Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH PHÂN TÍCH TIÊU CHÍ BỘ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.2 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN –TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN
BÀI THUYẾT TRÌNH
PHÂN TÍCH TIÊU CHÍ
BỘ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Lớp: 14SKT11
Nhóm thực hiện (nhóm 1A):
1. Bùi Nam Trung
2. Lê Vũ Anh Thư
3. Phạm Tiểu Vy
4. Trần Thị Ánh Tuyết
5. Huỳnh Viết Tiến Bộ
6. Phạm Văn Hoan
TP.HCM, Tháng 11 năm 2014
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HỒ CHÍ MINH 1
KHOA KẾ TOÁN –TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 1
1
BÀI THUYẾT TRÌNH 1
PHÂN TÍCH TIÊU CHÍ 1
BỘ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH CÁC TIÊU CHÍ CỦA BỘ
LUẬT THUẾ TNCN 5
CHƯƠNG 3 - THỰC TRẠNG THI HÀNH LUẬT THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM THEO 5
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THUẾ 13
3.1.TIÊU CHÍ TÍNH CÔNG BẰNG 14


3.2.TIÊU CHÍ TÍNH HIỆUQUẢ 18
3.3.TIÊU CHÍ TÍNH ĐƠN GIẢN 19
3.4.TIÊU CHÍ TÍNH LINH HOẠT 19
3.5.TIÊU CHÍ TÍNH RÕ RÀNG 21
CHƯƠNG 4 - ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ 24
Nhóm thực hiện 1A Trang 2
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền
kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng
ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế
đang dần chứng tỏ là một quy luật của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này
thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với
môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các
quốc gia chú trọng.
Trong thời gian gần đây hệ thống thuế nước ta đã có rất nhiều thay đổi nhằm
thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1991, cho
đến nay qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay chính phủ đã nghiên cứu xây dựng
thành Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong những minh chứng cho công
cuộc cải cách thuế của Việt Nam.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng,
đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất
định. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng
rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát
triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn
thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng
xã hội một cách đắc lực.
Bởi vậy, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về tầm quan trọng của thuế TNCN, Nhóm

thuyết trình đã chọn đề tài “ Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân”.
Nhóm thực hiện 1A Trang 3
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY
Hiện nay chính sách thuế TNCN áp dụng các văn bản pháp quy sau:
1. Luật số: 04 /2007/QH12, ngày 21/11/2007
2. Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân
số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012
3. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013
4. Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013
5. Thông tư 119/2014-TT-BTC ngày 25/8/2014
Nhóm thực hiện 1A Trang 4
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH CÁC TIÊU
CHÍ CỦA BỘ LUẬT THUẾ TNCN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN) là một loại thuế thực thu đánh trên thu
nhập của các cá nhân trong từng thời kỳ.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối sớm. Lần đầu tiên
nó xuất hiện ở Anh vào năm 1799. Ở Mỹ, thuế TNCN xuất hiện trong thời kỳ chiến
tranh 1812. Sau năm 1815 nó bị xoá bỏ ở Mỹ do nhà nước không có nhu cầu tăng thu
ngân sách. Nhưng đến năm 1862 thuế TNCN quay trở lại Mỹ nhằm mục đích cung
cấp nguồn tài chính cho cuộc nội chiến. Thuế TNCN xuất hiện ở Nhật năm 1887, ở
Trung Quốc năm 1936 còn ở Hàn Quốc năm 1974.
1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN
Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của
các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo

luật của từng nước.
Do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế
TNCN được xếp vào loại thuế trực thu. Không giống các loại thuế gián thu (như thuế
tiêu dùng…) khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý người mua về khoản thuế mình phải nộp. Thuế trực thu có thể hiểu
bóng bẩy là nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó
chắc chắn có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của người nộp thuế. Chính vì vậy mỗi khi
chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế
suất hay thay đổi pham vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những
phản ứng mạnh mẽ trong dân cư.
Thuế TNCN thông thường là loại thuế luỹ tiến. Các nước thường xây dựng một
biểu thuế luỹ tiến, các bậc tương ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất
biên càng cao. Do đó những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng
góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo
tính công bằng trong xã hội (công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc). Khoảng
Nhóm thực hiện 1A Trang 5
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh hay yếu
của biểu thuế.
Thuế TNCN là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu
kinh tế. Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều chỉnh rất rộng
nên việc quản lý đối loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng cho người
nộp thuế. Đồng thờI do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn
thuế nên công tác quản lý thu thuế rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí
hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao.
1.1.3. Cơ sở tính thuế
Để hướng tới mục tiêu công bằng dọc, các nước thường quy định thu nhập
bình quân làm căn cứ tính thuế. Thu nhập bình quân chịu thuế được xác định theo
từng cá nhân. Mỗi cá nhân được chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính này đơn giản, dễ

áp dụng nhưng những mục tiêu công bằng đạt đựơc chưa cao. Các nước áp dụng theo
nguyên tắc này thường kèm theo những quy định khấu trừ hay trước giảm theo gia
cảnh một số chi phí nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình.
1.1.4. Vai trò của thuế TNCN
Thứ nhất, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Trong một nền
kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần
kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn thu
nhập trong xã hội
Thứ hai, thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Thứ ba, thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được Ủy
ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng
giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 06 lần sửa đổi,
bổ sung Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào
ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ
4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001(có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2001) và lần thứ 6 là Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-UBTVQH11 ban
Nhóm thực hiện 1A Trang 6
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
hành năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 đến nay). Việc thực hiện các quy
định của Pháp lệnh số 14 này được hướng dẫn bởi thông tư 81/2004/TT-BTC và
thông tư số 12/2005/TT-BTC.
Để nâng cao hơn nữa tính chất quan trọng và phải có các biện pháp chế tài đủ
mạnh để việc thực hiện thu thuế TNCN được đi vào ổn định, có hiệu quả, công bằng,
tại kỳ họp Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12 - Luật thuế
TNCN. Luật này đã có hiệu lực thi hành chính thức từ ngày 01/01/2009. Các thông tư
số 81 và 12 đồng thời hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2009. Luật thuế thu nhập

cá nhân có hiệu lực thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao.
Nhóm thực hiện 1A Trang 7
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
CHƯƠNG 2 - TIÊU CHÍ CỦA BỘ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. TÍNH CÔNG BẰNG
Có thể thấy thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội luôn không đồng đều, khi
khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân quá lớn cần có sự can thiệp của nhà nước,
đó là sự phân phối lại thu nhập thông qua chính sách thuế. Xét trong chuẩn mực nhất
định, công bằng trong phân phối thu nhập là một trong những đòn bẩy tạo ra động lực
cho sự phát triển kinh tế bởi chênh lệch thái quá về mặt thu nhập giữa các cá nhân
trong xã hội sẽ tạo ra sự kìm hãm đối với phát triển kinh tế.
Công bằng xã hội về phương diện kinh tế, không có nghĩa là thành quả tăng
trưởng kinh tế xã hội được chia đều cho mọi người. Công bằng trước hết được hiểu là
sự bình đẳng trong cơ hội (cơ hội việc làm, cơ hội đầu tư, bình đẳng trong tiếp cận
những cơ hội mà với cố gắng và năng lực của mình, con người có thể đạt đến một
mức sống cao hơn hiện tại).
Trên quan điểm xã hội, công bằng đối nhân được nhiều quốc gia áp dụng trong
luật thuế thu nhập cá nhân vì nó tái phân phối một cách hợp lý thu nhập xã hội, nghĩa
là phân chia gánh nặng thuế ra phạm vi toàn xã hội theo khả năng tài chính của người
nộp thuế. Tính chất công bằng của luật thuế thu nhập cá nhân nghĩa là nó không ưu
đãi cho một loại hoạt động nào, trừ khi đấy là mục đích chính trị mong muốn để theo
đuổi các mục tiêu đặc thù thông qua việc miễn thuế và tính thuế khác nhau. Không thể
có sự công bằng tuyệt đối, song khi phân biệt phải có lý do chính đáng.
Tính công bằng trong thuế thu nhập cá nhân có thể là tính công bằng theo
chiều dọc hoặc tính công bằng theo chiều ngang.
Công bằng dọc là đối xử có phân biệt giữa những người có khả năng kinh tế
khác nhau nhằm giảm bớt những khác biệt sẵn có, luật thuế phải phân phối gánh nặng
thuế công bằng cho mọi người phù hợp với từng khả năng chi trả.

Công bằng ngang là sự đối xử như nhau với những người có tình trạng kinh tế
giống nhau. Công bằng ngang thể hiện sự nhìn nhận cơ bản về bình đẳng, mọi phân
biệt đối xử giữa các cá nhân theo màu da, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính… đều bị coi
là vi phạm nguyên tắc công bằng ngang.
Nhóm thực hiện 1A Trang 8
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Thông thường một số tiêu thức cơ bản có thể đo lường được về khả năng thanh
toán như thu nhập, chi tiêu, của cải… được sử dụng để xác định tình trạng kinh tế của
các cá nhân. Luật thuế thu nhập cá nhân của các nước đảm bảo tính công bằng ngang
bằng việc quy định về “giảm trừ gia cảnh”.
Để đảm bảo công bằng, thuế TNCN thường được đánh theo biểu lũy tiến từng phần.
Đặc điểm này xuất phát từ vai trò điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao,
hạn chế sự động viên đóng góp của những người có thu nhập trung bình và thấp, góp
phần đảm bảo công bằng xã hội. Người có thu nhập cao, có nhiều thu nhập thì phải
đóng thuế nhiều hơn. Đây được coi là loại thuế công bằng hơn so với các loại thuế
khác vì nó đánh vào khả năng kinh tế của người nộp thuế.
2.2. TÍNH HIỆU QUẢ
Tính hiệu quả của pháp luật thuế thu nhập cá nhân thể hiện thông qua việc
không gây ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến cố gắng lao động, lựa chọn nghề nghiệp
nói riêng cũng như phân bố các nguồn lực xã hội nói chung, khuyến khích làm giàu
hợp pháp, qua đó thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển.
Về khía cạnh pháp luật, tính hiệu quả của luật thuế thu nhập cá nhân là một hệ
thống thuế khi được thực hiện sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước đồng
thời có mức chi phí thấp nhất. Nghĩa là khi ban hành luật thuế này cần tính tới mối
tương quan giữa tổng thu dự tính đạt được và chi phí dự tính phải trả cho việc thu,
quản lý thuế. Để đảm bảo yêu cầu này, vấn đề đặt ra là phải đảm bảo được các yêu
cầu khác của hệ thống pháp luật thuế như tính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực thi, dễ kiểm
tra, rõ ràng, thuận tiện cho công tác quản lý.
Mặt khác, tính hiệu quả của pháp luật thuế thu nhập cá nhân còn thể hiện ở việc

đảm bảo cân đối giữa khả năng chịu thuế và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước.
2.3. TÍNH ĐƠN GIẢN
Về việc đơn giản thủ tục hành chính thuế, tiến tới rút ngắn thời gian làm thủ tục
về thuế . Theo đó, cắt giảm, bỏ bớt những thủ tục hành chính thuế rườm rà không cần
thiết, nhưng vẫn đảm bảo tính minh bạch, khách quan trong việc thực hiện thu nộp
Nhóm thực hiện 1A Trang 9
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
NSNN theo đúng quy định của Luật quản lý thuế mà Quốc hội đã ban hành. Như sửa
đổi nguyên tắc chung về tính thuế, khai thuế; về thời kỳ
kê khai thuế; xác định doanh thu để xác định đối tượng khai thuế…
2.4. TÍNH LINH HOẠT
Căn cứ tình hình thực tế về mặt kinh tế, xã hội khiến hệ thống chính sách thực
thi pháp luậtcủa nước ta thường xuyên phải sửa luật, đó là quy định các căn cứ, định
mức chịu thuế quá cứng, không thể điều chỉnh tự động theo nền kinh tế và đời sống xã
hội nên phải linh hoạt thay đổi chính sách cho phù hợp.
Vòng luẩn quẩn của tình hình thực tế khiến thường xuyên phải sửa luật, đó là
quy định các căn cứ, định mức chịu thuế quá cứng, không thể điều chỉnh tự động theo
nền kinh tế và đời sống xã hội, thay vì quy định dựa theo chỉ số giá tiêu dùng CPI
hoặc mức lương tối thiểu, thì chúng ta vẫn xác định một con số cụ thể.
Cần xác định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân và mức giảm trừ
gia cảnh cho các đối tượng phụ thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế có
lạm phát cao, phù hợp với thu nhập bình quân của mọi thành viên trong xã hội, huy
động tối đa số lượng các đối tượng chịu thuế, góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, đảm bảo sự công bằng xã hội. Với ý nghĩa đó thì thuế thu nhập cá
nhân là khoản thuế mà mọi cá nhân có thu nhập đều phải có trách nhiệm, nghĩa vụ
đóng góp. Để tăng số lượng các đối tượng chịu thuế, tăng số lượng các đối tượng phụ
thuộc được giảm trừ gia cảnh, đảm bảo mức sống ổn định cho người lao động, để họ
yên tâm làm việc cống hiến cho xã hội, thì Luật thuế thu nhập cá nhân phải điều chỉnh

ngưỡng khởi điểm tính thuế; mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người phụ thuộc là và
Luật không nên quy định đối tượng phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ theo 1 người
nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, ví dụ như: mỗi người con trong gia đình đều
phải có trách nhiệm nuôi dưỡng cha mẹ thì thu nhập của mỗi người con này nên được
cho giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc là bố mẹ, có như vậy mới tạo ra sự đồng tình
của xã hội đối với Luật thuế thu nhập cá nhân.
Luật nên thay đổi mức thuế suất theo biểu thuế lũy tiến sao cho khoảng cách
giữa các mức không quá chênh lệch, có như vậy mới khuyến khích được những người
lao động có tài năng, đồng thời cũng giảm được hiện tượng khai man thu nhập, hiện
tượng gian lận thuế.
Nhóm thực hiện 1A Trang 10
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản thu nhập không được phản
ánh trên các sổ sách kế toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Có chế tài xử
phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng cố tình khai man thu nhập hoặc giấu thu nhập
để giảm bớt khoản thuế thu nhập cá nhân phải nộp cho nhà nước. Theo tác giả đối với
các đối tượng có mức thu nhập không ổn định và khó kiểm soát, có thể thực hiện
khoán thuế thu nhập cá nhân. Mặt khác phải quản lý chặt chẽ thu nhập từ tiền lương,
tiền công, thực hiện kê khai và nộp thuế thông qua cơ quan chi trả thu nhận, theo đó
mức thuế thu nhập cá nhân được khấu trừ tại nguồn theo biểu thuế suất lũy tiến từng
phần đối với các khoản chi trả thu nhập cho những cá nhân ký hợp đồng lao động từ 4
tháng trở lên và khấu trừ 10% thu nhập đối với khoản chi trả cho cá nhân không có
hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động dưới 4 tháng nếu số tiền mỗi lần chi trả từ
500.000 đ trở lên. Cơ quan chi trả thu nhập phải có trách nhiệm thu và chuyển số thuế
thu được vào kho bạc nhà nước. Để cho việc kê khai thuế , quyết toán thuế, hoàn thuế
thu nhập cá nhân một cách thuận lợi, dễ làm, dễ hiểu, dễ kiểm soát thì các điều luật và
thông tư dưới luật phải được thể chế hết sức đơn giản, rõ ràng, nhất quán, giúp cho
các tổ chức, các cá nhân hiểu rõ được luật thuế thu nhập cá nhân, từ đó họ nâng cao ý
thức, trách nhiệm của họ đối với xã hội .

Để luật thuế thu nhập cá nhân có tính pháp lý bền vững và ổn định lâu dài,
không bị lạc hậu thì Luật không nên quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập
cá nhân bằng một mức tiền tuyệt đối, làm như vậy phải thường xuyên điều chỉnh
ngưỡng khởi điểm tính thuế khi tốc độ lạm phát của nền kinh tế tăng cao. Theo tác giả
Luật nên quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so
với mức tiền lương, tiền công tối thiểu, có như vậy khi nhà nước điều chỉnh tiền
lương, tiền công tối thiểu sẽ không ảnh hưởng đến luật thuế thu nhập cá nhân. Đây
chính là một trong những căn cứ quan trọng để tạo ra sức sống lâu bền cho Luật thuế
thu nhập cá nhân .
Phải tăng cường công tác tuyên truyền Luật thuế thu nhập cá nhân trên các
phương tiện truyền thông để mọi người trong xã hội hiểu rõ được ý nghĩa, vai trò của
hệ thống thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng đối với sự phát triển của xã
hội, từ đó giúp cho họ có nhận thức đúng đắn và coi nộp thuế là trách nhiệm, là nghĩa
vụ của người dân yêu nước.
Nhóm thực hiện 1A Trang 11
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
2.5. TÍNH RÕ RÀNG
Về nguyên tắc, Luật Thuế TNCN cần quy định rõ mọi vấn đề về sắc thuế này,
tránh tình trạng dùng các văn bản dưới luật để giải thích, bổ sung nội dung của luật.
Hiện nay có đến hơn 50 văn bản hướng dẫn về thuế TNCN, làm cho người nộp thuế
nhiều khi cũng khó xác định được là trách nhiệm của mình ở mức nào, có được miễn
thuế hay giảm thuế không? Cơ quan chi trả thu nhập có tính đúng mức thuế phải trả
cho Nhà nước không? Thực trạng này đòi hỏi luật sửa đổi, bổ sung phải quán triệt
nguyên tắc rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực thi. Hiện nay, quy định về một loạt
các vấn đề đang còn nhiều bất cập, tạo ra sự không bình đẳng trong nghĩa vụ thuế thu
nhập cá nhân của người dân.
Nhóm thực hiện 1A Trang 12
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính

CHƯƠNG 3 - THỰC TRẠNG THI HÀNH LUẬT THUẾ TNCN Ở VIỆT
NAM THEO 5 TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THUẾ
Trong thời gian qua các chính sách thuế đối với thu nhập cá nhân ở nước ta nhìn
chung phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội đất nước, đã góp phần quan trọng trong
việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, kiểm soát thu nhập của cá nhân, phân phối lại
thu nhập, thực hiện công bằng xã hội cũng như bước đầu tạo thói quen và góp phần
nâng cao nhận thức của các đối tượng nộp thuế về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế cho NSNN. Nghị quyết đại hội đảng IX và X đã xác định áp dụng thuế TNCN
thống nhất và thuận tiện cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng và tạo động
lực phát triển. Mục tiêu tổng quát của chương trình là xây dưng hệ thống chính sách
thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Những tích cực:
- Phương pháp khấu trừ tại nguồn giúp cho công tác thu thuế thuận lợi
- Cấp mã số thuế cá nhân trong vòng 1 giờ
- Thực hiện thuế thu nhập cá nhân đã góp phần phân phối lại thu nhập
- Công tác tuyên truyền, phổ biến thuế thu nhập cá nhân đã được thực hiện
- Công tác thanh tra thuế thu nhập cá nhân đã bắt đầu phát huy hiệu quả
- Từng bước hoà nhập vào những quy định chung của luật thuế thu nhập cá
nhân của một số nước trên thế giới, dẫn đến thu hút được nguồn nhân lực nước ngoài
vào làm việc.
Những khó khăn và nguyên nhân:
Công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đã có những bước tiến bộ đáng kể
trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam vẫn còn gặp phải những tồn tại cũng như việc thực hiện chính sách thuế cụ thể
như sau:
- Hiện nay việc cấp được mã số thuế cá nhân cho toàn bộ dân cư trong xã
hội để thực hiện cơ chế quản lý thuế một cách tập trung, hiệu quả và kiểm soát được
thu nhập trong nhân dân là chưa thực hiện được.
Nhóm thực hiện 1A Trang 13

Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
- Về chính sách thuế thu nhập cá nhân còn nhiều bất cập, quy định chồng
chéo chưa rõ ràng.
- Phần mềm quản lý thuế chưa hệ thống được cơ sở dữ liệu dẫn đến việc
truy cập thông tin mất thời gian.
- Bất cập về sự cào bằng giữa thành thị và nông thôn: Hiện nay, người dân
và công chức sống tại các khu đô thị luôn chịu áp lực giá, phí, lệ phí, thuế cao hơn
các vùng khác. Đại đa số người có thu nhập cao là ở thành phố lớn, nơi có nhiều loại
và mức độ chi phí lớn. Tuy nhiên, Luật đã chưa tính hết được các yếu tố hình thành
chi phí trong đời sống thực tế. Luật thuế TNCN lại không tính đến chênh lệch thu
nhập như đã quy định mức lương tối thiểu phân theo vùng.
3.1. TIÊU CHÍ TÍNH CÔNG BẰNG
Đối tượng nộp thuế: cá nhân cư trú và không cư trú khi có thu nhập phải nộp
thuế theo quy định.
Quy định ngưỡng chịu thuế được đánh giá là phù hợp với sự gia tăng mức thu
nhập bình quân, nên thuế thu nhập đối với người có thu nhập đã góp phần làm giảm
khoản cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị, đảm
bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã
hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải tiện hơn.
Tính công bằng cũng được thực hiện thông qua chính sách miễn giảm thuế thu
nhập cá nhân và gánh nặng xã hội.
3.1.1. Miễn giảm thuế TNCN:
Ngoài các trường hợp được miễn giảm thuế theo luật định (Thu nhập từ phần
tiền lương, tiền công, làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền
lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ theo quy định của Bộ luật Lao
động , lương hưu trí……) thì Quốc Hội cũng ban hành Nghị quyết nhằm tháo gỡ khó
khăn trong giai đoạn nền kinh tế bị khủng hoảng.
Năm 2012, một năm đầy khó khăn đối với kinh tế thế giới, trong đó có Việt
Nam. Trước bối cảnh trên, ngày 21/6/2012 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết

29/2012/QH13 nhằm tháo gỡ một số khó khăn cho tổ chức và cá nhân.
Nhóm thực hiện 1A Trang 14
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Theo đó, miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 1/7 đến 31/12/2012 đối với cá
nhân có thu nhập ở bậc 1 của Biểu thuế lũy tiến từng phần được quy định tại điều 22
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12.
Đảm bảo công bằng trong việc đánh thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối
tượng nộp thuế, không mang tính tận thu và có xét đến điều kiện, hoàn cảnh sống của
từng người là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật về thuế.
Tồn tại: Việc xác định đối tượng miễn giảm và thu nhập được miễn giảm rất
phức tạp như thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thu nhập từ chuyển nhượng
nhà ở, thu nhập từ nhận thừa kế
Luật thuế TNCN đã phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu
nhập (10 loại theo Điều 3 của Luật). Tuy nhiên, các thu nhập được miễn thuế còn
tương đối nhiều (14 loại theo Điều 4 của Luật). Liệu việc miễn thuế có đảm bảo được
sự bình đẳng, công bằng trong nghĩa vụ thuế không? Về bản chất, thuế TNCN là thuế
trực thu nên việc điều tiết thu nhập phải hợp lý, tránh tình trạng bao cấp cho những
người giàu và trút gánh nặng lên những người có thu nhập trung bình. Việc xác định
thu nhập miễn thuế chính là thể hiện ưu đãi của Nhà nước đối với đối tượng nộp thuế
và thường hướng tới mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Nếu những mục tiêu này đặt
ra và không khả thi thì cũng phải tính tới việc việc loại bỏ những thu nhập miễn thuế
này và đưa vào diện chịu thuế.
3.1.2. Giảm trừ gia cảnh
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính
thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là
cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
Đối với người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng, 108 triệu đồng/năm (trước đây 4
triệu đồng/tháng, 48 triệu đồng/năm)
Đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng (trước đây 1,6 triệu

đồng/tháng)
(Theo Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Luật thuế TNCN)
Nhóm thực hiện 1A Trang 15
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Tính công bằng (công bằng ngang) thể hiện ở việc khi có thu nhập ngoài việc
thực hiện giảm trừ cho bản thân còn thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người thân (nếu
có) theo quy định (giảm trừ cho người phụ thuộc). Do đó, số thuế nộp sẽ giảm hơn so
với người không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Dưới đây là ví dụ cụ thể:
ST
T
Chỉ tiêu
Cách tính thuế
(không có người
phụ thuộc)
Cách tính thuế
(có người phụ thuộc)
1
Tổng thu nhập phát sinh 471.689.46
0
471.689.46
0
2
Tổng giảm trừ 81.033.59
3
153.433.59
3


Giảm trừ bản thân 78.000.00
0
78.000.0
00

Giảm trừ người phụ
thuộc
- 72.400.0
00

Đóng BH XH 3.033.59
3
3.033.5
93
3
Tổng thu nhập chịu thuế 390.655.86
7
318.255.86
7
4
Tổng số thuế phát sinh 58.331.17
3
43.851.17
3
5
Tổng số thuế đã tạm nộp 60.345.83
4
60.345.83
4
6

Số thuế nộp thừa
2.014.661

16.494.661
Công bằng dọc là mọi cá nhân khi phát sinh thu nhập đều phải nộp thuế giống nhau.
Tồn tại: xác định số lượng đối tượng được giảm trừ gia cảnh và xác định người phụ
thuộc. Hiện tại, cơ quan thuế hiện chỉ mới cấp mã số cho người nộp thuế mà chưa cấp
mã số thuế cho người phụ thuộc nên việc đối soát, xác định đối tượng giảm trừ gia
cảnh hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự giác của người nộp thuế, dẫn đến có thể kê
khai trùng người phụ thuộc.
Theo Khoản 4 Điều 4 của Luật thì: “Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất
động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con
nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với
cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau” thuộc diện
Nhóm thực hiện 1A Trang 16
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
được miễn thuế. Ở đây, cần xem xét tới yếu tố công bằng trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với Nhà nước. Ở các nước, các khoản thu nhập trên đều phải chịu thuế,
tùy thuộc vào giá trị của tài sản mà mức thuế phải trả là khác nhau. Người thừa kế
phải nộp thuế thu nhập (hoặc thuế thừa kế di sản) khi giá trị của tài sản thừa kế vượt
qua một mức nào đó và tùy thuộc vào việc đối tượng nộp thuế thuộc hàng thừa kế
nào. Ví dụ, theo Luật của Đức trước đây, vợ chồng, con cái nếu được thừa kế tài sản
trị giá từ 50.000 DM phải nộp 3% thuế trên giá trị tài sản đó. Nếu tài sản lớn hơn 100
triệu DM thì người thừa kế phải nộp 35% giá trị tài sản. Nếu người thừa kế là cháu
nội, cháu ngoại, cha mẹ thì số thuế phải nộp tương ứng là 6% và 50% giá trị tài sản
thừa kế, những người ở hàng thừa kế khác có thể phải nộp một mức thuế lên đến 70%
giá trị tài sản thừa kế. Pháp luật của Nam Phi quy định, người thừa kế phải nộp thuế
với mức 25% giá trị tài sản thừa kế không phụ thuộc vào hàng thừa kế[2]. Từ hai ví
dụ này, việc miễn thuế đối với thu nhập từ thừa kế bất động sản theo Luật Thuế

TNCN của Việt Nam hiện nay cần được xem xét để sửa đổi theo hướng đưa thu nhập
này vào diện chịu thuế, nhằm bảo đảm luật thuế là công cụ để đảm bảo công bằng
trong điều tiết thu nhập có hiệu quả. Việc không đánh thuế đối với thu nhập trên đã
tạo cơ sở cho sự tích tụ, đầu cơ đất đai một cách không hợp lý ở một số đối tượng,
làm cho giá nhà đất không phản ánh đúng quy luật của nó và đặc biệt không bảo đảm
được quyền có nhà ở của công dân.
3.1.3. Hoàn thuế TNCN:
Hàng năm sau khi quyết toán thuế TNCN nếu cá nhân nào nộp thừa thì được
hoàn trả lại khoản thuế nộp thừa này. Theo ví dụ trên nếu đối tượng nộp thuế đề nghị
hoàn số tiền nộp thừa thì làm hồ sơ đề nghị hoàn sẽ được hoàn trả lại số thuế nộp thừ
trên.
Tồn tại: thủ tục hoàn thuế đôi khi còn phức tạp do người nộp thuế chưa hiểu rõ
các thủ tục. Thời gian giải quyết hoàn thuế chậm
Để thuế TNCN phát huy được tốt nhất vai trò trong việc đảm bảo công bằng xã
hội, điều tiết thu nhập của mọi tầng lớp dân cư một cách hợp lý, bảo vệ quyền lợi của
người nộp thuế thì việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung nêu trên là hết sức cần
thiết, góp phần tăng tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều
kiện tương đồng với nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc
Nhóm thực hiện 1A Trang 17
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
tế. Ngoài ra, việc sửa đổi luật thuế cũng cần xác định rõ mục tiêu đầu tiên là đảm bảo
công bằng xã hội, còn việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước chỉ là mục tiêu thứ
hai. Nếu hai mục tiêu trên song hành thì rất khó thực hiện. Hơn nữa, nguyên tắc sửa
đổi phải đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, đảm bảo và phát huy quyền tự do kinh doanh của người dân, kích thích sự
phát triển của mọi thị trường, phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế của Nhà
nước. Nếu trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước chú trọng đầu tư cho sự phát triển của
thị trường tài chính thì nên chăng, những khoản thuế thu nhập đối với các chủ thể
tham gia thị trường này (người gửi tiền, nhà đầu tư chứng khoán) nên có sự nhất quán,

tránh trình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” như hiện nay (người gửi tiền thì
không phải nộp thuế, còn nhà đầu tư chứng khoán thua lỗ cũng vẫn không thoát khỏi
nghĩa vụ thuế TNCN). Điều này là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo sự bình đẳng về
nghĩa vụ thuế và tránh tình trạng thuế TNCN chỉ “nắm được người có tóc”.
3.2. TIÊU CHÍ TÍNH HIỆUQUẢ
Tạo nguồn thu ngân sách Nhà nước
Tính hiệu quả của pháp luật thuế thu nhập cá nhân thể hiện ở việc đảm bảo cân
đối giữa khả năng chịu thuế và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, hay số
thu của thuế đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng không để cho người
nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng. Đứng trên khía cạnh này, tính hiệu quả của
pháp luật thuế thu nhập cá nhân đồng nghĩa với “tính trung lập” của thuế.
Tồn tại:
Thuế TNCN chủ yếu thực hiện biện pháp khấu trừ tại nguồn. Trong khi việc
kiểm tra, kiểm soát chưa chặt chẽ, cùng với thị trường tiền mặt khá phổ biến nên chưa
bình đẳng trong quản lý thuế (trả lương chưa thông qua hệ thống ngân hàng).
Cơ quan thuế mới chỉ kiểm soát được thu nhập của những người làm công ăn lương,
còn các đối tượng khác phần lớn chưa kiểm soát được thu nhập, thậm chí còn khoán
thu đối với đối tượng kinh doanh thương mại dịch vụ (hộ kinh doanh), nên nếu duy trì
mức khấu trừ miễn thuế như hiện nay thì rất khó khăn cho người làm công ăn lương
Chưa kiểm soát được mọi nguồn thu nhập của từng cá nhân. Nguồn hình
thành TNCN quá đa dạng và phức tạp.
Nhóm thực hiện 1A Trang 18
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
3.3. TIÊU CHÍ TÍNH ĐƠN GIẢN
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc đơn giản thủ tục hành chính thuế, tiến
tới rút ngắn thời gian làm thủ tục về thuế ở nước ta từ nay đến năm 2015 xuống
ngang bằng các nước trong khu vực Đông Nam Á. Ngày 10/10/2014, Bộ Tài chính
đã ban hành Thông tư số 151/2014/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 91/2014/NĐ-
CP ngày 01/10/2014 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các

Nghị định quy định về thuế; Theo đó, việc cắt giảm, bỏ bớt những thủ tục hành
chính thuế rườm rà không cần thiết, nhưng vẫn đảm bảo tính minh bạch, khách
quan trong việc thực hiện thu nộp NSNN theo đúng quy định của Luật quản lý thuế
mà Quốc hội đã ban hành. Một số nội dung chính sửa đổi, bổ sung về thủ tục hành
nhằm đơn giản hơn nữa về thủ tục hành chính thuế trong phạm vi thẩm quyền của
Chính phủ và đã được Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện.
3.4. TIÊU CHÍ TÍNH LINH HOẠT
Vòng luẩn quẩn của tình hình thực tế khiến thường xuyên phải sửa luật, đó là
quy định các căn cứ, định mức chịu thuế quá cứng, không thể điều chỉnh tự động theo
nền kinh tế và đời sống xã hội, thay vì quy định dựa theo chỉ số giá tiêu dùng CPI
hoặc mức lương tối thiểu, thì chúng ta vẫn xác định một con số cụ thể.
Giải pháp một: Cần xác định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân và
mức giảm trừ gia cảnh cho các đối tượng phụ thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của
nền kinh tế có lạm phát cao, phù hợp với thu nhập bình quân của mọi thành viên trong
xã hội, huy động tối đa số lượng các đối tượng chịu thuế, góp phần làm tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, đảm bảo sự công bằng xã hội. Với ý nghĩa đó thì thuế
thu nhập cá nhân là khoản thuế mà mọi cá nhân có thu nhập đều phải có trách nhiệm,
nghĩa vụ đóng góp. Để tăng số lượng các đối tượng chịu thuế, tăng số lượng các đối
tượng phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh, đảm bảo mức sống ổn định cho người lao
động, để họ yên tâm làm việc cống hiến cho xã hội, thì Luật thuế thu nhập cá nhân
phải điều chỉnh ngưỡng khởi điểm tính thuế; mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người
phụ thuộc là và Luật không nên quy định đối tượng phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ
theo 1 người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, ví dụ như: mỗi người con trong gia
đình đều phải có trách nhiệm nuôi dưỡng cha mẹ thì thu nhập của mỗi người con này
Nhóm thực hiện 1A Trang 19
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
nên được cho giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc là bố mẹ, có như vậy mới tạo ra sự
đồng tình của xã hội đối với Luật thuế thu nhập cá nhân.
Giải pháp hai: Luật nên thay đổi mức thuế suất theo biểu thuế lũy tiến sao cho

khoảng cách giữa các mức không quá chênh lệch, có như vậy mới khuyến khích được
những người lao động có tài năng, đồng thời cũng giảm được hiện tượng khai man thu
nhập, hiện tượng gian lận thuế.
Giải pháp ba: Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản thu nhập
không được phản ánh trên các sổ sách kế toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế. Có chế tài xử phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng cố tình khai man thu nhập
hoặc giấu thu nhập để giảm bớt khoản thuế thu nhập cá nhân phải nộp cho nhà nước.
Theo tác giả đối với các đối tượng có mức thu nhập không ổn định và khó kiểm soát,
có thể thực hiện khoán thuế thu nhập cá nhân. Mặt khác phải quản lý chặt chẽ thu
nhập từ tiền lương, tiền công, thực hiện kê khai và nộp thuế thông qua cơ quan chi trả
thu nhận, theo đó mức thuế thu nhập cá nhân được khấu trừ tại nguồn theo biểu thuế
suất lũy tiến từng phần đối với các khoản chi trả thu nhập cho những cá nhân ký hợp
đồng lao động từ 4 tháng trở lên và khấu trừ 10% thu nhập đối với khoản chi trả cho
cá nhân không có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động dưới 4 tháng nếu số tiền
mỗi lần chi trả từ 500.000 đ trở lên. Cơ quan chi trả thu nhập phải có trách nhiệm thu
và chuyển số thuế thu được vào kho bạc nhà nước. Để cho việc kê khai thuế , quyết
toán thuế, hoàn thuế thu nhập cá nhân một cách thuận lợi, dễ làm, dễ hiểu, dễ kiểm
soát thì các điều luật và thông tư dưới luật phải được thể chế hết sức đơn giản, rõ
ràng, nhất quán, giúp cho các tổ chức, các cá nhân hiểu rõ được luật thuế thu nhập cá
nhân, từ đó họ nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ đối với xã hội.
Giải pháp bốn: Để luật thuế thu nhập cá nhân có tính pháp lý bền vững và ổn
định lâu dài, không bị lạc hậu thì Luật không nên quy định ngưỡng khởi điểm tính
thuế thu nhập cá nhân bằng một mức tiền tuyệt đối, làm như vậy phải thường xuyên
điều chỉnh ngưỡng khởi điểm tính thuế khi tốc độ lạm phát của nền kinh tế tăng cao.
Theo tác giả Luật nên quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế theo một tỷ lệ phần trăm
nhất định so với mức tiền lương, tiền công tối thiểu, có như vậy khi nhà nước điều
chỉnh tiền lương, tiền công tối thiểu sẽ không ảnh hưởng đến luật thuế thu nhập cá
Nhóm thực hiện 1A Trang 20
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính

nhân. Đây chính là một trong những căn cứ quan trọng để tạo ra sức sống lâu bền cho
Luật thuế thu nhập cá nhân .
Giải pháp năm: Phải tăng cường công tác tuyên truyền Luật thuế thu nhập cá
nhân trên các phương tiện truyền thông để mọi người trong xã hội hiểu rõ được ý
nghĩa, vai trò của hệ thống thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng đối với sự
phát triển của xã hội, từ đó giúp cho họ có nhận thức đúng đắn và coi nộp thuế là
trách nhiệm, là nghĩa vụ của người dân yêu nước.
3.5. TIÊU CHÍ TÍNH RÕ RÀNG
Luật thuế thu nhập cá nhân gồm có 4 chương,với 35 điều khoản đã thể hiện
đầy đủ tính chất pháp lý cho các cơ quan chuyên môn xác định đúng đối tượng nộp
thuế; Thu nhập chịu thuế; Thu nhập được miễn thuế và căn cứ tính thuế thu nhập cá
nhân một cách chính xác theo tinh thần của luật thuế TNCN.
Trường thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở
trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất thì không
phải nộp thuế. Điều này cũng cần xem xét lại, vì trên thực tế rất khó có thể kiểm soát
việc sở hữu nhà ở, đất ở của người bán có phải là duy nhất hay không. Hiện nay Việt
Nam chưa có hệ thống đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất hợp nhất trên cả
nước nên việc kiểm soát hiện nay chủ yếu dựa vào sự tự giác của người dân. Nếu ý
thức nộp thuế của người dân không cao thì việc thất thu thuế của Nhà nước là điều
không tránh khỏi. Trong khi đó, mục tiêu của sửa đổi luật thuế vẫn là duy trì nguồn
thu đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Đối với thu nhập chịu thuế, Luật thuế hiện hành chưa bao quát hết các khoản
thu nhập thuộc diện phải điều tiết như thu nhập từ ủy quyền bán bất động sản, thu
nhập từ đổi nhà, đổi đất. Đây thường là những khoản thu nhập lớn, cần thiết phải có
sự điều tiết của Nhà nước dưới hình thức thuế để đảm bảo quyền sở hữu nhà, đất ở
của người dân một cách chính đáng. Theo Luật thuế TNCN của Mỹ, nguồn thu nhập
chịu thuế không được giới hạn cụ thể mà linh hoạt, có nghĩa là các thu nhập chịu thuế
khác có thể phát sinh và Luật chỉ mang tính dự liệu. Tuy nhiên, Điều 3 Luật thuế
TNCN ở Việt Nam lại ấn định thu nhập chịu thuế bao gồm 10 loại. Vì vậy, có thể quy
định thêm một mục ở Điều 3 là “và các khoản thu nhập khác”.

Nhóm thực hiện 1A Trang 21
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Ngoài ra, Luật thuế TNCN chưa đánh thuế lũy tiến đối với thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản và cũng chưa phân biệt mức độ điều tiết theo thời gian nắm giữ
bất động sản. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu cơ và bong
bóng thị trường bất động sản hoành hành và gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bị áp
các mức thuế suất lũy tiến: lợi nhuận dưới 50% thì các khoản được khấu trừ: thuế suất
30%; lợi nhuận trên 50% nhưng dưới 100%, các khoản được khấu trừ: thuế suất 40%;
lợi nhuận trên 100% nhưng dưới 200%, các khoản được khấu trừ: thuế suất 50%; lợi
nhuận trên 200% các khoản được khấu trừ: thuế suất 60%. Các chi phí được phép
khấu trừ ở đây bao gồm: tiền mua quyền sử dụng đất, chi phí cải tạo đất, chi phí xây
dựng mới hoặc cải tạo công trình trên đất, các chi phí liên quan đến giao dịch bất
động sản. Ngoài ra, một số nước còn áp dụng thuế đối với lợi nhuận thu được từ giao
dịch bất động sản phù hợp với tần suất giao dịch, thời gian mua, bán lại bất động sản.
Nếu thời gian này diễn ra càng nhanh thì thuế suất càng cao, diễn ra chậm hơn thì lãi
suất thấp hơn. Ví dụ, tại Singapore, đất mua đi, bán lại trong năm đầu tiên bị đánh
thuế 100% trên giá trị chênh lệch mua, bán, sau hai năm thì mức thuế suất là 50%, sau
ba năm là 25%. Tại Đài Loan, giao dịch bất động sản thực hiện trong năm đầu sau khi
mua áp dụng thuế suất là 15%, thực hiện sau năm đầu và trong năm thứ hai sau khi
mua, thuế suất là 10%[3]. Luật Thuế TNCN cần nghiên cứu sửa đổi theo hướng quy
định đánh thuế lũy tiến đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản và phân biệt
mức độ điều tiết theo thời gian nắm giữ bất động sản.
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, cần xem xét lại mức điều tiết
bởi lẽ tại thời điểm này, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa phát triển ổn
định, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường còn ít, việc đầu tư còn mang tâm lý
“bầy đàn”, lướt sóng, lợi nhuận thu được chỉ là may, rủi, không thường xuyên, vì vậy
đánh thuế vào thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán có thể coi là rào cản, không
thúc đẩy sự phát triển thị trường này. Trong khi đó, thu nhập từ lãi tiền vay ngân hàng

mang tính chất thường xuyên, nhưng vẫn thuộc diện thu nhập miễn thuế.
Đối với Việt Nam, nên chăng cần xem xét lại theo hướng không quy định cụ
thể một mức giảm trừ gia cảnh mà nên tính theo lương tối thiểu đối với công chức
nhân với một hệ số nào đó. Điều này sẽ tạo hiệu lực lâu dài cho đạo luật thuế và đảm
Nhóm thực hiện 1A Trang 22
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
bảo được bản chất của giảm trừ gia cảnh (ngưỡng thu nhập không đánh thuế đối với
người nộp thuế) là Nhà nước không đánh thuế vào phần thu nhập tối thiểu trung bình
xã hội dùng để tái tạo sức lao động của người nộp thuế, bao gồm phần tái tạo sức lao
động của bản thân người nộp thuế và phần để nuôi dưỡng những người phụ thuộc.
Ngoài ra, khi chính sách tiền lương thay đổi thì mức giảm trừ gia cảnh cũng mặc
nhiên thay đổi theo, không cần phải sửa đổi luật liên quan.
Ngoài ra, tiêu chí xác định người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh hiện nay
chưa rõ ràng. Ví dụ, con ngoài giá thú được tính là người phụ thuộc nhưng con riêng
của vợ, chồng lại không quy định, con đi học muộn, con lưu ban, con đang chờ đi thi
đại học cũng không được quy định rõ ràng, gây khó khăn trong thực thi luật. Các vấn
đề này cần phải được sửa đổi và thể hiện rõ trong Luật thuế TNCN.
Nhóm thực hiện 1A Trang 23
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
CHƯƠNG 4 - ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ
4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến:
Những “bản tin thuế” do Tổng cục hoặc một số Cục thuế phát hành phải kịp
thời cung cấp những thông tin phong phú, hướng dẫn công tác “bắt đúng mạch” nhu
cầu, thiết thực góp phần nâng cao hiểu biết toàn diện cho cán bộ thuế về hoạt động
của toàn ngành, của địa phương, của một số nước để vận dụng, tháo gỡ vướng mắc,
khó khăn hàng ngày. Với đội ngũ ban biên tập và cộng tác viên trong và ngoài ngành
cần phải đông đảo, các bản tin thuế phải sinh động về nội dung, phong phú về hình
thức, giàu về lý luận và thực tiễn. Đây là diễn đàn để cán bộ trong ngành trao đổi kinh

nghiệm công tác, phong trào thi đua của địa phương, hiến kế, đề xuất những giải pháp
cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của từng loại thuế; phản ánh được những ý kiến
khác nhau trên nhiều góc độ và tiến tới trở thành người bạn thân thiết; gần gũi của cán
bộ toàn ngành thuế, của địa phương.
Tổng cục thuế, các Cục và chi cục thuế phải không ngừng phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan, quản lý báo chí, thông tin tuyên truyền đại chúng (báo hình, báo viết,
báo nói…) từ Trung ương đến địa phương, khai thác được thế mạnh của các phương
tiện này để truyền bá kịp thời, sâu rộng những thông tin về chính sách, chế độ thuế
đều khắp, từ thành thị đến nông thôn để mọi tầng lớp dân cư có điều kiện tiếp cận,
hiểu biết rõ hơn vai trò, vị trí của thuế trong cơ chế thị trường, về nghĩa vụ và quyền
lợi công dân qua công tác thuế, từng bước biến thuế thành một công tác quần chúng
cụ thể của toàn Đảng, toàn dân. Các chủ trương chính sách thuế hàng ngày phải đến
với dân để không ngừng góp phần nâng cao tinh thần giác ngộ kiến thức để “dân biết,
dân bàn, dân kiểm tra” việc thực hiện, cả với cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế một
cách thuận lợi.
Triển khai nhanh chóng hình thức tuyên truyền và lắng nghe ý kiến của dân
theo phương trâm “mưa lâu thấm dần” thông qua nhiều buổi tọa đàm, tiếp xúc, trao
đổi, đối thoại, góp ý, gây được không khí cởi mở, gần gũi giữa người nộp thuế và cán
bộ thuế, giữa các doanh nghiệp và các vị lãnh đạo cấp cao của Chính phủ, của cán các
Bộ, cùng tìm ra giải pháp phát huy tác dụng toàn diện thuế có thể góp phần quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế; bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước; từng bước
Nhóm thực hiện 1A Trang 24
Phân tích tiêu chí Bộ Luật thuế Thu nhập cá nhân
GVHD: PGS.TSKH Phạm Đức Chính
thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng được tích
lũy, nộp thuế thuận lợi, dễ dàng.
Cơ quan thuế các cấp tổ chức nhiều “đường dây nóng” bố trí cán bộ thường
trực có đủ trình độ, kịp thời tư vấn, giới thiệu, giải đáp thắc mắc về thuế phát sinh
trong suốt quá trình triển khai cac luật thuế mới.
Tổng cục thuế cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ: Tư pháp, Giáo dục- đào tạo,

Văn hóa- thông tin, Ban Văn hóa- Tư tưởng Trung ương xây dựng và cung cấp các đề
cương tuyên truyền cho hệ thống màng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên và biên
soạn nhiều bài học về thuế cơ bản, nhẹ nhàng đưa vào môn giáo dục công dân cho học
sinh các cấp II, III. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi “Tìm hiểu về thuế”.
Tóm lại, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức về
thuế.
4.2. Thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành quản lý nhà nước
(cơ chế giám sát đồng bộ):
Hiện nay, ở Việt Nam phương thức giao dịch thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt
chưa có thanh toán qua ngân hàng. Vì vậy, việc thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ,
hiệu quả là rất cần thiết.
Cơ chế giám sát đồng bộ cho phép ngành thuế phối hợp với các bộ, ngành liên
quan để nắm được các thông tin về đối tượng nộp thuế. Sự hỗ trợ của Bộ Kế hoạch
Đầu tư, Bộ công an, Bộ Lao động- Thương binh xã hội, Bộ Công thương và các bộ
khác trong việc quản lý đối tượng lao động cũnJg như kết hợp trong công tác xử lý vi
phạm là điều hết sức cần thiết. Việc này không chỉ giảm bớt gành nặng cho cơ quan
thuế mà còn nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân.
Để đảm bảo cho cơ quan thuế có đầy đủ quyền hạn trong công tác quản lý thuế
thu nhập cá nhân thì Nhà nước cần có một số văn bản qui định rõ về quyền hạn của cơ
quan thuế. Đồng thời cũng cần có những văn bản qui định về nghĩa vụ của các cơ
quan chức năng khác trong việc phối hợp cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế nói
chung và thuế thu nhập cá nhân noi riêng. Các Bộ cần có nghĩa vụ chỉ đạo các đơn vị
thuộc Bộ mình thực hiện nghiêm túc công tác khấu trừ thuế thu nhập cá nhân trước
khi chi trả. Bộ Lao động và thương binh xã hội, Bộ kế hoạch đầu tư có trách nhiệm
thông báo chính xác số lao động ở các doanh nghiệp, các văn phòng đại diện…Hoặc
Nhóm thực hiện 1A Trang 25

×