Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Pháp lí về hợp tác khai thác chung trong Vịnh Thái Lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.78 KB, 5 trang )

Bài làm
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực từ
16/11/1994. Công ước đã taọ ra một trật tự pháp lí mới trên biển và việc phân
chia lại các nguồn tài nguyên biển cả. Vịnh Thái Lan cũng như khu vực Đông
Nam Á là một trong những khu vực có quá trình phân định biển diễn ra hết sức
chậm chạp. Vịnh Thái Lan được đặc trưng bởi sự chồng chéo các khu vực chồng
lấn. Vùng yêu sách của Thái Lan, Việt Nam và Campuchia chồng lên vùng
chồng lấn Việt Nam – Thái Lan, vùng chồng lấn Campuchia – Thái Lan và
Campuchia – Việt Nam; vùng chồng lấn ba bên Thái Lan – Malaysia – Việt
Nam chồng lên “vùng xác định” Việt Nam – Malaysia. Để giải quyết hòa bình
các tranh chấp, khai thác được tài nguyên mà không làm ảnh hưởng đến kết quả
phân định cuối cùng, các bên thường có xu hướng dựa vào giải pháp khai thác
chung (KTC).
1) Những vấn đề pháp lí về hợp tác khai thác chung trong Vịnh Thái
Lan
KTC có thể được áp dụng trong thực tiễn đối với các khu vực có hay
chưa có đường biên giới được xác định. Cơ sở của KTC có thể tìm thấy trong
khoản 3 của các Điều 74 và 83 của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển
năm 1982. Công ước không chỉ ra đích xác biện pháp mang tính chất tạm thời là
gì.Trên thực tế việc lập ra các vùng KTC là một trong những biện pháp tạm thời
cho phép các quốc gia vượt qua được những tranh chấp lãnh thổ, tạo điều kiện
dễ dàng cho việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên trong giai đoạn chuyển
tiếp. Các quốc gia hữu quan cần đàm phán trên tinh thần thiện chí để đạt được
các biện pháp tạm thời mang tính thực tiễn. Các quốc gia hữu quan được tự do
lựa chọn bất kì một biện pháp tạm thời nào cho khu vực chồng lấn miễn là
chúng phù hợp với luật quốc tế. Trong bối cảnh cần ngăn ngừa mọi việc khai
thác làm phương hại đến yêu sách của các bên đồng thời lại tránh được việc lãng
phí không sử dụng được tài nguyên thì việc áp dụng chế độ KTC cho toàn bộ
hay một phần của khu vực chồng lấn là một giải pháp hấp dẫn và thú vị trong
khi chờ đợi sự phân định cuối cùng. Tuy nhiên, các Bản nghi nhớ MOU được kí
kết tại Vịnh Thái Lan không hoàn toàn dựa trên luật điều ước. Chúng đã được kí


kết trước khi Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 có hiệu lực (ngày
16/11/1994). Vậy liệu các bản ghi nhớ này có thể tìm thấy cơ sở pháp lí của
mình trong luật tập quán không?
1
Một số nhà nghiên cứu trên thế giới như T. Onorato cho rằng KTC có thể
là một quy tắc của luât tập quán, là một nguyên tắc bắt buộc của Luật quốc tế.
Theo ý kiến cá nhân em, trước hết, luật quốc tế yêu cầu các quốc gia có nghĩa vụ
phải tiến hành đàm phán thực chất để đi đến một kết quả phân định hay chí ít tới
một biện pháp tạm thời mang tính thực tiễn trong khi chưa có một thỏa thuận
cuối cùng. Điều đó có nghĩa là KTC chỉ là một giải pháp mang tính tạm thời,
không có nghĩa là bắt buộc. Thứ hai, số lượng các vụ sử dụng giải pháp KTC
không đủ để nói rằng đã tồn tại một ý kiến cho opinio juris về vấn đề này. Phân
định biển dứt khoát luôn là mục tiêu chính của các quốc gia. KTC chỉ là một giải
pháp tạm thời. Dường như KTC chưa đủ để được coi là một nguyên tắc bắt buộc
của luật quốc tế.
Trong cả hai trườn hợp ở Vịnh Thái Lan, các bên ký kết đều dùng hình
thức bản ghi nhớ MOU (bản ghi nhớ MOU giữa Thái Lan – Malaysia năm 1979
và bản nghi nhớ MOU giữa Malaysia – Việt Nam năm 1992) chứ không phải kí
kết một thỏa thuận (agrement) ở hình thức cao thể hiện rõ ràng ý chí chung của
hai bên. Về hình thức các bản ghi nhớ đúng là các điều ước quốc tế với đầy đủ
các thủ tục kí kết và trao đổi phê chuẩn. Nhưng bản ghi nhớ cho thấy một cách
thể hiện ở mức thấp hơn so với một thỏa thuận toàn bộ. Căn cứ vào nội dung,
bản ghi nhớ MOU không giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến tranh chấp,
chúng chỉ thể hiện ý chí của các quốc gia thiết lập KTC như là một biện pháp
tạm thời để vượt qua sự khác biệt quan điểm trong việc thỏa thuận, một đường
phân chia chính thức. Bản ghi nhớ MOU Việt Nam – Malaysia còn thể hiện sự
mềm dẻo hơn nữa khi giao cho hai công ty dầu lửa quốc gia thỏa thuận chi tiết
về việc quản lí các hoạt động dầu khí trong khu vực KTC. Điều này cho thấy hai
nước hết sức thận trọng và KTC không phải là một quy tắc bắt buộc của luật tập
quán. Biện pháp KTC đạt được là do ý chí trính chị, yếu tố kinh tế, tinh thần hợp

tác, mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia...
2) Thực tiễn về hợp tác khai thác chung Vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan là nơi diễn ra các mâu thuẫn về vùng biển chồng lấn giữa
nhiều quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Campuchia. Chính vì công
tác phân giới trong vịnh Thái Lan không hề dễ dàng nên các nước ven biển trong
vùng có xu hướng chọn các thỏa thuận tạm thời, chẳng hạn như ký kết các thỏa
thuận khai thác chung để giảm bớt xung đột và khai thác tài nguyên thiên nhiên
trong khi chờ đợi một sự phân định chính thức. Ngày 21/12/1979, Thái Lan và
2
Malaysia đã kí kết bản ghi nhớ về KTC đầu tiên trong khu vực, Hiệp ước về
vùng nước lịch sử chung Việt Nam – Campuchia ngày 7/7/1982 cũng đặt vùng
nước lịch sử chung Việt Nam – Campuchia dưới một chế độ sử dụng chung.
Trước khi kí được thỏa thuận phân định chính thức biên giới biển vào 8/1997,
Việt Nam và Thái Lan đã trù liệu tới khả năng có một vùng KTC. Việt Nam và
Malaysia cũng tìm được tiếng nói chung trong bản ghi nhớ MOU ngày 5/6/1992
về việc quy định chế độ thăm dò KTC “vùng xác định” giữa hai nước. Cuối
cùng, gần đây nhất Việt Nam, Thái Lan và Malysia đã tiến hành đàm phán về
khả năng có một thỏa thuận mới về khai thác chung giữa ba nước.
Tuy vịnh Thái Lan là khu vực tập trung nhiều thỏa thuận hợp tác chung
song giữa các thỏa thuận này cũng có những khác biệt lớn về nội dung. Khu vực
hợp tác chung Thái Lan - Malaysia và thỏa thuận về “khu vực xác định” của
Việt Nam - Malaysia đều là những thỏa thuận tạm thời theo đúng tinh thần của
Điều 74(3) và Điều 83(3) của Công ước Luật Biển 1982. Nếu tính đến việc một
số mỏ hydrocarbon được phát hiện trong hai vùng này và các nỗ lực khai thác
chung đang được triển khai thì hai thỏa thuận trên có thể xem là những bài học
thành công.
Tuy nhiên, trường hợp của Thái Lan - Malaysia là một minh chứng cụ thể
về tầm quan trọng của “ý chí chính trị” trong việc thực hiện thỏa thuận hợp tác
chung. Đây có thể xem là yếu tố quan trọng nhất để đi đến ký kết thỏa thuận hợp
tác vì nếu thiếu đi điều này, thỏa thuận chỉ là một cách “vẽ” lại vấn đề và có khi

càng làm cho nó phức tạp hơn. Bản ghi nhớ hợp tác giữa Thái Lan và Malaysia
được ký kết năm 1979, nhưng họ phải mất đến 11 năm mới trao đổi văn kiện
phê chuẩn để thỏa thuận chính thức có hiệu lực. Họ còn phải tốn nhiều thời gian
hơn để đi đến giai đoạn khai thác tài nguyên. Trong khi đó, chỉ bốn năm sau khi
ký thỏa thuận hợp tác Việt Nam - Malaysia, những lít dầu hỏa đã được khai thác
ở mỏ Bunga Kekwa vào ngày 29/7/1997. Sự kiện này là minh chứng cho thành
công rực rỡ của mô hình hợp tác chung Việt Nam - Malaysia trong vịnh Thái
Lan.
Rõ ràng là thỏa thuận khai thác chung của Việt Nam - Malaysia thể hiện
tính linh hoạt cao hơn mô hình của Thái Lan và Malaysia. Ủy ban Điều phối
được bổ nhiệm bởi các tập đoàn dầu khí nhà nước của mỗi bên, không phải bởi
chính phủ như trong mô hình Thái Lan - Malaysia. Bất kỳ tranh chấp hay bất
3
đồng nào liên quan đến việc khai thác dầu hoặc khía cạnh kinh tế sẽ được dàn
xếp giữa hai tập đoàn dầu khí, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Điều phối. Mọi quyết
định của Ủy ban Điều phối phải phù hợp với tinh thần hữu nghị, thận trọng và
thực tiễn của ngành dầu khí thế giới. Chỉ những tranh chấp không thể giải quyết
bằng con đường hữu nghị trong Ủy ban Điều phối với được chuyển giao cho
chính phủ hai nước. Vì vậy, chính phủ sẽ không can thiệp vào công việc kinh
doanh. Trong khi đó, thỏa thuận của Thái Lan - Malaysia lại hình thành nên một
cơ quan hợp tác chung để quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản ở vùng
đáy biển và vùng đất dưới đáy biển trong vòng 50 năm (kể từ khi thỏa thuận có
hiệu lực). Cơ quan này đồng chủ tịch bởi một đại diện phía Thái Lan và một đại
diện phía Malaysia, với số thành viên bằng nhau của mỗi bên. Chính cơ chế này
đã phần nào cản trở tiến độ hợp tác của hai nước trong việc thúc đẩy khai thác
chung. Như vậy, dù có cùng mục đích là hợp tác chung vì nguồn tài nguyên dầu
và khí đốt và được áp dụng cho các xung đột biển trong cùng khu vực song hai
mô hình khác nhau đã cho ra những kết quả rất khác nhau.
Hiệp ước về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia lại có những đặc
điểm khác biệt so với hai thỏa thuận hợp tác trên. Mục đích chính của hiệp ước

này lại nghiêng về tính chính trị nhiều hơn là việc khai thác tài nguyên. Hiệp
ước khẳng định chủ quyền các đảo từng bị tranh chấp trước đây và vì thế, ít nhất
một cách gián tiếp, làm giảm khu vực biển chồng lấn giữa hai bên. Những điều
khoản cuối cùng liên quan đến tuần tra chung, đánh bắt cá và khai thác tài
nguyên có phần nào giống với các thỏa thuận hợp tác chung khác trong vịnh
Thái Lan. Tuy nhiên, vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia về thực chất có
nhiều chức năng hơn là chỉ phục vụ một mục đích khai thác, bao gồm việc đánh
cá, khai thác tài nguyên và các hoạt động phi kinh tế khác như hợp tác tuần tra,
giám sát liên quan đến các vấn đề an ninh chiến lược.
Các sáng kiến về khu vực hợp tác chung đã góp phần gác lại những tranh
chấp về phân định để thúc đẩy khai thác nguồn tài nguyên dưới đáy biển, là ví
dụ điển hình về những biện pháp hữu hiệu cho bài toán hợp tác quản lý tài
nguyên. Tóm lại, các thỏa thuận này về cơ bản thể hiện ý chí hợp tác cùng giải
quyết xung đột./.
Tài liệu tham khảo
4
1. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982
2. Bản ghi nhớ Việt Nam- Malaysia về thiết lập chế độ khai thác chung ở
vùng chồng lấn năm 1992
3. Hiệp định về vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam – Campuchia
năm 1982
4. Bản ghi nhớ khai thác chung Thái Lan-Malaysia 1979
5. Thoả thuận trên nguyên tắc khai thác chung Việt Nam-Thái Lan-
Malaysia trong vùng chồng lấn ba nước trong Vịnh Thái Lan 1999
6. Khai thác chung trong Vịnh Thái Lan: những vấn đề pháp lý - Nguyễn
Hồng Thao – Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện nhà nước & pháp
luật, Số: 03, 04/ Năm 2000.
7. Vấn đề khai thác chung trên các vùng biển – Thách thức và triển vọng
đối với Việt Nam. / PGS.TS. Nguyễn Bá Diến - Tạp chí Nhà nước và
pháp luật. Viện nhà nước & pháp luật, Số: 01/ Năm 2007 tr 71 – 79

8.
5

×