Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.4 KB, 43 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
KHOA LUẬT KINH DOANH
BÀI THUYẾT TRÌNH
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
GIẢNG VIÊN: ThS. Ngô Thụy Hải Xuân
ĐỀ TÀI:
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ
(Công ước viên 1980)
United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods
THÀNH VIÊN NHÓM 1B
1. Từ Thụy Xuân Diệu MSSV: 1098620011
2. Bùi Quang Minh MSSV: 1088620118
3. Vũ Ngọc Nhân MSSV: 1098620042
4. Trương Thị Bảo Ngọc MSSV: 1098620039
5. Nguyễn Hải Phụng MSSV: 1098620045
6. Nguyễn Xuân Thuỷ MSSV: 1088620192
7. Đặng Thị Ngọc Trâm MSSV: 1098620414
LỚP: LUẬT KINH DOANH – VĂN BẰNG 2 – KHÓA 12
NGÀY HỌC: TỐI THỨ 2/4/6
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 1/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
MỤC LỤC
1/ Giới thiệu lịch sử hình thành……………………………………………………….
2/ Quá trình tham gia của các nước vào Công ước Viên …………………………….
3/ Ý nghĩa của CISG đối với luật pháp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa…….
4/ Nội dung chính của Công ước……………………………………………………...
5/ Lợi ích của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên 1980………………………….
5.1/ Lợi ích về kinh tế ……………………………………………………………
5.2/ Lợi ích về pháp lý …………………………………………………………...
5.3/ Các lợi ích khác ……………………………………………………………..
6/ Bất lợi của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên………………………………..


6.1/ Bất lợi về kinh tế ……………………………………………………………
6.2/ Bất lợi về pháp lý …………………………………………………………...
7/ Đề xuất và kết luận ………………………………………………………………...
7.1/ Khẳng định Việt Nam nên tham gia Công ước Viên 1980 …………………
7.2/ Khi nào nên tham gia và cách tận dụng những lợi ích của Công ước………
8/ Nghiên cứu tình huống……………………………………………………………..
9/ Phụ lục – Công ước viên bản tiếng Việt…………………………………...............
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………….
3
4
5
6
8
8
10
11
11
11
12
12
13
13
14
17
1/ Giới thiệu lịch sử hình thành
Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt
theo tiếng Anh là CISG- Convention on Contracts for the International Sale of Goods) được
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 2/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong một

nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Trên thực tế, nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế đã được khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ 20 bởi Unidroit (Viện nghiên cứu quốc tế về
thống nhất luật tư). Unidroit đã cho ra đời hai Công ước La Haye năm 1964: một Công ước có
tên là “Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình”, Công
ước thứ hai là về “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu hình”. Công ước thứ
nhất điều chỉnh việc hình thành hợp đồng (chào hàng, chấp nhận chào hàng). Công ước thứ hai
đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua và các biện pháp được áp dụng khi
một/các bên vi phạm hợp đồng.
Tuy vậy, hai Công ước La Haye năm 1964 trên thực tế rất ít được áp dụng. Theo các
chuyên gia có 4 lý do chính khiến các nước bài trừ ULIS và ULF và muốn phát triển một công
ước mới: (1) Hội nghị La Haye chỉ có 28 nước tham dự với rất ít đại diện từ các nước XHCN và
các nước đang phát triển, vì thế người ta tin rằng các Công ước này được soạn có lợi hơn cho
người bán từ các nước tư bản; (2) các Công ước này sử dụng các khái niệm quá trừu tượng và
phức tạp, rất dễ gây hiểu nhầm; (3) các Công ước này thiên hướng về thương mại giữa các quốc
gia cùng chung biên giới hơn là thương mại quốc tế liên quan đến vận tải biển; và (4) quy mô áp
dụng của chúng quá rộng, vì chúng được áp dụng bất kể có xung đột pháp luật hay không.
Năm 1968, trên cơ sở yêu cầu của đa số các thành viên Liên Hợp Quốc về một khuôn
khổ mới với “sự mở rộng ra các nước có nền pháp lý, kinh tế chính trị khác nhau”, UNCITRAL
đã khởi xướng việc soạn thảo một Công ước thống nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế cho hai Công ước La Haye năm 1964. Được
soạn thảo dựa trên các điều khoản của hai Công ước La Haye, song Công ước Viên 1980 có
những điểm đổi mới và hoàn thiện cơ bản. Công ước này được thông qua tại Viên (Áo) ngày 11
tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị của Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế với
sự có mặt của đại diện của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế. CISG có hiệu lực từ ngày
01/01/1988 (khi có 10 quốc gia phê chuẩn, theo Điều 99 của Công ước).
2/ Quá trình tham gia của các nước vào Công ước Viên
Kể từ khi được ký kết vào năm 1980 đến nay, Công ước Viên đã trải qua 30 năm với
nhiều dấu mốc trong việc mở rộng các nước thành viên. Có thể tạm chia các làn sóng gia nhập
CISG của các nước theo 4 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1 (1980-1988): Đây là giai đoạn 10 nước đầu tiên phê chuẩn Công ước để đủ
số lượng cho phép Công ước có hiệu lực. 10 nước này là: Ai Cập, Argentina, Cộng hòa Ả Rập,
Syrian, Hoa Kỳ, Hungary, Italy, Lesotho, Pháp, Trung Quốc, Zambia. Có thể thấy trong số 10
nước thành viên đầu tiên Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai thành viên rất đáng chú ý, vì Hoa Kỳ là
nền kinh tế lớn nhất thế giới, và Trung Quốc là quốc gia đầu tiên của Châu Á tham gia CISG.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 3/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Tuy nhiên cả hai quốc gia này đều tuyên bố bảo lưu Điều 1.1(b), khiến mức độ áp dụng và ảnh
hưởng của CISG tại hai quốc gia này giảm đáng kể.
Giai đoạn 2 (1989-1993): Đây là làn sóng thứ 2 của việc gia nhập Công ước, với 29
quốc gia, trong đó hầu hết là các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, lần lượt hoàn thành các thủ
tục phê chuẩn để tham gia Công ước. Thời gian này cũng đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống
XHCN tại Nga và Đông Âu, các nước này sau khi chuyển đổi nền kinh tế cũng đã nhanh chóng
hòa nhập với xu thế chung của các nước Tây Âu gia nhập Công ước Viên (trong quá trình đàm
phán Công ước Viên, Nga và các nước Đông Âu cũng đóng vai trò lớn trong việc soạn thảo, góp
ý kiến tại các hội nghị, vì vậy việc tham gia nhanh chóng của các quốc gia này cũng không đáng
ngạc nhiên). Đáng chú ý trong thời gian này có hai thành viên mới là Úc và Canada, hai nước có
nền kinh tế khá phát triển và áp dụng hệ thống Thông Luật. Việc tham gia của hai nước này đã
khiến đại diện hệ thống Thông Luật trong CISG tăng lên và thu hút sự chú ý của nhiều quốc gia
khác.
Giai đoạn 3 (1994-2000): Trong giai đoạn này rất nhiều nước đang phát triển ở châu Phi
và châu Mỹ, cũng như những quốc gia cuối cùng của EU (trừ Anh) như Bỉ, Ba Lan,
Luxembourg, Hy Lạp đã hoàn thành các thủ tục phê chuẩn và gia nhập Công ước. Singapore là
nước ASEAN đầu tiên gia nhập CISG vào năm 1995. Luật pháp Singapore dựa trên cở sở nền
tảng Thông luật của Anh, từ lâu đã được xem là luật quốc gia có tính chất trung dung, quy định
chặt chẽ đầy đủ, và được nhiều doanh nhân ưa thích áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế
của mình. Vì vậy, mặc dù khi gia nhập Singapore có bảo lưu điều 1.1(b) nhằm hạn chế áp dụng
Công ước, việc tham gia CISG đánh dấu nỗ lực to lớn trong việc tham gia thống nhất hóa luật
pháp thương mại quốc tế của quốc gia có nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa trên thương mại
quốc tế này.

Giai đoạn 4 (2001-2010): Đây là giai đoạn mà nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự
phát triển mạnh mẽ và sự tăng cường vai trò của các nước đang phát triển mới nổi, trong đó nổi
bật là Trung Quốc, Braxin, và Ấn Độ. CISG đã chứng kiến một thời kỳ trầm lắng từ năm 2001-
2004 khi mà các vòng đàm phán trong khuôn khổ WTO đang diễn ra hết sức căng thẳng với sự
xung đột về lợi ích giữa các nước đang phát triển với nhiều đại diện mới nổi và các nước đã
phát triển. Trong giai đoạn này chỉ có 5 thành viên mới phê chuẩn Công ước là Saint Vincent và
Grenadines, Colombia, Iceland, Honduras và Israel. Năm 2005 chứng kiến sự gia nhập quan
trọng của thành viên châu Á mới là Hàn Quốc, một trong 4 nước công nghiệp mới tại châu Á.
Sau nhiều năm tranh cãi về sự khác biệt giữa luật quốc gia và CISG, trong bối cảnh tại nước
láng giềng Nhật Bản, phong trào vận động Nhật Bản tham gia Công ước ngày càng mạnh mẽ,
các nhà làm luật tại Hàn Quốc cuối cùng đã được thuyết phục là việc áp dụng CISG sẽ giảm bớt
tính không dự đoán trước của các giao dịch thương mại quốc tế của mình khi phải áp dụng luật
của các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ và Đức. Việc gia nhập của Hàn Quốc đã khởi động lại
làn sóng nghiên cứu việc tham gia CISG tại các nước đang phát triển khác như Cyprus, Gabon,
Liberia, Montenegro, El Salvador, Paraguay, Lebanon, Albania, Armenia.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 4/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Cuối cùng, năm 2009 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của CISG tại châu Á khi Nhật
Bản, quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới và lớn nhất tại châu Á, cuối cùng đã trở thành
thành viên chính thức của CISG mà không có bảo lưu nào. Với sự kiện này, Anh sẽ là quốc gia
phát triển thuộc khối G7+1 cuối cùng chưa gia nhập Công ước Viên. Sau Nhật Bản, chắc chắn
nhiều quốc gia khác ở châu Á và khu vực ASEAN sẽ cân nhắc việc sớm tham gia Công ước, để
có thể áp dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình một cách chủ động, khi mà
các bạn hàng lớn đều đã là thành viên của Công ước này.
3/ Ý nghĩa của CISG đối với xu hướng thống nhất luật pháp quốc tế về hợp đồng mua
bán hàng hóa
Thống nhất và hài hòa hóa luật pháp quốc tế về hợp đồng thương mại là một xu hướng
phát triển tất yếu của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế hiện nay đã trở thành một phần
quan trọng của nền kinh tế.


Việc giảm thiểu chi phí giao dịch quốc tế là một mục tiêu quan trọng
của tất cả các chính phủ cũng như các doanh nghiệp, trong đó một biện pháp hữu hiệu là đơn
giản hóa giao thương quốc tế bằng cách xóa bỏ các rào cản pháp lý và tăng cường tính ổn định
pháp luật của giao dịch quốc tế. Để thực hiện điều này, việc tạo ra một bộ luật thương mại quốc
tế thống nhất trong khuôn khổ CISG mang lại rất nhiều lợi ích không cần phải bàn cãi.
Trong số các nỗ lực thống nhất luật pháp hợp đồng quốc tế, Công ước Viên được đánh
giá là hết sức thành công, bởi ngôn ngữ luật chung, quy mô và tính chất áp dụng bắt buộc của
nó. Ý nghĩa của CISG được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, so với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa (như các công ước
Hague 1964) CISG là Công ước quốc tế có quy mô lớn hơn hẳn về số quốc gia tham gia và mức
độ được áp dụng. CISG cũng trở thành nguồn luật trong nước của rất nhiều quốc gia.
Thứ hai, CISG được đánh giá là ông tổ của Các nguyên tắc UNIDROIT hay Các nguyên
tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL). Trên cơ sở nền tảng của CISG, Các nguyên tắc này đã
trở thành một nguồn luật quốc tế quan trọng, được nhiều quốc gia và doanh nhân sử dụng trong
thương mại giao dịch quốc tế.
Thứ ba, CISG cũng được khuyến khích áp dụng cho các giao dịch không thuộc khuôn
khổ CISG như một Lex Mercatoria.

Nhiều doanh nhân các nước đã tự nguyện áp dụng áp dụng
CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình mặc dù các giao dịch này không thuộc
phạm vi áp dụng của Công ước.
4/ Nội dung chính của Công Ước
Công ước Viên 1980 gồm 101 Điều, được chia làm 4 phần với các nội dung chính sau:
Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (Điều 1- 13)
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 5/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Như tên gọi của nó, phần này quy định trường hợp nào CISG được áp dụng (từ Điều 1
đến Điều 6), đồng thời nêu rõ nguyên tắc trong việc áp dụng CISG, nguyên tắc diễn giải các
tuyên bố, hành vi và xử sự của các bên, nguyên tắc tự do về hình thức của hợp đồng. Công ước
cũng nhấn mạnh đến giá trị của tập quán trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế.

Phần 2: Xác lập hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng) (Điều 14- 24)
Trong phần này, với 11 điều khoản, Công ước đã quy định khá chi tiết, đầy đủ các vấn đề
pháp lý đặt ra trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 14 của Công
ước định nghĩa chào hàng, nêu rõ đặc điểm của chào hàng và phân biệt chào hàng với các “lời
mời chào hàng”. Các vấn đề hiệu lực của chào hàng, thu hồi và hủy bỏ chào hàng được quy định
tại các điều 15, 16 và 17. Đặc biệt, tại các Điều 18, 19, 20 và 21 của Công ước có các quy định
rất chi tiết, cụ thể về nội dung của chấp nhận chào hàng; khi nào và trong điều kiện nào, một
chấp nhận chào hàng là có hiệu lực và cùng với chào hàng cấu thành hợp đồng; thời hạn để chấp
nhận, chấp nhận muộn; kéo dài thời hạn chấp nhận. Ngoài ra, Công ước còn có quy định về thu
hồi chấp nhận chào hàng, thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Về vấn đề xác lập hợp đồng mua bán, CISG thừa nhận quy tắc Chào hàn – Chấp nhận
chào hàng (offer-acceptance rule). Công ước quy định một thư chào giá phải được gửi đến một
hay một số người cụ thể, xác định và miêu tả đầy đủ về hàng hóa, số lượng, giá cả. Thư chào
hàng có thể được thu hồi nếu thư thu hồi đến khách hàng trước hoặc cùng lúc với thư chào hàng,
hoặc trước khi khách hàng gửi lại thư chấp thuận. Bất kỳ sự thay đổi nào với thư chào hàng ban
đầu đều được xem như sự từ chối thư chào hàng trừ phi các điều khoản sửa chữa không làm
thay đổi những điều khoản thiết yếu của thư chào hàng.
Phần 3: Mua bán hàng hóa (Điều 25 - 88)
Với tên gọi là “mua bán hàng hóa”, nội dung của phần 3 này là các vấn đề pháp lý trong
quá trình thực hiện HĐ. Phần này được chia thành 5 chương với những nội dung cơ bản như
sau:
Chương I: Những quy định chung
Chương II: Nghĩa vụ của người bán
Chương III: Nghĩa vụ của người mua
Chương IV: Chuyển rủi ro
Chương V: Các điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua
Đây là chương có số lượng điều khoản lớn nhất, cũng là chương chứa đựng những quy
phạm hiện đại, tạo nên ưu việt của CISG. Nghĩa vụ của người bán và người mua được quy định
chi tiết, trong hai chương riêng, giúp cho việc đọc và tra cứu của các thương nhân trở nên dễ
dàng. Về nghĩa vụ của người bán, Công ước quy định rất rõ nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao

chứng từ, đặc biệt là nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa được giao (về mặt thực tế
cũng như về mặt pháp lý). Công ước nhấn mạnh đến việc kiểm tra hàng hóa được giao (thời hạn
kiểm tra, thời hạn thông báo các khiếm khuyết của hàng hóa). Những quy định này rất phù hợp
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 6/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
với thực tiễn và đã góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh có liên quan. Nghĩa
vụ của người mua, gồm nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ nhận hàng, được quy định tại các điều
từ Điều 53 đến Điều 60.
Công ước Viên 1980 không có một chương riêng về vi phạm hợp đồng và chế tài do vi
phạm hợp đồng. Các nội dung này được lồng ghép trong chương II, chương III và chương V.
Trong chương II và chương III, sau khi nêu các nghĩa vụ của người bán và người mua, Công
ước Viên 1980 đề cập đến các biện pháp áp dụng trong trường hợp người bán/người mua vi
phạm hợp đồng. Cách sắp xếp điều khoản như vậy, một mặt, làm cho việc tra cứu rất thuận lợi;
mặt khác, cho thấy được tinh thần của các nhà soạn thảo CISG là tạo ra sự bình đẳng về mặt
pháp lý cho người bán và người mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Các biện pháp mà Công ước cho phép người bán và người mua áp dụng khi một bên vi
phạm hợp đồng bao gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng, đòi bồi thường thiệt hại, hủy hợp
đồng. Ngoài ra còn có một số biện pháp không có tính chất chế tài hoặc nhằm mục đích trừng
phạt bên vi phạm, ví dụ biện pháp giảm giá (Điều 50), biện pháp bên bị vi phạm gia hạn thời
hạn thực hiện nghĩa vụ để tạo điều kiện cho bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng (Điều 47
khoản 1 và Điều 63 khoản 1) hay những biện pháp mà bên vi phạm có thể đưa ra nhằm khắc
phục những thiệt hại do hành vi vi phạm của mình gây ra (Điều 48 khoản 1). Công ước cũng
quy định rõ trường hợp áp dụng các biện pháp cụ thể (ví dụ biện pháp hủy hợp đồng hay đòi
thay thế hàng chỉ được áp dụng trong trường hợp vi phạm cơ bản- khái niệm vi phạm cơ bản
được nêu tại Điều 25).
Chương V của Phần 3 quy định về vấn đề tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, vi
phạm trước hợp đồng, việc áp dụng các biện pháp pháp lý trong trường hợp giao hàng từng
phần, hủy hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Các Điều 74, 75, 76, 77, 78 của
CISG là những điều khoản được dẫn chiếu đến rất nhiều trong các án lệ áp dụng CISG, vì các
điều khoản này quy định rất chi tiết về một biện pháp được áp dụng phổ biến nhất trong giải

quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: đó là tính toán tiền bồi thường thiệt
hại. Các điều khoản khác trong chương này đề cập đến vấn đề miễn trách, hậu quả của việc hủy
hợp đồng và bảo quản hàng hóa trong trường hợp có tranh chấp.
Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101)
Phần này quy định về các thủ tục để các quốc gia ký kết, phê chuẩn, gia nhập Công ước,
các bảo lưu có thể áp dụng, thời điểm Công ước có hiệu lực và một số vấn đề khác mang tính
chất thủ tục khi tham gia hay từ bỏ Công ước này.
5/ Lợi ích của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên 1980
5.1/ Lợi ích về kinh tế
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 7/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Việt Nam đang trên con đường hội nhập một cách chủ động và tích cực vào nền kinh tế
thế giới, đẩy mạnh các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó thương mại hàng hóa vẫn là hoạt
động sôi động nhất là động lực và từ lâu đã đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng kinh tế
trong nước, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Do đó, việc
xác định một nguồn luật thống nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ mang lại
lợi ích kinh tế không nhỏ cho Việt Nam vì hầu hết các cường quốc thương mại trên thế giới đều
đã gia nhập Công ước Viên, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt
Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia, Trung Quốc…Các
công ty, doanh nghiệp của các nước này đã áp dụng và đã quen áp dụng Công ước Viên cho các
hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác nước ngoài.
CISG mang lại cho Việt Nam ba lợi ích kinh tế lớn sau:
• Thứ nhất, đơn giản hóa, giảm chi phí luật trong quá trình thương mại quốc tế
Như chúng ta đã biết, càng ít nhân tố gây trở ngại nền kinh tế càng tự do thì thị trường
càng hoạt động hiệu quả và có tính cạnh tranh cao. Trong đó nhân tố gây trở ngại lớn nhất cho
giao dịch thương mại quốc tế, đăc biệt cho những nước đang phát triển như Việt Nam, chính là
môi trường luật nước ngoài. Hơn nữa trong đàm phán ký kết hợp đồng giữa Việt Nam và các
nước phát triển thì luật được chọn để điều chỉnh thường là luật của các nước phát triển vì các
doanh nghiệp Việt Nam có ít thế và lực trong đàm phán lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
Điều này làm doanh nghiệp trong nước khó đánh giá được kết quả kinh doanh vì môi trường

luật của nước ngoài thường không ổn định và chứa đựng nhiều rủi ro.
Việc áp dụng CISG như một nền tảng luật cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
sẽ giảm sự bất ổn và các chi phí pháp luật liên quan.
CISG cung cấp một nguồn luật mà các thương gia_ thường là những người không
chuyên về luật_ dễ dàng hiểu rõ vì CISG được soạn thảo không phải bằng ngôn ngữ chuyên
ngành luật. Như vậy sẽ giảm chi phí nghiên cứu tìm hiểu luật trước khi ký hợp đồng hay có bất
kỳ tranh chấp nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng vì đã có một nguồn luật thống nhất.
Hơn nữa các doanh nghiệp trong nước sẽ ít phải áp dụng Luật nước ngoài, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp có cơ hội bảo vệ mình vì việc tham dự một phiên tòa tại nước ngoài, sử
dụng nguồn luật nước ngoài là bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đối tượng ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ pháp lý. Những
lợi ích do một văn bản thống nhất luật như Công ước Viên đem lại cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ càng lớn, thì chúng ta lại càng khẳng định những lợi ích mà Công ước này đem lại cho Việt
Nam, một quốc gia ở đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 80% số lượng các doanh
nghiệp.
• Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội cạnh tranh công bằng
trên thị trường quốc tế
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 8/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Nếu các bên làm hợp đồng trên một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng đánh giá các lựa
chọn, chào giá khác nhau trên thị trường về rủi ro, độ chặt và nghĩa vụ trong hợp đồng. Điều
này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, mang lại lợi ích về mặt
kinh tế không nhỏ.
• Thứ ba, tăng cường hoạt động trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới
Với tính chất là một văn bản thống nhất luật, Công ước Viên đã thống nhất hoá được
nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại
quốc tế phát triển.
Trong quá trình tiến hành trao đổi hàng hóa với các đối tác nước ngoài, việc áp dụng các
văn bản luật quốc gia sẽ gây nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh những xung đột pháp luật

với các nước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn. Khi gia nhập Công ước Viên,
Việt Nam sẽ thống nhất nguồn luật áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế với các nước đối
tác khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khi đó, các thương nhân Việt Nam và
thương nhân nước ngoài sẽ cùng chung tiếng nói, cùng chung một cơ sở pháp lý và các mối
quan hệ mua bán hàng hóa sẽ gắn chặt hơn, lâu bền hơn và rộng mở hơn nữa, tránh được các
tranh chấp phát sinh.
5.2./ Lợi ích về pháp lý
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế, việc tham gia Công ước Viên có thể đem lại những
lợi ích rõ ràng cho Việt Nam về mặt pháp lý.
• Thứ nhất, với nền kinh tế mới phát triển và mở cửa quốc tế chưa lâu, hệ thống quy phạm pháp
luật của Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế còn rất nhiều thiếu sót và cần nhiều nguồn luật
quốc tế bổ sung. Quan trọng hơn, như trên đã phân tích, các quy định này hầu hết được soạn
thảo để điều chỉnh quan hệ dân sự trong nước, chứ không có những quy định cụ thể, riêng biệt
cho giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế. Việc tham gia và áp dụng CISG sẽ giúp hoàn thiện hệ
thống quy định pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế theo hướng ổn định, rõ ràng,
công bằng hơn và phù hợp với xu thế chung của luật pháp quốc tế.
• Thứ hai, là một hệ thống Dân luật (Civil Law), cách tiếp cận của hệ thống luật Việt Nam khá
trùng khớp với Công ước Viên, vì thế khi tham gia CISG Việt Nam sẽ không gặp phần lớn
những khó khăn về tìm hiểu và áp dụng án lệ như trường hợp của các nước theo hệ thống Thông
luật (Common Law), cũng như sẽ gặp ít khó khăn hơn về việc giải thích ngôn ngữ trong Công
ước.
• Thứ ba, việc CISG trở thành một phần luật nội địa sẽ tạo điều kiên cho việc xử án, xử trọng tài
tại Việt Nam trở nên thống nhất và dễ dàng hơn, bởi chỉ có một nguồn luật được giải thích và áp
dụng. Các doanh nhân, trọng tài viên, thẩm phán đều không cần xem xét, nghiên cứu và cân
nhắc bất kỳ nguồn luật nước ngoài nào khác ngoài CISG. Việc giải thích và áp dụng CISG dễ
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 9/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
dàng hơn rất nhiều việc viện dẫn đến một hệ thống luật địa phương, bởi vì việc diễn giải Công
ước được hỗ trợ bởi Các nguyên tắc UNIDROIT, PECL (theo cơ chế “bổ sung luật”), các Bình
luận Chính thức của Ban Tư vấn CISG, các án lệ của CISG đăng tải trên hệ thống dữ liệu

UNILEX, cũng như hàng ngàn bài viết học giả được đăng tải trên trang web chính thức của
CISG (PACE).
• Thứ tư, ngay cả khi Việt Nam không tham gia CISG, có nhiều trường hợp CISG vẫn sẽ được áp
dụng trong thương mại quốc tế có một bên Việt Nam tham gia, cụ thể là: (1) nếu quy phạm xung
đột dẫn chiếu đến luật một nước là thành viên CISG; (2) nếu các bên tham gia giao dịch cùng
lựa chọn áp dụng CISG; (3) khi trong hợp đồng các bên không lựa chọn luật áp dụng và cơ quan
giải quyết tranh chấp (tòa án hoặc trọng tài) lựa chọn CISG để giải quyết tranh chấp. Trong số
hàng nghìn án lệ về CISG, đã có một án lệ liên quan đến Việt Nam về tranh chấp giữa Công ty
thương mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và Công ty Ng Nam Bee (Singapore), được xét xử tại
Toà phúc thẩm - TAND Thành phố Hồ Chí Minh, bản án tuyên ngày 4/5/1996. Trong đó toà án
đã tham chiếu các điều 29, điều 53, điều 61.3 và 64.1 của CISG. Con số này chắc chắn sẽ còn
tăng lên trong tương lai, vì vậy việc tham gia CISG sớm sẽ giúp Việt Nam nhanh làm quen với
Công ước hơn.
5.3/Các lợi ích khác
Ngoài lợi ích về mặt kinh tế và pháp lý nói trên, việc Việt Nam tham gia Công ước Viên
cũng sẽ có ý nghĩa lớn về mặt chính trị và ngoại giao, vì CISG, vốn được xây dựng trên cơ sở
hài hòa hóa lợi ích của các nước XHCN và các nước tư bản, các nước phương Đông và phương
Tây, các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, được đánh giá là một Công ước rất
thành công và có ảnh hưởng bao trùm trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Với mục tiêu
phấn đấu trở thành đầu tàu của khối ASEAN trong việc là cầu nối phát triển quan hệ ASEAN
với các nước, tổ chức chính phủ khác trên thế giới, việc Việt Nam tham gia Công ước Viên sẽ
đánh dấu vai trò to lớn hơn nữa của Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển quan hệ quốc tế nói
chung.
6/ Bất lợi của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên
6.1/ Bất lợi về kinh tế
Những bất lợi về mặt kinh tế do CISG mang lại không đáng kể, các quốc gia thành viên
không có nghĩa vụ đóng góp về tài chính, không phải thành lập một cơ quan riêng để thực thi
Công ước, cũng không có bất kỳ nghĩa vụ báo cáo định kỳ nào. Nhìn chung, các nguyên tắc của
Công ước cũng phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật hợp đồng Việt Nam. Bộ luật
Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 đã được ban hành trên cơ sở tham khảo các

văn bản luật quốc tế, trong đó có Công ước Viên, và vì vậy, nhìn chung là tương thích với các
nguyên tắc của Công ước này. Với lý do đó, khi gia nhập Công ước Viên, Việt Nam không phải
sửa đổi pháp luật hiện hành và không phát sinh chi phí cho việc sửa đổi luật.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 10/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
Tuy nhiên, trong giao dịch buôn bán quốc tế, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có những điều
khoản hợp đồng chuẩn đặc thù ví dụ mua bán dầu, gạo, hoa quả tươi… và các doanh nghiệp
không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử dụng rộng rãi và quen thuộc này. Do đó cho dù
Việt Nam có gia nhập CISG thì Công ước này cũng không thể điều chỉnh tất cả các hợp đồng
mua bán quốc tế trong đó có Việt Nam tham gia. Hơn nữa việc áp dụng CISG cũng còn hạn chế
trong quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp của các nước
chưa tham gia công ước.
6.2/ Bất lợi về pháp lý
Khi tham gia Công ước Viên, Việt Nam có thể gặp một số trở ngại về pháp lý sau:
• Thứ nhất, nội dung Công ước Viên còn khá mới mẻ đối với hệ thống xây dựng pháp luật, tư
pháp và trọng tài ở Việt Nam, vì vậy các bên Việt Nam (doanh nghiệp, tòa án, trọng tài) cần có
nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao dịch
thương mại quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội dung CISG
cũng như thực tiễn áp dụng CISG trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. Điều này khiến việc
diễn giải, áp dụng CISG trong thực tế của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
• Thứ hai, trong hệ thống giáo dục pháp luật của Việt Nam nói chung (ngoại trừ một số rất ít
trường đại học chuyên ngành luật, hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có nội dung nào giới
thiệu, đào tạo chuyên sâu về CISG. Các doanh nghiệp, nhà thực hành luật Việt Nam cũng chưa
có diễn đàn nào riêng để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về CISG như tại nhiều nước khác trên
thế giới. Điều này cũng sẽ làm giảm sức mạnh, tiếng nói của các doanh nghiệp Việt Nam, và
khả năng xét xử tòa án, trọng tài tại Việt Nam khi có tranh chấp liên quan đến CISG.
• Thứ ba, một số chỉ trích của các nước đối với Công ước Viên ít nhiều đều đúng trong trường
hợp Việt Nam. Là kết quả của sự thỏa hiệp giữa quá nhiều bên, các điều khoản của CISG
thường không cụ thể, vì vậy được áp dụng không thống nhất tại các nước khác nhau, thậm chí
các tòa án khác nhau (tuy nhiên điều này có thể được giải quyết nếu nhận thức về CISG được

thống nhất giữa các nước). Trong quá trình soạn thảo, phê duyệt CISG, Việt Nam không có cơ
hội tham gia đóng góp ý kiến. Việc Công ước đề cao tính quốc tế, tránh áp dụng các cách hiểu,
hay sử dụng luật nội địa của các nước sẽ làm giảm ảnh hưởng của luật pháp Việt Nam đối với
việc bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam trong giao dịch thương mại quốc tế (tuy nhiên riêng về
vấn đề này bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng không mặn mà lắm với việc áp dụng luật
pháp Việt Nam vì pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn chưa đầy đủ,
nhiều quy định chưa phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và vì vậy, khó bảo vệ một cách
hiệu quả lợi ích của chính bên Việt Nam trong quan hệ hợp đồng). Khác với WTO, Công ước
Viên không có cơ chế sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với sự thay đổi cán cân lợi
ích của các thành viên (mỗi thay đổi trong Công ước sẽ phải được sự đồng ý, phê chuẩn của tất
cả các thành viên). Công ước hiện chưa có bản chính thức bằng tiếng Việt, việc bất đồng ngôn
ngữ có thể sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau khi áp dụng Công ước, v.v.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 11/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B

7/ Đề xuất và kết luận
Căn cứ trên các phân tích trên, nhóm cộng tác có một số kết luận và đề xuất như sau:
7.1/ Khẳng định Việt Nam nên tham gia Công ước Viên 1980
Như đã phân tích những thành công và ý nghĩa của CISG trong việc hài hòa hóa và thống
nhất hóa luật quốc tế về mua bán hàng hóa quốc tế. Qua những phân tích về lợi ích về kinh tế,
pháp lý và các mặt khác, cũng như một số bất lợi khi Việt Nam tham gia CISG, đồng thời tham
khảo quan điểm về CISG ở một số quốc gia khác như Anh, Nam Phi, Nhật Bản, chúng tôi nhận
thấy, mặc dù rất khó lượng hóa những lợi ích mà việc tham gia CISG mang lại cho Việt Nam,
có thể khẳng định những lợi ích này là chắc chắn, rõ ràng và vượt trội hoàn toàn so với những
bất lợi khi Việt Nam gia nhập Công ước. Ngoài ra, có nhiều bất lợi của Việt Nam chỉ là tạm
thời, vì chúng vừa mang tính khó khăn, nhưng cũng vừa mang tính cơ hội, thử thách khi Việt
Nam muốn mở rộng nền kinh tế ra quốc tế (ví dụ như những hiểu biết về CISG, bất đồng về
ngôn ngữ, v.v.). Như rất nhiều học giả đã bình luận, có thể nói việc tham gia CISG là xu hướng
tất yếu chung của các nước khi mở cửa phát triển thương mại quốc tế và tham gia sâu rộng hơn
trong quan hệ quốc tế nói chung. Vấn đề quan trọng là xác định thời điểm nào thì phù hợp nhất

và làm thế nào để khi gia nhập có thể tận dụng được tốt nhất những lợi ích của Công ước.
7.2/ Khi nào nên tham gia và cách tận dụng những lợi ích của Công ước
Để việc tham gia Công ước Viên của Việt Nam được thuận lợi và ít gặp trở ngại nhất,
chúng tôi cho rằng Việt Nam cần có một thời gian chuẩn bị phù hợp ít nhất là 2-3 năm (với hoàn
cảnh của Việt Nam, thời gian có thể nhiều hơn thông lệ của các nước có sẵn nền thương mại
quốc tế phát triển như Singapore là 1 năm) trước khi chính thức gia nhập CISG về những vấn đề
sau:
• Thứ nhất, cần thu hút và khuyến khích thêm nhiều học giả, nhà chuyên môn về luật kinh tế,
thương mại ở Việt Nam nghiên cứu cả chiều rộng và chiều sâu nội dung, về nội dung CISG và
ảnh hưởng của CISG đối với hoạt động ngoại thương và pháp luật của Việt Nam. Những nghiên
cứu này sẽ giúp ích mổ xẻ, phân tích sâu hơn những vấn để nổi cộm của CISG trong mối liên hệ
với Việt Nam, làm tiền đề và dữ liệu thô và tinh cho việc đề xuất kiến nghị chính sách.
• Thứ hai, cần thành lập ngay một nhóm nghiên cứu chuyên môn về vấn đề Việt Nam gia nhập
CISG bao gồm các chuyên gia hàng đầu về CISG, về luật thương mại quốc tế Việt Nam nhằm
mục đích phân tích, mổ xẻ môi trường pháp lý hiện tại của Việt Nam, những điểm lợi, bất lợi
của Việt Nam khi tham gia CISG, để đề xuất lên Chính phủ việc tham gia Công ước, lộ trình
tham gia, các bước chuẩn bị và cả những đề nghị bảo lưu, nếu có, đối với các điều khoản bất
thuận trong CISG đối với Việt Nam (vì Công ước không quy định cơ chế điều chỉnh, chỉnh sửa
nội dung Công ước nên khá nhiều nước đã chấp thuận phê chuẩn Công ước với những yêu cầu
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 12/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
bảo lưu đối với một số điều khoản, Việt Nam có thể cân nhắc thực hiện tương tự đối với những
điều khoản quá bất lợi cho mình).
• Thứ ba, cần nhanh chóng phổ biến nội dung Công ước sâu rộng trong giới doanh nghiệp (đặc
biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu), trong hệ thống tư pháp và trong giáo dục pháp luật ở các
trường đại học và các khóa đào tạo chuyên ngành khác về luật thương mại quốc tế. Công tác
này cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình rõ ràng thông qua hoạt động của Bộ Giáo dục –
Đào tạo, Bộ Tư pháp, VCCI và thông qua các tổ chức doanh nghiệp, các diễn đàn về CISG.
Việc trang bị, cung cấp những kiến thức về CISG sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm
thiểu các rủi ro khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế có áp dụng CISG, giúp bảo vệ lợi ích

của bên Việt Nam khi có tranh chấp xảy ra.
8/ Nghiên cứu tình huống
Tình huống 1:
Khi nhận được đơn chào hàng của đối tác nước ngoài, DN có thể chấp nhận bằng văn
bản, bằng lời nói. Thậm chí, bằng việc thực hiện một số hành vi nhất định, người được chào
hàng sẽ bị coi là đã chấp nhận chào hàng. Tranh chấp giữa nguyên đơn là một Cty của
Argentina và bị đơn là một Cty của Italia trong quá trình giao kết hợp đồng. Hai bên tranh cãi về
việc liệu hành vi của bị đơn có được coi là một hành vi chấp nhận chào hàng có hiệu lực hay
không. Tranh chấp được giải quyết tại Tòa án Argentina. Các điều 18 và 19 của Công ước
Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (sau đây gọi tắt là CISG) đã được áp
dụng để giải quyết tranh chấp.
Diễn biến tranh chấp
Người mua Argentina đàm phán ký hợp đồng với người bán Italia để mua một số máy
móc công nghiệp. Người bán đã gửi cho người mua bản chào hàng căn cứ trên một mẫu đơn
chào hàng chuẩn. Người mua không có ý kiến gì về nội dung của chào hàng. Sau đó, người mua
đã ký vào đơn chào hàng và gửi đơn chào hàng đó đến một ngân hàng để xin cấp tín dụng cho
thương vụ này.
Tuy nhiên, sau đó, người mua lại làm đơn kiện người bán ra toà án Argentina với lý do là
hợp đồng chưa được thành lập. Người mua cho rằng chào hàng và chấp nhận chào hàng chưa
cấu thành một hợp đồng có hiệu lực. Người mua dẫn điều 18 CISG, theo đó, im lặng hay không
hành động (inaction) không được coi là chấp nhận chào hàng.
Quyết định của toà án
Vì Argentina và Italia là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng CISG để
giải quyết tranh chấp. Toà án bình luận rằng theo điều 18 CISG thì im lặng hay không hành
động (inaction) tự nó không cấu thành chấp nhận chào hàng. Trường hợp này, mặc dù người
mua không chính thức trả lời người bán bằng văn bản hay bằng lời nói nhưng người mua đã ký
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 13/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
vào đơn chào hàng và gửi nó đến ngân hàng; đây chính là hành động mà người mua thực hiện
liên quan đến thanh toán tiền hàng, và hành vi này có ý nghĩa là đã chấp nhận chào hàng theo

quy định tại điều 18 khoản 1- CISG.
Ngoài ra, người mua có một số thay đổi về kích cỡ của một số phụ tùng kèm theo nhưng
những thay đổi này không được coi là những sửa đổi, bổ sung cơ bản chào hàng ban đầu và vì
thế không ảnh hưởng đến hiệu lực của chấp nhận chào hàng theo quy định tại điều 19 khoản 2
và khoản 3- CISG. Chỉ các yếu tố bổ sung hay thay đổi liên quan đến các điều khoản giá cả,
thanh toán, phẩm chất, số lượng, địa điểm và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm các bên,
việc giải quyết các tranh chấp mới được coi là thay đổi cơ bản nội dung của chào hàng.
Với những lập luận đó, tòa án cho rằng người mua đã chấp nhận chào hàng của người
bán Italia. Toà án kết luận hợp đồng đã được thành lập và không thể bị bác bỏ.
Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, theo quy định của điều 18-CISG, im lặng và không có hành động gì (inaction)
thì không được coi là chấp nhận chào hàng. Tuy vậy, việc thực hiện một số hành vi lại được coi
là chấp nhận chào hàng, ví dụ như hành vi liên quan đến việc gửi hàng, mở thư tín dụng hay trả
tiền chẳng hạn, dù người chấp nhận không thông báo cho người chào hàng. Tuy vậy, pháp luật
về hợp đồng của VN lại không có quy định gì về vấn đề này. Vì thế, khi chấp nhận chào hàng,
nên chấp nhận bằng văn bản, trong đó nêu rõ những nội dung chấp nhận và những đề xuất chỉnh
sửa nếu có, tránh trường hợp chấp nhận bằng hành vi.
Thứ hai, khi nhận được chào hàng, nếu có những ý kiến trái với chào hàng thì cần xem
xét và đưa ra các đề nghị sửa đổi kịp thời, đầy đủ. Sau khi gửi chấp nhận chào hàng (trong đó có
một số sửa đổi, bổ sung) thì nên yêu cầu bên chào hàng khẳng định lại một lần nữa có đồng ý
với những sửa đổi, bổ sung đó hay không. Như vậy sẽ tránh được những tranh chấp khi hai bên
đàm phán giao kết hợp đồng một cách gián tiếp thông qua việc gửi các đơn chào hàng và chấp
nhận chào hàng.
Tình huống 2:
Tranh chấp “hợp đồng mua bán than”
Công ty A của Việt Nam ký hợp đồng bán cho Công ty B của Ai-cập X tấn than, thời hạn
giao hàng tại cảng Cái Lân là ngày 1 tháng 7 năm 2009
Ngày 1 tháng 6 năm 2009 Công ty A thông báo cho Công ty B rằng khả năng thu gom đủ số
lượng than trước ngày 1 tháng 7 là khó có thể thực hiện được, đề xuất lùi thời hạn giao hàng
vào trước ngày 1 tháng 8 năm 2009.

Công ty B không trả lời, tuy nhiên tiếp tục đàm phán ký kết một hợp đồng mới cùng loại
than và cùng giá cả. Thời hạn giao hàng là 1 tháng 9 năm 2009
Ngày 20 tháng 8 năm 2009 Công ty A đề nghị Công ty B cử người kiểm tra than trước khi
xếp hàng xuống tàu. Công ty B trả lời đề nghị hủy bỏ hợp đồng vì giao hàng muộn hơn thời
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 14/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
hạn quy định tại hợp đồng.
Luật áp dụng về sửa đổi hợp đồng:
• Pháp luật Việt Nam: Sửa đổi phải bằng văn bản
• SCIG: Điều 29 khoản 2:
• Ngoại trừ: Nếu một bên đã căn cứ vào hành vi của bên kia để coi rằng đã đồng ý sửa
đổi hợp đồng.
• Việc Công ty B tiếp tục ký hợp đồng mua than mới: Nhu cầu về mua than tiếp vẫn
còn, không phản đối việc xếp hàng chậm
• Công ty A có cơ sở hợp lý để coi Công ty B đã chấp nhận sửa đổi hợp đồng?
Sự sơ cứng và thiếu hụt của Luật Thương mại
• Thiếu quy định về mua bán hàng hóa quốc tế
• Chưa tính hết của đặc thù giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế
• Các nguyên tắc áp dụng với mua bán thông thường được áp dụng đối với mua bán
hàng hóa quốc tế (ví dụ: yêu cầu về phải có các điều khoản cơ bản hợp đồng, hình
thức sửa đổi hợp đồng v.v…)
9/ Phụ lục – Công ước viên bản tiếng Việt
Các nước thành viên của công ước này:
- Coi trọng những mục tiêu tổng quát ghi trong các Nghị quyết về sự thành lập một nền trật tự
kinh tế quốc tế mới mà Ðại hội đồng Liên hợp quốc đã chấp nhận trong khóa họp bất thường
lần thứ sáu,
- Cho rằng việc chấp nhận các quy tắc thống nhất điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế có tính đến các hệ thống xã hội, kinh tế và pháp lý khác nhau thúc đẩy việc loại trừ các
trở ngại pháp lý trong thương
mại quốc tế và sẽ hỗ trợ cho việc phát triển thương mại quốc tế, đã thỏa thuận những điều sau:


PHẦN I: PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
CHƯƠNG I
PHẠM VI ÁP DỤNG
Ðiều 1.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 15/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương
mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công
ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện
này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký
hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương
mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này.

Ðiều 2:
Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào bất cứ
lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không biết hoặc không
cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế.
b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f. Ðiện năng.
Ðiều 3:
1. Ðược coi là hợp đồng mua bán các hợp đồng cung cấp hàng hóa sẽ chế tạo hay sản xuất, nếu

bên đặt hàng không có nghĩa vụ cung cấp phần lớn các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo
hay sản xuất hàng hóa đó.
2. Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng trong đó nghĩa vụ của bên giao hàng chủ yếu
là phải thực hiện một công việc hoặc cung cấp một dịch vụ khác.
Ðiều 4:
Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các quyền và nghĩa vụ của
người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó. Trừ trường hợp có quy định khác được nêu
trong Công ước, Công ước không liên quan tới:
a. Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc bất cứ điều khoản nào của hợp đồng, hoặc bất kỳ tập
quán nào.
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 16/46
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1B
b. Hậu qủa mà hợp đồng có thể đối với quyền sở hữu các hàng hóa đã bán.
Ðiều 5:
Công ước này không áp dụng cho trách nhiệm của người bán trong trường hợp hàng của người
bán gây thiệt hại về thân thể hoặc làm chết một người nào đó.
Ðiều 6:
Các bên có thể loại bỏ việc áp dụng Công ước này hoặc với điều kiện tuân thủ điều 12, có thể
làm trái với bất cứ điều khoản nào của Công ước hay sửa đổi hiệu lực của các điều khoản đó.

CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Ðiều 7
1. Khi giải thích Công ước này, cần chú trọng đến tính chất quốc tế của nó, đến sự cần thiết
phải hỗ trợ việc áp dụng thống nhất Công ước và tuân thủ trong thương mại quốc tế.

2. Các vấn đề liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Công ước này mà không quy định thẳng
trong Công ước thì sẽ được giải quyết chiếu theo các nguyên tắc chung mà từ đó Công ước
được hình thành hoặc nếu không có các nguyên tắc này, thì chiếu theo luật được áp dụng
theo quy phạm của tư pháp quốc tế.

Ðiều 8:
1. Nhằm phục vụ Công ước này, tuyên bố và cách xử sự khác của một bên được giải thích theo
đúng ý định của họ nếu bên kia đã biết hoặc không thể không biết ý định ấy.
2. Nếu điểm trên không được áp dụng thì tuyên bố cách xử sự khác của một bên được giải
thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt vào vị trí của phía bên kia
trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế.
3. Khi xác định ý muốn của một bên hoặc cách hiểu của một người có lý trí sẽ hiểu thế nào,
cần phải tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thực tế mà các bên
đã có trong mối quan hệ tương hỗ của họ, các tập quán và mọi hành vi sau đó của hai bên.
Ðiều 9:
1. Các bên bị ràng buộc bởi tập quán mà họ đã thỏa thuận và bởi các thực tiễn đã được họ thiết
lập trong mối quan hệ tương hỗ.
2. Trừ phi có thỏa thuận khác thì có thể cho rằng các bên ký hợp đồng có ngụ ý áp dụng những
tập quán mà họ đã biết hoặc cần phải biết và đó là những tập quán có tính chất phổ biến
trong thương mại quốc tế và được các bên áp dụng một cách thường xuyên đối với hợp đồng
PHÁP LUẬT TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trang 17/46

×