu hàng hoá của nước ta năm 2007 đạt 48
tỷ USD tương đương 67,4% GDP, tăng 20,5% so với năm 2006. Bình quân mỗi
tháng xuất khẩu đạt 4 tỷ USD (bình quân mỗi tháng của năm 2006 đạt 3,3 tỷ USD)
mức cao nhất từ trước tới nay.

Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 2004-2008
Đơn vị :( triệu USD)
Năm 2004 2005 2006 2007 KH 2008
Kim ngạch 26485 32420 39826 48000 57120
Biểu đồ 1 : Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 2003-2008
Phạm Thị Nhàn 24 Lớp: Thương mại 47B
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.2 Hoạt động xuất khẩu giày dép thời gian qua.
Sản xuất giầy dép của nước ta từ năm 1991 trở về trước, hầu như chỉ có
tiêu thụ nội địa, không có xuất khẩu. Đến năm 1992 ngành Da giầy đã xuất khẩu
được 5 triệu USD và đã liên tục tăng trưởng với tốc độ cao từ năm 1993 đến nay.
Sau 10 năm xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu da giầy đã tăng 369,2 lần, đó là tốc độ
tăng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác trong thời gian tương
ứng.
Ngành da giày nước ta là ngành công nghiệp đạt vị trí thứ ba về kim ngạch
xuất khẩu, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Là
ngành có định hướng xuất khẩu rõ rệt (chiếm trên 90% sản lượng sản xuất), tỷ lệ
xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Việt Nam luôn là 1 trong 10 nước sản xuất và xuất khẩu giày lớn nhất thế
giới.
Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu, EU là thị trường xuất khẩu giày
lớn của ngành giày da Việt Nam, hàng năm có khoảng 90% sản phẩm do ngành
sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường, trong đó thị trường EU chiếm tỷ
trọng 59%. Hiện tại, hàng giày da của nước ta xuất sang thị trường EU đứng thứ 2
sau Trung Quốc và chiếm tỷ trọng lớn trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU. Các năm trước EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng
trong những tháng đầu năm 2008 thì Mỹ đã vươn lên đứng đầu.
Bên cạnh đó, khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, hàng hoá nước ta
cũng gặp nhiều khó khăn. Ngày 07/07/2005 Uỷ ban châu Âu (EC) chính thức
thông báo quyết định mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm mũ da

của Việt Nam và Trung Quốc theo đơn kiện của Liên minh ngành sản xuất giày da
của Châu Âu, đại diện cho các nhà sản xuất tới hơn 40% tổng sản lượng giày có
mũ da của EU. Có 115 doanh nghiệp Việt Nam đã tự nguyện tham gia hợp tác đầy
đủ với EC trong tiến trình điều tra, và có 60 nhà sản xuất của nước ta bị liệt kê
trong đơn kiện.
Thuế chống bán phá giá của EU đối với giày mũ da của nước ta là nguyên
nhân chính làm cho kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU bị giảm. Tác động của
việc kiện bán phá giá là doanh nghiệp da giày đối mặt với tình trạng thiếu đơn
Phạm Thị Nhàn 25 Lớp: Thương mại 47B

×