Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận môn tài chính công Đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.17 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 2
I. NGUYÊN LÝ “CON NGƯỜI PHẢI ĐỐI MẶT VỚI SỰ ĐÁNH
ĐỔI” 2
II. HÀNG HÓA GIÁO DỤC 2
III.HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG TRONG CHI TIÊU CÔNG CHO
GIÁO DỤC 3
1. Hiệu quả Pareto 3
2. Công bằng 3
3. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng trong chi tiêu giáo dục 4
IV. CẦN THIẾT PHẢI CHI TIÊU CÔNG CHO GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC 9
V. CƠ SỞ THỰC TIỄN 10
CHƯƠNG 2: CHƯƠNG TRÌNH CHO SINH NGHÈO VAY VỐN Ở
VIỆT NAM 11
I. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH 11
1. Quá trình hình thành và phát triển 11
2. Đối tượng được vay vốn 13

3. Phương thức cho vay 14
4. Điều kiện vay vốn 14
5. Mức cho vốn vay 14

6. Thời hạn cho vay 15

7. Lãi suất cho vay 16

8. Thủ tục vay vốn 16
9. Mục tiêu cho sinh viên nghèo vay vốn học đại học 16
II. THỰC TRẠNG 17


1. Tích cực 17

2. Hạn chế 13
III. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA
CHƯƠNG TRÌNH 20
IV. KẾT QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 21
V. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG ĐẠT ĐƯỢC 22
1. Hiệu quả: 22
2. Công bằng: 27
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHƯƠNG
TRÌNH CHO SINH NGHÈO VAY VỐN Ở VIỆT NAM 29
I. GIẢI PHÁP 29
1. Đối với Chính phủ 29
2. Đối với người vay vốn 30
3. Cho tư nhân tham gia cung cấp hàng hóa giáo dục đại học 31
II. KIẾN NGHỊ 31
KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yếu tố con người
được xem là quan trọng nhất trong phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức rõ
điều đó nên Nhà nước đã và đang dốc sức tập trung đầu tư, bồi dưỡng cho
giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng. Hiện nay nước ta vẫn
còn nghèo, việc đi học bậc tiểu học, trung học đã là khó khăn với nhiều gia
đình, thì việc chuẩn bị cho các tài năng của đất nước bước vào ngưỡng cửa
đại học quả là một vấn đề nan giải.
Học tập là một nhu cầu và cũng là quyền cơ bản của con người. Tuy
vậy, không phải ai cũng có điều kiện để theo đuổi con đường học vấn, đi tới
ước mơ của mình. Bên cạnh sự cố gắng nỗ lực từ phía các gia đình cũng như
bản thân học sinh, sinh viên “tự vận động” để thực hiện niềm đam mê đó thì

vẫn còn rất nhiều hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp bước trên con đường
ấy. Nắm bắt được hiện trạng này, Nhà nước đã có rất nhiều chính sách
khuyến khích học tập và “tín dụng học sinh, sinh viên” là một trong các chính
sách ngày càng có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ học sinh, sinh viên có hoàn
cảnh khó khăn theo đuổi nghiệp tri thức của mình. Điều này làm cho sinh
viên cũng như gia đình đỡ phần nào gánh nặng. Chính sách này ngày một lớn
mạnh, có những thay đổi hợp lý tác động rất lớn tới xã hội và đã gặt hái được
những kết quả đáng ghi nhận, nhưng cũng khó tránh khỏi những hạn chế phát
sinh. Để nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm 2B đã lựa chọn đề tài về “Đánh đổi
giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay
vốn”.
Do thời gian có hạn cùng với những điều kiện khách quan nên không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong nhận được sự đánh giá, góp ý
chân thành của Thầy và các nhóm bạn.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

I. NGUYÊN LÝ “CON NGƯỜI PHẢI ĐỐI MẶT VỚI SỰ ĐÁNH ĐỔI”
Để có được một thứ ưa thích, chúng ta thường phải từ bỏ một thứ khác
mà mình thích. Quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để
đạt được một mục tiêu khác. Nói cách khác “mọi thứ đều có giá của nó”. Một
sự đánh đổi mà xã hội phải đối mặt là sự đánh đổi giữa công bằng và hiệu
quả. Hiệu quả có nghĩa là xã hội thu nhận kết quả cao nhất từ các nguồn lực
khan hiếm của mình. Công bằng hàm ý ích lợi thu được từ các nguồn lực đó
được phân phối công bằng giữa các thành viên của xã hội. Khái niệm hiệu
quả ám chỉ quy mô của chiếc bánh kinh tế, còn khái niệm công bằng nói lên
phương thức phân chia chiếc bánh đó. Thường thì khi thiết kế các chính sách
của chính phủ, người ta nhận thấy hai mục tiêu này xung đột với nhau.
II. HÀNG HÓA GIÁO DỤC
 Theo P.Samuelson thì hàng hóa công là loại hàng hóa mà chi phí
để nhận dịch vụ từ nó đối với mỗi người sử dụng là bằng 0 và không thể ngăn

cấm mọi người sử dụng.
 Theo Joseph-Stinglitz thì hàng hóa công là những loại hàng hóa
mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không
ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng lợi ích của nó.
Ở Việt Nam, giáo dục đại học là hàng hóa công không thuần túy vì khi
một sinh viên muốn vào đại học phải phụ thuộc vào 2 khả năng: khả năng
tích lũy tri thức và khả năng tài chính.
- Đối với khả năng tích lũy tri thức thì phụ thuộc hoàn toàn vào bản
thân sinh viên. Khi muốn được vào đại học thì chúng ta phải trải qua một kỳ
thi quan trọng là tuyển sinh Đại học, ai có khả năng tích lũy tri thức càng
nhiều thì càng có cơ hội vào đại học nhiều hơn. Vì vậy đã tạo nên một sự
cạnh tranh giữa mọi người với nhau, không phân biệt giàu nghèo.
- Và khi tích lũy tri thức đủ khả năng vào đại học thì việc học đại học
còn bị phụ thuộc vào khả năng tài chính của mỗi gia đình. Có những gia đình
không đủ tiền để cho con họ học tiếp đại học nên những sinh viên đó không
thể thực hiện được ước mơ vào đại học.
III. HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG TRONG CHI TIÊU CÔNG CHO
GIÁO DỤC
1. Hiệu quả Pareto:
Một sự phân bổ nguồn lực được xem là đạt hiệu quả Pareto nếu như
không có cách nào phân bổ lại các nguồn lực để làm cho ít nhất một người
được lợi hơn mà không phải làm thiệt hại đến bất kỳ ai. (Vilfredo Pareto –
Italia).
Trong giáo dục có thêm một sinh viên sử dụng chương trình giáo dục
thì cũng không ảnh hưởng gì tới lợi ích của những sinh viên khác.
2. Công bằng:
Khái niệm công bằng mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tùy thuộc vào quan
điểm của mỗi người. Có hai cách hiểu khác nhau về công bằng:
• Công bằng ngang: là sự đối xử như nhau với những người có tình
trạng kinh tế như nhau. Tại Điều 26 trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân

quyền của Liên hợp quốc ghi rõ: “Mọi người đều có quyền được học hành.
Phải áp dụng chế độ giáo dục miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và giáo dục
cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc”.
• Công bằng dọc: là đối xử khác nhau với những người có khác biệt
bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục
những khác biệt sẵn có.
Nếu như công bằng ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì cân
bằng dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. “Giáo dục kỹ thuật và ngành nghề
phải mang tính phổ thông, và giáo dục cao học phải theo nguyên tắc công
bằng cho bất cứ ai có đủ khả năng. Cha, mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn loại
hình giáo dục cho con cái”. (Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của
Liên hợp quốc).
Trong giáo dục đại học, ngay từ giai đoạn tuyển sinh thì chỉ ai tích lũy
đủ tri thức mới có thể vào được đại học, và tùy vào khả năng tài chính của
mỗi gia đình mà họ có thể học tại những trường đại học khác nhau, nếu có
điều kiện con em họ có thể học tại các trường quốc tế, dân lập, nếu không sẽ
học tại các trường công lập.
3. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng trong chi tiêu giáo dục:
Mọi hoạt động chi tiêu cho giáo dục của chính phủ đều nhằm giải quyết bài
toán “cân bằng dọc”, cả người giàu người nghèo ai cũng có cơ hội học tập
như nhau. Tuy nhiên trong thực tế có hai trường phái về việc có hay không sự
đánh đổi giữa hiệu quả về công bằng:
• Trường phái 1: Cho rằng hiệu quả và công bằng là có sự đánh đổi.
Theo quan điểm này, nếu ưu tiên hiệu quả thì phải chấp nhận bất công
và ngược lại. Bởi vì: việc đầu tư cho giáo dục chính là vấn đềchi tiêu ngân
sách nhà nước cho giáo dục, hỗ trợcho sinh viên nghèo chính là việc phân
phối lại thu nhập từngười giàu sang người nghèo, theo quan điểm của trường
phái này nếu không làm công việc này thì sẽ không phải mất chi phí để vận
hành một bộ phận nguồn nhân lực thực hiện, khỏi phải tốn ngân sách, thu
thuế sẽ ít đi. Nhưng nếu đầu tư cho giáo dục thì phải tốn chi phí, có khả năng

phải người giầu phải đóng thuế nhiều hơn, gây ra tâm lý bất mãn khiến cho
họ muốn làm việc ít đi. Còn những sinh viên được hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước thì có tâm lý ỷ lại, giảm sự quan tâm tìm kiếm cơ hội, nỗ lực học tập,
làm việc để hoát khỏi cuộc sống phụ thuộc.
Tóm lại, nếu tiết kiệm được chi phí chi tiêu cho giáo dục thì người
nghèo sẽ có ít cơ hội được đến đến trường và ngược lại nếu để nhiều người
nghèo được đi học đại học thì cần phải tốn nhiều tiền từ ngân sách nhà nước.
Chương trình cho vay với mục tiêu bình đẳng nhằm tăng cơ hội đi học
đại học của người nghèo trước tiên cần được đánh giá về mức độ thành công
trong việc tiếp cận được những đối tượng này và mức độ sẵn có các khoản
vốn vay trong việc góp phần làm tăng sự tham gia vào giáo dục đại học của
các nhóm sinh viên khó khăn, khuyến khích sinh viên theo học trong những
lĩnh vực ưu tiên và tiếp đó là làm việc trong những lĩnh vực này hoặc ở các
khu vực quy định. Xét đến tính hiệu quả tài chính của chương trình cho vay
vốn thì đây có thể không phải là một cách tiếp cận được ưa dùng vì sinh viên
nghèo có thể được coi là đối tượng vay mang đến rủi ro cao hơn do khả năng
không trả được nợ lớn hơn. Xét đến việc nâng cao hiệu quả trong của chương
trình cho vay vốn, sẽ là tốt hơn nếu tập trung vào đối tượng sinh viên có năng
lực học tập tốt hơn. Những sinh viên này ít có nguy cơ bỏ học hoặc lưu ban
trong quá trình học, xin được việc làm tốt hơn và nguy cơ không trả được nợ
là thấp hơn. Thực ra, để hạn chế mức độ không trả nợ, chọn đối tượng mục
tiêu có thể nhằm mục đích loại bỏ những nhóm sinh viên có độ rủi ro cao,
trong đó có sinh viên nghèo.
Phân chỉ tiêu vốn vay dựa trên sự cân nhắc về nguồn nhân lực như vậy
có thể mang lại hiệu quả cao hơn cho chương trình bởi vì tính kinh tế của
chương trình được nâng cao do giảm bớt được khó khăn thiếu nguồn nhân lực.
Mối quan tâm chính của các chương trình có mục tiêu cấp vốn vay cho
sinh viên nghèo chính là liệu chúng có thực sự đến được với đối tượng này
hay không. Cấp vốn cho đối tượng này không chỉ đòi hỏi phải đưa ra quy
định về tiêu chuẩn được vay vốn (thường là dựa trên mức trần thu nhập gia

đình) mà còn phải có khả năng kiểm tra tính chính xác của thông tin do đối
tượng xin vay vốn cung cấp. Trong trường hợp khó xác định tính chính xác
của thông tin này thì chương trình sẽ dễ bị lợi dụng và sinh viên không thuộc
đối tượng nghèo lại được vay vốn có trợ cấp. Như vậy mục tiêu của chương
trình không được thực hiện đúng theo ý muốn. Nó vừa lãng phí và không
công bằng trong việc cung cấp những lợi ích kinh tế không cần thiết cho sinh
viên không thuộc đối tượng nghèo. Và nếu không chọn đối tượng mục tiêu
một cách thận trọng thì rất có thể sinh viên có hoàn cảnh khó khăn nhất lại bị
loại ra.
Vòng tròn ngoài cùng (lớn nhất) là dân số độ tuổi học đại học và bao
gồm học sinh mới tốt nghiệp phổ thông và sinh viên đang học trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và đại học (vòng tròn ở giữa). Trong số
những sinh viên đang học trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và
đại học, có một số được vay vốn (vòng tròn nhỏ nhất). Dựa vào đánh giá mức
độ đói nghèo (đường cong chấm chấm), chỉ có một bộ phận những thanh niên
này được xác định là đối tượng nghèo (nằm ở phía trên của đường cong).
Tổng số đối tượng vay vốn được thấy trong phần A và D của sơ đồ. Những
sinh viên trong phần A là sinh viên nghèo và vì vậy được quyền vay vốn.
Trong khi đó sinh viên trong phần D không phải là đối tượng nghèo nhưng
vẫn được vay vốn. Vấn đề này xảy ra do việc phân bổ vốn vay không tuân
theo những tiêu chí quy định hoặc do chương trình vốn vay đang bị lợi dụng.
Đối tượng mục tiêu bao gồm tất cả sinh viên nghèo theo học ở các
trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và đại học (Phần A và
B); trong số này chỉ sinh viên ở Phần A được vay vốn còn sinh viên ở phần B
không được vay. Tổng số các đối tượng mục tiêu bao gồm phần A và B cộng
với phần C (những thanh niên nghèo đã tốt nghiệp trung học, đủ trình độ vào
đại học (nhưng không có điều kiện) và có thể được đi học trở lại nhờ có các
khoản vốn vay.
Như vậy nếu tất cả các sinh viên đều được vay vốn thì chi phí để xác
định đúng đối tượng của chương trình là những sinh viên nghèo sẽ giảm đi,

thủ tục chứng nhận, xác nhận sẽ gọn nhẹ, nhanh chóng hơn, cho được nhiều
sinh viên vay vốn nhất… Khi đó có sự đánh đổi với tính công bằng xã hội,
hướng tới đối tượng là sinh viên nghèo. Nếu sinh viên giàu cũng được vay
vốn thì sẽ làm giảm đi số tiền cũng như cơ hội được vay vốn của nhiều sinh
viên nghèo khác. Đồng thời, những sinh viên giàu có lợi thế về khả năng trả
nợ trong tương lai hơn sinh viên nghèo do đó việc sinh viên nghèo bị chiếm
chỗ vay là rất cao. Tính đến công bằng trong chính sách cho sinh viên vay
vốn thì chỉ có những sinh viên đủ điều kiện mới được vay vốn, và những sinh
viên này là sinh viên nghèo nên họ rất lo lắng về việc không trả được nợ sau
này, do đó không vay vốn để đi học. Như vậy tiêu chí hiệu quả của chương
trình cho được nhiều sinh viên nghèo vay vốn và không sinh viên nào phải bỏ
học do không có tiền học phí không đạt được.
• Trường phái 2: Cho rằng hiệu quả và công bằng không nhất thiết
phải có sự đánh đổi.
Có hiệu quả thì sẽ có công bằng, và ngược lại. Cụ thể trong chi tiêu
cho giáo dục đại học thủ tục hành chính gọn nhẹ, bộ máy hoạt động minh
bạch làm đúng nhiệm vụ chức trách, chi tiêu cho đúng người đúng đối tượng,
đúng chương trình thì sẽ giảm chi phí, giảm khả năng thất thoát nguồn ngân
sách nhà nước, nhiều đối tượng sẽ được hưởng một nền giáo dục tốt hơn.
Trong tương lai một nền giáo dục tốt sẽ mang lại ngoại tác tích cực cho toàn
xã hội.
Dưới góc độ cho rằng hiệu quả và công bằng không nhất thiết phải có
sự đánh đổi có thể thấy: chi tiêu công cho giáo dục, cho sinh viên nghèo vay
vốn là cơ sở quan trọng nhất để nâng cao chất lượng nguồn lao động, phục vụ
cho xã hội, năng suất lao động tăng, giảm thất nghiệp, giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần tăng thu cho ngân sách nhà
nước, phát huy hiệu quả thu hồi vốn đã đầu tư cho giáo dục đào tạo nghề lao
động trước đây. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn quốc… đã cho thấy rõ điều
đó. Ngoài ra, đào tạo cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, một đất
nước có nền giáo dục tốt sẽ có được vị trí chính trị tốt trên trường quốc tế,

tăng cương khả năng độc lập, làm chủ về khoa học công nghệ… phát triển
bền vững với nền kinh tế tri thức. Như vậy chính sách cho sinh viên nghèo
vay vốn là một chính sách cần thiết trong tổng thể các chính sách phát triển
đất nước ta.
IV. CẦN THIẾT PHẢI CHI TIÊU CÔNG CHO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị
quản lý hành chính, các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi
chính phủ. Ngoài trừ các khoản chi của các quỹ ngoài ngân sách, về cơ bản
chi tiêu công thể hiện các khoản chi của ngân sách nhà nước hàng năm được
Quốc hội thông qua.
Sinh viên là đối tượng cần được quan tâm vì trong tương lai sinh viên
là lực lượng lao động có chất lượng, có khả năng tích lũy được tri thức, có
điều kiện đóng góp tăng năng suất lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, có khả
năng đóng thuế cao hơn, làm tăng ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó doanh
nghiệp có lợi nhuận biên tăng , tăng khả năng cạnh tranh nhờ có một đội ngũ
lao đông có tay nghề cao… Như vậy chi tiêu hỗ trợ cho giáo dục đại học
không chỉ sinh viên là người được thụ hưởng trực tiếp mà toàn xã hội đều
được hưởng những lợi ích tích cực từ nền giáo dục nói chung, giáo dục đại
học nói riêng. Vì vậy cần phải đầu tư cho giáo dục.
Nếu chính phủ để tư nhân đầu tư cho giáo dục thì cũng sẽ không hiệu
quả bằng chính phủ cung cấp: Tư nhân cung cấp hàng hóa giáo dục thì sẽ
phải thu phí sao cho họ có thể thu được lợi nhuận tối đa, như vậy người học
sẽ phải trả tiền học phí cao hơn, người nghèo sẽ không thể đi học đại học.
Khi tư nhân tham gia vào thị trường hì cạnh tranh xảy ra, từ đó mà các trường
học có thể che giấu thông tin về trường hoặc chỉ cung cấp thông tin tốt nhằm
thu hút được nhiều học viên, trong khi đó người học không thể biết được chất
lượng thực sự trừ khi đã vào học tại trường, đồng thời vẫn phải chịu học phí
cao. Như vậy giáo dục đại học trở thành một hoạt động sinh lời, người học
chịu thiệt thòi nhiều nhất, làm giàu trên đôi vai của người nghèo, là hiện
tượng phân phối ngược.

Do đó một lần nữa khẳng định Chính phủ cần chi tiêu công cho
giáo dục để tạo ra được ngoại tác tích cực lớn nhất, thực hiện công bằng
xã hội, khắc phục tính phi hiệu quả do tư nhân cung cấp, ngăn chặn độc
quyền, bất đối xứng thông tin.
V. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Chương trình cho sinh viên vay vốn trên thế giới hết sức đa dạng. Tuy
vậy có thể phân thành 2 nhóm:
Thứ nhất là nhóm các “chương trình cho vay cố định”, nghĩa là việc
thu nợ được thực hiện trong một khoảng thời gian cố định, có thể là 4 năm,
10 năm hay lâu hơn nữa sau khi tốt nghiệp. Và mức trả cho từng thời đoạn
cũng đã được xác định trước.
Ví dụ một số chương trình ở Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái
Lan, Philippines mà năm 2004 UNESCO đã lựa chọn để thực hiện các
nghiên cứu điển hình nhằm “xóa bỏ khoảng trống kiến thức” về vấn đề này.
Thứ hai là nhóm các “chương trình cho vay được trả theo thu
nhập” (Income Contingent Loans), đã được áp dụng ở Úc, Anh, Thụy Điển,
Nam Phi, New Zealand trong khoảng 15 năm gần đây. Sinh viên sau khi ra
trường xin được việc làm và có thu nhập cao hơn một ngưỡng nào đó mới
phải trả nợ. Mức chi trả tính theo phần trăm của phần thu nhập cao hơn
ngưỡng, gần giống như thuế thu nhập cá nhân vậy.
Ví dụ, khi có việc với mức lương 1 triệu Đ/tháng thì chưa phải trả, khi
mức lương 2 triệu đồng/tháng thì trả 20% của triệu thứ hai chẳng hạn, nghĩa
là trả 200.000 đồng/tháng. Như vậy, mức trả cho từng thời đoạn ở đây là
chưa xác định trước mà tùy thuộc vào mức thu nhập của người vay, cho đến
khi hết nợ. Nhưng sau 15 hay 20 năm nếu chưa trả hết, hoặc lỡ bị tai nạn
không làm được việc nữa, thì được xóa nợ. Còn về lãi suất, đa số chương
trình của cả nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai đều có lãi suất thấp, ví dụ ở
Trung Quốc chỉ khoảng 50% lãi suất thị trường, 50% lãi suất còn lại được
Nhà nước trợ cấp. Các chương trình cũng thường cho vay để trang trải một
phần chi phí ăn ở

Các chương trình thuộc nhóm thứ hai có đầy đủ các ưu điểm là:
- Không gây áp lực nợ lên sinh viên, họ chỉ phải trả khi họ đã có “khả
năng chi trả”.
- Nhà nước như đã gánh cho sinh viên gần hết những rủi ro.
- Sinh viên được Nhà nước tài trợ trực tiếp qua mức lãi suất thấp,
không chịu chi phí vận hành quỹ cho vay và chi phí bù đắp rủi ro.
Ở các nước đang phát triển việc kiểm soát thu nhập cá nhân còn hạn
chế, nếu áp dụng các chương trình cho vay nhóm thứ hai, thường có tỷ lệ thu
hồi vốn thấp.
Bên cạnh đó có các chương trình trợ cấp cho giáo dục như:
Trợ cấp học phí: nhà nước trợ cấp một phần chi phí cho sinh viên các
trường nhưng lại dẫn đến sự phân phối thu nhập bình quân. Vì thu nhập trung
bình của những người đi học cao hơn người không đi học, vì vậy giúp đỡ họ
là giúp cho những người khá giả hơn. Tác động thuần túy của trợ giúp đối với
phân phối thu nhập không rõ ràng: người giàu có phải đóng nhiều thuế hơn,
phải chịu phần chi phí lớn hơn nhưng lại nhận được phần lợi ích lớn hơn. Mà
đặc biệt là các trường công lập được trợ cấp nhiều hơn trong khi các trường
tư không được trợ cấp nhiều mà trong đó lại có nhiều trường hợp con em
vùng sâu vùng xa không có điều kiện học tập tốt nên chỉ vào được trường tư.
Từ đó dẫn đến mất công bằng trong xã hội. Mất công bằng giữa trường công
và trường tư.
Các quỹ học bổng, quỹ tài trợ của các tổ chức phi chính phủ: Theo
GS Phạm Phụ thì các chương trình cho sinh viên vay vốn, hiện đã phổ biến
trên 50 nước khắp thế giới. Cho sinh viên vay vốn về bản chất là để có thể
tăng thêm mức gánh chịu chi phí của sinh viên, giảm bớt mức gánh chịu của
ngân sách nhà nước theo cách chuyển sự gánh chịu của họ từ hiện tại (trả học
phí trước) sang tương lai, khi mà họ đã “có khả năng chi trả”. Có như vậy,
một mặt sinh viên nghèo mới không phải bỏ học, mặt khác, việc tài trợ của
nhà nước mới có công bằng hơn so với khi thực hiện chính sách học phí thấp.
Chương 2: CHƯƠNG TRÌNH CHO SINH NGHÈO VAY VỐN

Ở VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH
1. Quá trình hình thành và phát triển
- Chương trình tín dụng dành cho học sinh, sinh viên (học sinh, sinh
viên) được triển khai từ tháng 3/1998 theo Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ. Sau hơn 9 năm tổ chức thực hiện, chương trình
mới cho vay được gần 100 nghìn học sinh, sinh viên vay vốn đi học
- Ngày 27/09/2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
157/2007/ QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên thì chính sách này
thực sự trở mình và đi vào cuộc sống.
- Thời kỳ mới thành lập quỹ này nằm ở Ngân hàng Công thương Việt
Nam. Từ đầu 2003, quỹ được chuyển giao sang Ngân hàng Chính sách Xã
hội.
2. Đối tượng được vay vốn:
Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các trường đại
học (hoặc tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tại
các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật Việt Nam, gồm:
 Thứ nhất là học sinh, sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ
côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động.
 Thứ hai là học sinh, sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc
một trong các đối tượng:
- Hộ nghèo theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật.
- Hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150%
mức thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình nghèo theo quy định của
pháp luật.
 Thứ ba là học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài
chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo
học có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
3. Phương thức cho vay:

- Việc cho vay đối với học sinh, sinh viên được thực hiện theo phương
thức cho vay thông qua hộ gia đình. Đại diện hộ gia đình là người trực tiếp
vay vốn và có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng Chính sách xã hội. Trường hợp
học sinh, sinh viên mồ côi cả ca lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng
người còn lại không có khả năng lao động, được trực tiếp vay vốn tại Ngân
hàng Chính sách xã hội nơi nhà trường đóng trụ sở.
- Giao Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện cho vay đối với học
sinh, sinh viên.
4. Điều kiện vay vốn:
- Học sinh, sinh viên đang sinh sống trong hộ gia đình cư trú hợp pháp
tại địa phương nơi cho vay có đủ các tiêu chuẩn.
- Đối với học sinh, sinh viên năm thứ nhất phải có giấy báo trúng tuyển
hoặc giấy xác nhận được vào học của nhà trường.
- Đối với học sinh, sinh viên năm thứ hai trở đi phải có xác nhận của
nhà trường về việc đang theo học tại trường và không bị xử phạt hành chính
trở lên về các hành vi: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, buôn lậu.
5. Mức vốn cho vay:
- Giai đoạn năm 2002 - 2007: theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày
04 tháng 10 năm 2002 mức vay tối đa là 300.000đ/ sinh viên/ tháng.
- Giai đoạn 2007 – 2009: Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27
tháng 9 năm 2007 mức vay tối đa là 800.000đ/ sinh viên/ tháng.
- Năm 2009: Chính phủ điều chỉnh mức vốn vay tối đa là 860.000đ/
sinh viên/ tháng.
- Năm 2010: Chính phủ điều chỉnh mức vốn vay tối đa là 900.000đ/
sinh viên/ tháng.
- Năm 2011: Chính phủ điều chỉnh mức vốn vay tối đa là 1.000.000đ/
sinh viên/ tháng (Quyết định số 853/QĐ-TTg ngày 03/6/2011).
- Năm 2013: Chính phủ điều chỉnh mức vốn vay tối đa là 1.100.000đ/
sinh viên/ tháng (Quyết định số 1196/QĐ-TTg ngày 19/7/2013).
6. Thời hạn cho vay:

Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ ngày đối tượng
được vay vốn bắt đầu nhận vốn vay cho đến ngày trả hết nợ (gốc và lãi) được
ghi trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay bao gồm thời hạn phát tiền
vay và thời hạn trả nợ.
Thời hạn phát tiền vay là khoảng thời gian tính từ ngày đối tượng được
vay vốn nhận món vay đầu tiên cho đến ngày học sinh, sinh viên kết thúc
khoá học, kể cả thời gian học sinh, sinh viên được các trường cho phép nghỉ
học có thời hạn và được bảo lưu kết quả học tập (nếu có). Thời hạn phát tiền
vay được chia thành các kỳ hạn phát tiền vay do Ngân hàng Chính sách xã
hội quy định hoặc thoả thuận với đối tượng được vay vốn.
Thời hạn trả nợ là khoảng thời gian tính từ ngày đối tượng được vay
vốn trả món nợ đầu tiên đến ngày trả hết nợ (gốc và lãi). Đối với các chương
trình đào tạo có thời gian đào tạo không quá một năm, thời hạn trả nợ tối đa
bằng 2 lần thời hạn phát tiền vay, đối với các chương trình đào tạo khác, thời
hạn trả nợ tối đa bằng thời gian học. Thời hạn trả nợ được chia thành các kỳ
hạn trả nợ do Ngân hàng Chính sách xã hội quy định.
7. Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay ưu đãi đối với học sinh, sinh viên là 0,5%/tháng
(Quyết định số 853/QĐ-TTg ngày 03/6/2011)
Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay (Quyết
định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007).
8. Thủ tục vay vốn:
Các giấy tờ cần có:
- Xác nhận của Ủy ban nhân dân phường, xã là gia đình của học sinh,
sinh viên đó thuộc diện hộ nghèo, khó khăn hoặc có hoàn cảnh khó khăn về
tài chính đột xuất
- Nếu là năm thứ nhất thì chỉ cần giấy gọi nhập học của trường đại học,
cao đẳng hoặc dạy nghề. Từ năm thứ 2 trở đi sinh viên cần có xác nhận đang
theo học tại trường, không vi phạm 4 loại: Cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút và
buôn lậu.

9. Mục tiêu cho sinh viên nghèo vay vốn học đại học
 Mục tiêu ngân sách (tạo thu nhập từ học phí)
- Tạo thu nhập để duy trì số tuyển sinh vào đại học và đầu ra/chất
lượng, tương xứng với mức chi phí đơn vị tăng ở các trường đại học công lập
(không có tài trợ bổ sung của chính phủ).
- Thay thế nguồn vốn: để đối phó với việc cắt giảm chi tiêu chung của
chính phủ, bao gồm chi tiêu cho ngành giáo dục.
- Thay thế nguồn vốn: để đối phó với việc phân bổ lại ngân sách giáo
dục của nhà nước từ trường đại học sang các bậc học khác, đem lại lợi ích xã
hội cao hơn.
 Mở rộng hệ thống giáo dục đại học
- Tạo nguồn thu bổ sung từ học phí để trang trải một phần cho việc mở
rộng khối các trường đại học công lập.
- Mở rộng các trường đại học thông qua phát triển khối các trường đại
học tư thục (để giảm thiểu vai trò của nhà nước trong tài trợ cho sự mở rộng
này).
 Mục tiêu xã hội (bình đẳng/ cơ hội tiếp cận cho người nghèo)
- Các khoản vay nhằm vào đối tượng sinh viên có nhu cầu.
- Trợ cấp chéo: hỗ trợ cho sinh viên có nhu cầu bằng nguồn thu từ mức
học phí cao hơn.
 Nhu cầu về nguồn nhân lực
Đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp cụ thể hoặc nguồn nhân lực khu vực.
 Hỗ trợ sinh viên
- Giảm bớt khó khăn về tài chính cho sinh viên trong quá trình học.
- Tăng cường trách nhiệm của sinh viên.
- Mang lại sự độc lập về tài chính cho sinh viên.
II. THỰC TRẠNG:
1. Tích cực:
- Giúp học sinh, sinh viên nghèo trang trải một phần học tập và cuộc
sống, số lượng được vay vốn ngày càng tăng.

- Đóng góp tích cực, thúc đẩy phong trào học tập ở các địa phương
nghèo, giúp một bộ phận nhân dân có thu nhập thấp được thụ hưởng sự bình
đẳng về giáo dục, đào tạo và có công ăn việc làm.
- Chắp cánh ước mơ và thắp sáng niềm tin cho học sinh, sinh viên
nghèo ham học.
- Hàng loạt các bài báo, trang mạng đưa tin về niềm vui và sự phấn
khởi của các gia đình khi đam mê theo đuổi tri thức của con em mình được
tiếp sáng.
2. Hạn chế:
 Về nội dung:
- Mức vay vốn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên trong nền
kinh tế bây giờ. Với mức vay 1.100.000đ/sinh viên /tháng thực sự vẫn là mức
vay thấp chưa thể đảm bảo cuộc sống cho học sinh, sinh viên, đặc biệt học
sinh, sinh viên theo học ở các thành phố lớn, với gia đình quá khó khăn hoặc
gia đình có từ hai sinh viên theo học các trường đại học, cao đẳng.
- Chính sách tín dụng mới dừng lại ở “đầu vào”. học sinh, sinh viên
thuộc diện khó khăn mới được vay vốn học tập. Tuy nhiên sau này ra trường
học sinh, sinh viên có thể tìm được việc làm để trả nợ? Trong khi thất nghiệp
vẫn đang là một vấn đề nhức nhối đối với nước ta. Mặt khác, hiện trạng “con
ông cháu cha”, “đồng tiền đi trước việc bước theo sau”… đang tồn tại hết sức
như một điều đã được mặc định mà mọi người dù muốn hay không cũng phải
thừa nhận. Như vậy, sinh viên đã nghèo, ra trường bỗng nhiên nợ tín dụng
học sinh, sinh viên vô hình chung trở thành gánh nặng cho các em.
Mới đây, một bài báo đã nêu rất chân thực vấn đề này, trong đó có đề
cập: “Vẫn vướng bài toán cần câu - con cá”.
Như vậy, thoạt nhìn sẽ nghĩ Ngân hàng Chính sách xã hội tới đây chỉ
cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, rà soát lại để xác định mức cho
vay phù hợp từng ngành nghề, không cào bằng, do đề án học phí đã được phê
duyệt có sự khác biệt giữa các ngành nghề đào tạo. Tuyên truyền tốt hơn nữa
để tổ chức giải ngân kịp thời, đúng đối tượng, đúng chính sách. Nhưng nếu

phân tích kỹ, có thể hé lộ phần nào hai vấn đề:
Thứ nhất, vẫn tồn tại một nghịch lý là nguyên tắc chia sẻ rủi ro với học
sinh, sinh viên nghèo chỉ được đầu tư cấp tập suốt quãng thời gian đi học,
còn sau đó (khi tốt nghiệp) bị… bỏ rơi!
Thứ hai, hiệu quả sử dụng đồng vốn tín dụng sinh viên về lâu dài sẽ
quá thấp, khi tiền cho vay nhiều bao nhiêu cũng phần lớn nằm ở đối tượng
sinh viên nghèo thiếu việc làm. Nếu vậy, tín dụng đầu tư sẽ không giải quyết
được tính công bằng giáo dục, tạo cơ hội việc làm cho học trò nghèo, nếu
không muốn nói rất lãng phí thời gian và kiến thức họ có được. Vậy làm sao
để hỗ trợ hiệu quả bền vững cho học sinh nghèo, cho họ "cần câu” cách gì
thay vì chỉ cho "cá”?”
 Về quá trình thực hiện:
- Cho vay sai đối tượng: phát hiện 3.639 hộ vay sai chính sách, chiếm
tỷ lệ 0,62% số hộ được kiểm tra, dù chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng cũng là vấn đề
cần quan tâm. Bởi nó không chỉ làm chính sách của chúng ta mất hiệu quả tối
đa mà còn là sự bất bình đẳng đối với các hộ gia đình, cá nhân học sinh, sinh
viên đáng được hưởng.
- Việc rà soát đối tượng được vay còn nhiều bất cập ở cấp cơ sở.
Chẳng hạn, sinh viên đúng đối tượng gia đình chính sách thật nhưng trên
thực tế gia đình này rất khá giả nhưng do quen biết, nể nang nhau mà được
bình chọn hộ gia đình chính sách. Gia đình này vay vốn vốn mục đích sản
xuất kinh doanh hoặc cho vay lại… vì kinh tế của họ hoàn toàn có thể trang
trải được cho con em mình.
- Tình trạng vốn vay học sinh, sinh viên thường chậm 2-3 tháng. Nhiều
địa phương còn lúng túng trong việc xác định hộ có thu nhập bằng tối đa 150
% hộ nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn. Do đối tượng vay vốn học sinh,
sinh viên gồm cả hộ nghèo và các hộ trên cận nghèo (cận nghèo có thu nhập
tối đa 130% hộ nghèo).
- Nguồn quỹ thiếu: Khi sinh viên đã hiểu rất rõ về lợi ích của chương
trình và tìm đến chương trình thì nguồn quỹ lại cạn kiệt. Việc quỹ không có

vốn cho vay làm cho hàng chục ngàn sinh viên đang theo học tại các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong cả nước sẽ không thể tiếp
tục theo học. Có thể bao nhiêu mơ ước, hoài bảo tốt đẹp bao nhiêu lâu nay sẽ
không có cơ hội để trở thành hiện thực.
III. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA
CHƯƠNG TRÌNH:
Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên nhằm hỗ trợ cho các
em học sinh, sinh viên thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với nguồn
vốn ưu đãi của Nhà nước, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh
hoạt trong quá trình theo học tại trường. Như vậy chương trình đạt được hiệu
quả khi:
- Không có sinh viên phải nghỉ học do không có tiền trang trải phí học
tập, không có gia đình nào có con em phải bỏ học vì không có điều kiện kinh
tế.
- Thủ tục gọn nhẹ, nhanh chóng, đơn giản, tạo điều kiện cho tất cả mọi
sinh viên đủ điều kiện vay vốn tiếp cận được nguồn vốn một các nhanh
chóng.
- Chi phí vận hành hệ thống thực hiện cho vay vốn là thấp nhất.
- Cho vay đúng đối tượng, là những người sử dụng vốn vay để học tập.
- Đảm bảo thu được nợ trong tương lai khi đến hạn một cách dễ dàng.
- Chương trình phải đảm bảo tính lâu dài.
Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên là một trong các chính
sách của Nhà nước nhằm thực hiện công bằng xã hội: giải bài toán công
bằng xã hội, tăng khả năng tiếp cận giáo dục đại học của người nghèo.
Trong câu chuyện tài chính cho giáo dục đại học công bằng thể hiện:
- Tạo cơ hội cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn có thể tiếp
cận với nền giáo dục ở cấp độ cao, góp phần thực hiện thành công các mục
tiêu của sự nghiệp giáo dục Quốc gia.
- Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

- Giúp cho bộ phận dân cư có thu nhập thấp có được sự bình đẳng về
học tập, giúp họ có đủ kinh phí để theo học các bậc học khác nhau kể cả đào
tạo nghề để có thể có một việc làm ổn định, thoát khỏi nghèo đói. Tạo ngoại
tác tích cực cho toàn xã hội.
IV. KẾT QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH:
Kể từ ngày Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về Tín dụng đối với học sinh, sinh viên được ban hành, đến
nay đã có trên 3,3 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đã được
vay vốn ngân hàng để học tập, với số tiền lên tới hơn 43.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Chính phủ, mặc dù đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ, nhưng việc xác nhận và lựa chọn đúng đối tượng khó
khăn thụ hưởng chương trình tín dụng này vẫn còn sai sót. Một số trường, cơ
sở dạy nghề còn chưa thực hiện tốt công tác trao đổi thông tin, thống kê số
lượng học sinh, sinh viên được vay vốn và việc thực hiện cam kết trả nợ.
Trong số những khó khăn còn tồn tại, ngoài khó khăn về vốn, về công
tác thông tin tuyên truyền thì sự phối kết hợp giữa Ngân hàng chính sách xã
hội với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội nhận ủy
thác ở một số nơi còn chưa tốt. Do vậy, nhiều địa phương còn chưa chú trọng
đến việc quản lý, sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và đặc biệt là về
trách nhiệm trả nợ tiền vay khi đến hạn.
Tình trạng ỷ lại vào tín dụng chính sách của một bộ phận người dân ở
một số địa phương có xu hướng gia tăng, đặc biệt là một số tỉnh khu vực Tây
Nam Bộ, Tây Nguyên. Điều này đặt ra việc thực hiện các giải pháp đồng bộ,
nhằm nâng cao ý thức của người dân, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ
trưởng Tổ tiết kiệm-vay vốn, phát huy hơn nữa vai trò của các hội, đoàn thể
và sự tham gia cụ thể, hiệu quả, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các ngành
liên quan.
Học sinh sinh viên ra trường không có việc làm hoặc việc làm thu nhập
thấp, việc làm không phù hợp với ngành được đào tạo chính là do chưa làm
tốt khâu kết nối giữa việc giới thiệu cho vay vốn với việc tư vấn, định hướng

nghề nghiệp cho con em các hộ gia đình trước khi quyết định lựa chọn ngành
nghề.
Công tác phối hợp giữa các ngân hàng chính sách xã hội với các
trường chưa đồng bộ nên trường chưa có đầy đủ thông tin hai chiều về việc
triển khai chương trình. Bộ phận quản lý gặp khó khăn trong việc theo dõi và
nắm bắt số liệu chính xác để tổng hợp, báo cáo.
Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên chưa hiểu hết ý
nghĩa của việc sử dụng vốn vay và trách nhiệm hoàn trả cùng gia đình.
Để bảo đảm việc triển khai Chương trình Tín dụng đối với học sinh,
sinh viên phù hợp với tình hình thực tế, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Chính sách Xã hội xác
định cụ thể nhu cầu vay của học sinh, sinh viên, trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định điều chỉnh mức cho vay phù hợp với mức học phí được
điều chỉnh theo nhóm ngành học.
Ngân hàng Chính sách xã hội cần điều chỉnh mức cho vay đối tượng
thuộc diện hộ cận nghèo để bảo đảm mức cho vay này thấp hơn mức cho vay
đối tượng thuộc diện hộ nghèo; thực hiện chỉ cho vay một lần với thời hạn
không quá 12 tháng đối với học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về
tài chính; tổ chức và triển khai việc thu tiền lãi các khoản vay của học sinh,
sinh viên đối với những trường hợp có điều kiện và tự nguyện đề nghị trả lãi
trong thời gian học sinh, sinh viên đang học.
V. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG ĐẠT ĐƯỢC
1. Hiệu quả
Chương trình đã được triển khai sâu rộng đến các địa phương trên toàn
quốc; phương thức cho vay dân chủ, công khai, nhanh chóng đi vào cuộc
sống và phát huy tác dụng. Đã đạt được những hiệu quả nhất định trong việc
đào tạo nhân tài và chăm lo cuộc sống của người nghèo, đối tượng khó khăn,
đảm bảo an sinh xã hội dần đi vào đời sống của mọi sinh viên, học sinh, của
mọi nhà gia đình có con em đã, đang, sắp vào đại học.

×