Tải bản đầy đủ (.doc) (225 trang)

TỔNG HỢP CÂU HỎI ÔN THI LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CÓ ĐÁP ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 225 trang )

TỔNG HỢP CÂU HỎI ÔN THI LTTCTT
Câu 1: Phân tích phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế
vĩ mô của chính phủ. Liên hệ với tình hình thực tiễn của Việt Nam trong thời gian qua?
1. Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan
trọng, mỗi chính sách có mục tiêu riêng, nhưng đều cùng theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng kinh
tế bền vững và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực
tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, CSTK được coi là một trong
những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, một CSTK
vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu
tư lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một
sự nới lỏng CSTK đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng cầu
và tài trợ thâm hụt.
CSTT là công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, kết quả là chi
phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu chính sách đề ra. Một CSTT nới lỏng sẽ
làm tăng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy tăng tổng cầu và gây áp lực lạm phát nếu cung tiền
tăng quá mức so với sản lượng tiềm năng.
CSTK tác động đến CSTT trước hết qua kênh tài trợ thâm hụt ngân sách: Nếu thâm hụt ngân sách được
tài trợ từ vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, nếu tài trợ bằng cách vay từ NHTW thì
sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và mặt bằng giá cả, nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách
vay từ các NHTM thì nguồn vốn cho vay các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giảm, hạn chế năng
lực đầu tư của các khu vực kinh tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra,
CSTK còn ảnh hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng của NHTW trong việc kiểm soát luồng ngoại
tệ, nếu chính sách thu chi ngân sách không hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả phân bổ nguồn
lực và làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
CSTT tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT, một CSTT thắt chặt sẽ làm
giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn thu ngân sách, một sự giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản
nợ Chính phủ bằng ngoại tệ qui đổi, nếu NHTW điều chỉnh tăng lãi suất thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ
giảm và ảnh hưởng đến khả năng cân đối ngân sách.
Các khoản thu chi của Chính phủ được phản ánh rõ qua các giao dịch trên tài khoản kho bạc mở tại


NHTW hoặc các NHTM, tiền gửi kho bạc tăng cao sẽ làm giảm nguồn vốn khả dụng của các NHTM,
qua đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Tiền gửi của Chính phủ tại NHTW chiếm tỉ trọng lớn trong
tiền cơ bản, nên cũng là yếu tố quan trọng làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
việc chuyển tiền hai chiều trên tài khoản của Chính phủ tại NHTW sẽ gây biến động đến tiền cơ bản.
Đây là những yếu tố gây áp lực đến việc kiểm soát cung tiền và thực thi CSTT, việc kiểm soát cung
tiền và lãi suất sẽ khó khăn hơn nếu một phần tiền gửi kho bạc được gửi tại các NHTM.
Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách này phải nhất quán về mặt
mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá trình thực thi. Khi bù đắp thâm hụt
ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính phủ và NHTW mua vào, tạo thêm công cụ
để điều tiết thị trường tiền tệ. Trong quá trình thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và các khoản thu chi
lớn của Chính phủ phải có kế hoạch và được thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được
diễn biến cung tiền để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu quả của CSTT.
1
Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mô hình IS-LM. Theo mô hình này, tăng
chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược
lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất vì khi đó cung tiền giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà
hoạch định chính sách điều chỉnh CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất
trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, mô hình Timbergen của nhà kinh tế học cùng tên người Hà Lan có thể
giúp các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tìm kiếm được sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và
CSTK.
2. Thực trạng phối hợp CSTT và CSTK tại Việt Nam
Tại Việt Nam, việc phối hợp CSTT và CSTK đã có những chuyển biến tích cực, nhất là trong việc chỉ
đạo điều hành giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Bộ Tài chính, có sự phối hợp trong
việc phát hành tín phiếu kho bạc, xác định lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ, Luật NHNN cũng đã
qui định là không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, tiền gửi kho bạc phải gửi tại NHNN.
Hàng năm, Quốc hội thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu và khống chế mức thâm hụt ngân
sách trong tỉ lệ nhất định, việc chỉ đạo điều hành của Chính phủ cũng đảm bảo sự nhất quán giữa mục
tiêu CSTT và CSTK.
Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, còn thiếu sự phối hợp trong quá trình điều hành hai chính sách
này, chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với chính sách lãi suất của

NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các khoản thu chi lớn của ngân sách nhà nước,
nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ.
Từ cuối năm 2007, kinh tế thế giới biến động mạnh và bước vào thời kỳ suy thoái, gây ra những bất ổn
khó lường đối với nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính trong nước chao đảo mạnh, đe dọa tính
thanh khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất và tỉ giá biến động mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Để
ổn định thị trường, NHNN, Bộ Tài chính và các bộ, ngành đã có nhiều biện pháp can thiệp quyết liệt,
kịp thời và có hiệu quả, từng bước giải quyết các vấn đề phát sinh.
Từ tháng 6/2007 đến tháng 9/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát,
nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm phát vì thế không đạt được hiệu
quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi. Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì
CSTK lại nới lỏng, khiến áp lực lạm phát và lãi suất tăng. Khi đó, CSTK mới bắt đầu điều chỉnh theo
hướng giảm tỉ lệ thâm hụt xuống dưới 3% GDP, cắt giảm 10% chi thường xuyên, v.v.
Từ tháng 10/2008 đến nay, Chính phủ chủ trương nới lỏng CSTT và CSTK để hỗ trợ phục hồi kinh tế
sau khủng hoảng. Đối với CSTT, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản để giảm mặt bằng lãi suất
cho vay, đồng thời tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng trong nền kinh
tế. Đối với CSTK, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, bao gồm 5 nhóm giải pháp
cơ bản, trong đó kích cầu kinh tế là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh khoản
36.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ và hàng loạt chính sách an sinh xã hội và phát triển hạ tầng nông
thôn, miễn giảm một số loại thuế, hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước 2009, phát hành
trái phiếu Chính phủ bổ sung, …. Chính phủ đã dùng 1 tỉ USD từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ
giảm 4% lãi suất (thời hạn 8 tháng) và 20.000 tỉ đồng (thời hạn 24 tháng).
Về vấn đề kích cầu, NHNN đã thực hiện đúng nguyên tắc với nhiều giải pháp thích hợp nhằm hướng
các khoản vay đúng đối tượng, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay hỗ trợ lãi suất và hạn chế rủi ro hệ
thống. Nhờ đó, các tổ chức, cá nhân đã tiếp cận được vốn ngân hàng với chi phí thấp, giảm giá thành
sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh và việc làm, từng bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 26/11/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất là
415.886,92 tỉ đồng.
2
Tuy nhiên, với mức thâm hụt ngân sách khá cao để nới lỏng CSTT và CSTK, nguồn vốn trong nền kinh

tế dường như đã bị cạn kiệt, có thể ảnh hưởng đến giá trị VND và gây áp lực tăng lãi suất, nhiều ngân
hàng đã tăng lãi suất huy động đến sát trần qui định 10%, nhất là từ cuối tháng 10/2009, buộc NHNN
phải quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12/2009.
Thực trạng CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy, mặc dù hai chính sách này đã được tận dụng tối đa
và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở những tác động tích cực và làm nảy
sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. Điều này cũng do CSTT linh hoạt hơn so với CSTK, việc thay đổi
lượng tiền cung ứng sẽ làm thay đổi mức lãi suất và NHTW có thể tác động đến đầu tư, xuất khẩu ròng
và tiêu dùng trong ngắn hạn. Trong đó, NHNN có thể sử dụng CSTT để điều chỉnh mức lạm phát, gây
tác động lên năng suất lao động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất khó thay
đổi CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế hoạch ngân sách hàng
năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với CSTT.
Trong điều kiện Việt Nam, áp lực đối với ngân sách nhà nước tồn tại thường xuyên và có xu hướng
tăng, cơ cấu và hiệu quả cũng như khả năng kiểm soát chi tiêu ngân sách nhà nước thể hiện các dấu
hiệu thiếu bền vững do các khoản chi tiêu ngân sách không tạo ra nguồn thu trong tương lai, thậm chí
gây sức ép cho chuỗi bội chi mới. Gói kích cầu trong thời gian qua đã có tác dụng loại trừ nguy cơ đổ
vỡ dây chuyền trong khu vực doanh nghiệp và nền kinh tế không bị rơi vào suy thoái trầm trọng, nhưng
xu hướng mở rộng chi tiêu công và các biện pháp nới lỏng kiểm soát tiền tệ kéo dài đang gặp phải cản
trở lớn là hiệu quả đầu tư quá thấp với bằng chứng là chỉ số ICOR năm 2008 đã lên con số 8. Trên thực
tế, nền kinh tế đứng trước nguy cơ của vòng xoáy lạm phát, nếu cứ tiếp tục kích cầu và thực hiện gói
kích cầu thứ hai mà không có giải pháp dài hạn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đảm bảo
nguồn trả nợ trong tương lai.
3. Một số giải pháp và kiến nghị
CSTT và CSTK là hai bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, hai chính sách này
có mối quan hệ chặt chẽ đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình hoạch định và thực thi. Để đảm
bảo hiệu quả phối hợp giữa CSTT và CSTK, cần có sự thống nhất trong các chính sách nhằm đảm bảo
mục tiêu chung, đồng thời cân nhắc tác động trái chiều của các chính sách, tăng cường trao đổi thông
tin giữa Bộ Tài chính và NHNN để làm cơ sở xây dựng và thực thi các biện pháp chính sách một cách
có hiệu quả và kịp thời. Đối với các gói kích cầu, cần tăng cường kiểm soát chất lượng các khoản tín
dụng hỗ trợ lãi suất, kiểm soát tín dụng cho các mục tiêu kinh doanh chứng khoán và bất động sản.
Cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, có biện pháp giảm thất

thoát trong chi tiêu đối với các dự án và công trình lớn nhưng không hiệu quả, đảm bảo yêu cầu kiểm
soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm mục tiêu kiểm soát việc chấp hành chế độ. Có biện pháp quyết
liệt về cải cách doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngân sách nhà nước. Rà soát lại hệ thống DNNN, xử lý kiên quyết các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cần tính đến ảnh hưởng tiêu cực của chính sách vay nợ nước ngoài liên
quan đến tỉ giá, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại, không để ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng
lai và cán cân thanh toán
Câu 2: Phân tích hiện tượng ‘chèn lấn’ các khoản vay của chính phủ đối với đầu tư và xuất khẩu
của khu vực tư. Nêu các giải pháp khắc phục hiện tượng này.
3
Trong kinh tế học, hiện tượng chèn lấn (đầu tư) xảy ra khi chính phủ mở rộng việc vay mượn để tài trợ
chi tiêu hoặc để bù đắp việc cắt giảm thuế vượt doanh thu (tức là có hiện tượng thâm hụt chi tiêu), dẫn
tới mức lãi suất cao hơn, và kết quả là làm đầu tư ở khu vực tư nhân bị sụt giảm.
Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như phát hành trái phiếu, tín phiếu,
công trái Đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng
lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập ngoài ra còn phải triển khai các biện pháp khác, kể cả tuyên
truyền, vận động để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định.
Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính phủ vay bị giới hạn trong
tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại
dành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng tiền huy động được, nhưng xã
hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có
khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của
ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp
và dân cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh.
Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứa đựng nguy cơ kìm hãm các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con
đường phát hành trái phiếu, tín phiếu bị chính bản thân giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh các biện pháp có nguy cơ làm
giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc

doanh và các tầng lớp dân cư. Biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong
trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái
phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi
về các trái phiếu đấy.
Về nguyên tắc, tháo lui đầu tư, có thể tránh được nếu thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng phát hành
tiền, nhưng biện pháp này lại nhanh chóng dẫn tới lạm phát tăng cao.
- Thoái lui cũng có thể xảy ra do chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Vay mượn chính phủ dẫn tới lãi suất
cao làm các dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước (tức là tiền nước ngoài tập trung vào những tài
sản phát hành bằng nội tệ). Dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, việc lưu chuyển dòng vốn này dẫn tới
giá đồng nội tệ tăng cao (hay tỷ giá hối đoái giảm) và vì vậy sẽ gây ra thoái lui xuất khẩu (hàng nội
địa trở nên đắt đỏ hơn đối với người sử dụng đồng tiền nước ngoài). Tác động này ngược chiều với tác
động kích cầu của thâm hụt ngân sách, nhưng không có tác động ngược chiều rõ ràng nào tới sự tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn.
- Thoái lui trầm trọng nhất khi một nền kinh tế đã gần đạt tới mức toàn dụng. Lúc đó, chính sách mở
rộng bằng thâm hụt ngân sách của chính phủ chỉ dẫn tới giá cả tăng, và cầu tiền tăng. Tác động này
lại làm lãi suất tăng cao hơn và làm giảm mong muốn đầu tư. Ở mức toàn dụng, các doanh nghiệp
không còn thị trường vì vậy tác động tăng tốc là không có. Trực tiếp hơn, nếu nền kinh tế toàn dụng,
bất cứ sự gia tăng nào của chi tiêu chính phủ chỉ làm các nguồn lực rời khỏi khu vực tư nhân mà thôi.
Việc tài trợ chi tiêu có thể được thực hiện thông qua phát hành TP (vay nợ) trong nước. Biện pháp tài
trợ này có thể chia thành vay nợ từ công chúng hoặc từ hệ thống các NHTM.
Vay nợ từ công chúng huy động với lãi xuất cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục ngàn
tỷ đồng/ năm trong tương lai và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách.
Nếu chính phủ vay nợ hệ thống ngân hàng thương sẽ gây sức ép đối với dự trữ của các NHTM và các
NHTM sẽ đòi hỏi trợ giúp về khả năng thanh khoản từ NHNN. Nếu những đòi hỏi này được NHNN đáp
4
ứng, cơ sở tiền sẽ tăng làm lạm phát sẽ quay trở lại. Tuy nhiên, nếu NHNN không đáp ứng những đòi
hỏi về tính thanh khoản này, các NHTM buộc phải giảm các nguồn tín dụng cho khu vực DNTN và lao
vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động. Trong kinh tế học, hiện tượng này được biết đến với cái tên
lấn át đầu tư – tức là chi tiêu CP cuối cùng sẽ lấn át đầu tư của khu vự tư nhân. Việc vay nợ sẽ đẩy lãi
suất lên cao và gây khó khăn thêm cho các DNTN và không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.

Vấn đề của Việt Nam khi tác nhân chính đóng góp làm tăng tổng cầu chính là chi tiêu ngân sách của
Chính phủ. Để tăng trưởng kinh tế thì cách dễ dàng nhất là tăng chi tiêu chính phủ. Tình trạng thâm
hụt ngân sách vẫn cứ tiếp diễn năm này qua tháng khác là một minh chứng cho vấn đề này. Khi chi
tiêu chính phủ tăng lên sẽ đóng góp chủ động làm tăng tổng cầu, từ đó cũng làm tăng cầu tiền tệ. Cầu
tiền tệ tăng lên, tất yếu tạo áp lực tăng lãi suất, trừ khi cung tiền cũng tăng theo. Khi đó, khu vực tư
nhân buộc phải cắt giảm bớt đầu tư và nhập siêu cũng phải tăng lên để phản ứng bị động trước sự gia
tăng của tổng cầu do chi tiêu ngân sách chèn lấn. Do bị chen lấn tín dụng như vậy nên doanh nghiệp
tư nhân luôn bị đói vốn và phải chấp nhận vay vốn với lãi suất quá cao, có thời điểm lên tới 20 – 22%.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp tư
nhân.
Như vậy khu vực tư nhân phải chịu hy sinh cho sự bành trướng của chính sách tài khoá và nền kinh tế
phải gánh chịu những hậu quả của tình trạng thâm hụt kép từ cán cân ngân sách và cán cân thương
mại. Không những chỉ có áp lực về lạm phát và lãi suất mà hệ quả của nó còn là các căng thẳng ngoại
tệ, áp lực tỷ giá và sự suy giảm dự trữ ngoại hối quốc gia.
Giải pháp:
Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu
tư của khu vực tư.
Chính phủ và nhất là các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả phải cắt giảm mạnh đầu tư của mình,
phân bổ vốn đầu tư công sao cho hợp lý (ví dụ, theo hướng tăng cường phát triển nguồn nhân lực bằng
cách đầu tư vào y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học), giám sát tốt quá trình đầu tư, nâng cao hiệu quả
quản lý và vận hành khối DNNN. Theo hướng này thì tổng cầu nhanh chóng giảm (vì phía tổng cung
đang có xu hướng giảm) và kết quả mong đợi là lạm phát sẽ giảm và lãi suất cũng giảm theo. Khi đó
khu vực tư nhân tiếp tục đầu tư các dự án có năng suất của họ và khởi đầu lại một chu kỳ kinh tế mới.
Chỉ có như vậy thì sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng mới có thể giảm thiểu.
Tuy nhiên, hiện tượng chèn lấn đầu tư có thể giảm bớt tính nghiêm trọng nếu chính phủ chi tiêu mở
rộng thị trường cho các sản phẩm ở khu vực tư nhân, và vì thế kích thích đầu tư trở lại (tác động gia
tốc kinh tế). Tác động này quan trọng nhất khi các doanh nghiệp đang trong tình trạng dư thừa năng
lực, tức là nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
Câu 3: Trình bày nội dung cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng tự do hóa tài chính.
Thực hiện tựdo hoá tài chính trong lĩnh lực ngân hàng

1.4.1.1 Tựdo hoá lãi suất
Tựdo hoá lãi suất là cơchếlãi suất trong đó có rất ít hoặc không có sựcan thiệp của các cơquan chức
năng vào việc hình thành lãi suất mà lãi suất được hình thành trên cơsởthịtrường, vận động theo qui luật
cung cầu.
Tựdo hoá lãi suất được hiểu là lãi suất hoàn toàn được điều chỉnh theo yêu cầu của thịtrường. Sựcan
thiệp của NHTƯ đối với lãi suất thịtrường được điều hành thông qua các công cụgián tiếp nhưlãi suất
tái chiết khấu hay tái cấp vốn đểtác động lên cung cầu vốn trên thịtrường tiền tệnhằm xác lập mức lãi
5
suất cân bằng. Nhưvậy tựdo hoá lãi suất có thể được hiểu là việc tháo bỏhoàn toàn các ràng buộc vềlãi
suất trong nền kinh tế, cho phép lãi suất trong nền kinh tế đạt tới điểm cân bằng của nó. Thực chất của
tựdo hoá lãi suất là một quá trình loại bỏcác quy phạm, giới hạn bất hợp lý, loại bỏtối đa các kiểm soát
vềlãi suất trong kinh doanh tiền tệcủa khu vực trung gian tài chính và thay thếbằng các biện pháp điều
tiết lãi suất gián tiếp của NHTƯthông qua các công cụcủa chính sách tiền tệ: trong điều hành chính sách
lãi suất, NHTƯchỉcông bốcác mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc tái
cấp vốn của mình đối với các tổchức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi, cho vay cụthểtheo từng thời
kỳ, từng đối tượng của các tổchức tín dụng đối với nền kinh tếsẽdo tổchức tín dụng tự ấn định, dựa trên
cung cầu vốn và sựcạnh tranh trên thịtrường, từ đó hình thành nên mức lãi suất phản ánh đúng nhu cầu
thịtrường. Khi muốn điều hành lãi suất kinh doanh của các tổchức tín dụng trong nền kinh tế, phù hợp
với mục tiêu của chính sách tiền tệtừng giai đoạn, NHTƯsẽthực hiện thông qua điều hành lãi suất tái
chiết khấu của mình đốivới các tổchức tín dụng, từ đó tác động đến lãi suất trên thịtrường tiền tệliên
ngân hàng và cuối cùng sẽtác động đến lãi suất kinh doanh của các tổchức tín dụng.
Tựdo hóa lãi suất góp phần làm cho các dòng vốn trong xã hội được tựdo lưu chuyển đến bất kỳ đâu,
tùy thuộc vào ý muốn của nhà đầu tưmà không phải gặp bất cứsựngăn cản phi kinh tếnào. Lãi suất khi
đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm, phản ánh nhu cầu đòi hỏi của thịtrường. Nhờcó quá trình tựdo
hóa lãi suất mà dòng vốn được lưu chuyển từnơi có lợi nhuận thấp đến nơi có lợi nhuận cao, từnơi nhiều
rủi ro đến nơi mức rủi ro thấp hơn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện ổn định kinh
tếvĩmô, tăng vốn đầu tưphát triển sản xuất, giúp các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tếphát
triển mạnh và có hiệu quả.
Lãi suất nếu chưa được tựdo hóa và vẫn bịkiểm soát chặt chẽtrong thời gian dài sẽgây ra những thiệt hại
tổng thểcho nền kinh tế. Trong trường hợp các ngân hàng buộc phải thực hiện cho vay với lãi suất thấp

hơn lãi suất thịtrường dưới một sức ép nào đó và phải huy động với lãi suất cao thì chênh lệch lãi suất
đầu vào và lãi suất đầu ra sẽkhông đảm bảo bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng, nhưthếcác tổchức
tín dụng sẽkhông phát triển. Mặt khác, khi phải cho vay với lãi suất thấp và huy động vốn với lãi suất
thấp để đảm bảo đủbù đắp chi phí, lãi suất thấp sẽkhông khuyến khích người dân duy trì nguồn vốn tiết
kiệm của mình ởtrong nước từ đó dẫn đến kìm hãm sựtăng trưởng các khoản tiết kiệm và giảm hiệu
quảcủa đầu tư.
Khi kiểm soát lãi suất quá chặt chẽsẽkhuyến khích sựhình thành các công cụtài chính và các trung gian
tài chính không chính thức phát triển đểcạnh tranh với các công cụtài chính và các trung gian tài chính
chính thức bịkiểm soát làm cho quá trình phi trung gian tài chính phát triển và sựtrốn tránh các quy
chếkiểm soát.
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình điều hành nền kinh tế, nhiều quốc gia đặt ra mức trần lãi suất cho
vay nhằm kiểm soát cảlãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nghĩa là không tựdo hóa lãi suất dẫn đến hậu
quảthịtrường tài chính không ổn định và không phát huy được tính năng động sáng tạo, không ổn định
làm cho hiệu quảtrong việc huy động vốn và sửdụng vốn không cao và nhất là không khơi dậy được
nguồn vốn tiềmnăng của dân cư đầu tưcho sản xuất. Nhà nước điều hành thịtrường song chính sách lại
tách rời khỏi các thuộc tính của kinh tếthịtrường tất yếu không mang lại hiệu quả.
Tiến trình tựdo hóa lãi suất ngoài những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực, ảnh hưởng
đến nhiều mặt của nền kinh tế. Nhưng đứng trước bối cảnh hội nhập, các nước cần phải tựdo hóa lãi
suất, vấn đềlà các nước nên chọn cách đi nào cho phù hợp với nền kinh tếthịtrường hiện nay và phải làm
thếnào đểcó thểtận dụng và phát huy tối đa những mặt tích cực mà tựdo hóa lãi suất mang lại cũng
nhưhạn chếđược tối đa những tác động xấu của cơchếnày. Tựdo hoá lãi suất được coi là hạt nhân, là vấn
đềcốt lõi của tựdo hoá tài chính trong lĩnh vực ngân hàng, bởi nhờnó mà làm cho các luồng tài chính
vận động một cách thông suốt. Tựdo hoá lãi suất là một xu thếkhách quan trong quá trình hội nhập.
Mức độtựdo hoá lãi suất càng sâu rộng bao nhiêu thì hội nhập quốc tếvềngân hàng càng nhanh chóng
6
bấy nhiêu.
Đểtựdo hoá lãi suất, cần có những điều kiện sau:
Một là,hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tếtài chính đã tương đối đồng bộvà hoàn chỉnh.
Hai là,thịtrường tài chính gồm thịtrường tiền tệvà TTCK đã ra đời và vận hành hiệu quả.
Ba là,các tổchức kinh tế đều đảm bảo khảnăng sửdụng vốn triệt đểvà có hiệu quả.

Bốn là,môi trường kinh tếvĩmô đã ổn định và tương đối chắc chắn.
Năm là,hệthống ngân hàng ổn định và hoạt động hữu hiệu.
Sáu là,các ngưồn lực trong nước nhưvốn, tài nguyên, lao động … đã được phân phối và sửdụng tương
đối hợp lý.
1.4.1.2 Tựdo hoá cơchếtín dụng
Tựdo hoá cơchếtín dụng là tôn trọng các điều kiện khách quan trong hoạt động tín dụng. Tựdo hóa tín
dụng đòi hỏi phải xóa bỏcác hạn chế, định hướng hay ràng buộc vềsốlượng trong quá trình cung cấp
cũng nhưphân phối tín dụng nhằm nâng cao hiệu quảcủa hoạt động tín dụng cho mọi thành phần kinh
tế.
Một biểu hiện cụthểcủa việc định hướng tín dụng là Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng
thương mại quốc doanh mởcác tài khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủhay dùng NSNN bao cấp
cho một sốhoạt động kinh tế, xã hội đã không tính đến hiệu quảsửdụng đồng vốn.
Nội dung tựdo hóa hoạt động tín dụng không có nghĩa là hoàn toàn hạthấp vai trò của Chính phủ. Ởcác
nước đang phát triển, đểduy trì tỉlệcần thiết quan trọng trong tín dụng cho nền kinh tếtheo sựchỉ định
của Chính phủ, Chính phủcó thểcan thiệp vào cơcấu đầu tưcũng nhưbảo đảm sựlành mạnh của các trung
gian tài chính. Tuy nhiên tựdo hóa tín dụng, thừa nhận vai trò chính, song không đồng nhất với sựcan
thiệp quá sâu của Chính phủvì hậu quảcủa nó có thểdẫn đến thịtrường tài chính bịbóp méo, hiệu
quảsửdụng các nguồn lực tài chính không cao, thậm chí lãng phí.
Như đã phân tích trên, tựdo hóa tín dụng không có nghĩa là Chính phủhoàn toàn không còn vai trò đối
với việc sửdụng các nguồn lực tài chính, đểmặc cho thịtrường tựđiều chỉnh. Nếu vậy sẽdẫn đến đầu
tưsai lệch, các nguồn vốn được tập trung nhiều vào lĩnh vực đang sinh lợi, còn các lĩnh vực khác thì
thiếu vốn do khảnăng sinh lời thấp hay thiếu hấp dẫn thu hồi vốn chậm, nhất là những ngành đóng vai
trò quan trọng đối với sựphát triển của nền kinh tế, liên quan đến lợi ích cho quốc kếdân sinh, lợi ích
công cộng.
Tựdo hóa các hoạt động tín dụng không có nghĩa là hoàn toàn tựdo mà cần thiết phải có vai trò của
Chính phủ. Tuy nhiên vai trò đó chỉthểhiện ởnhững dựán lớn theo định hướng phát triển kinh tếcủa
quốc gia. Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào lĩnh vực phân phối tín dụng nhằm tạo điều kiện
đểcác dòng vốn tìm đến nơi cần, theo nguyên tắc chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với phần vốn nhận
được, bảo đảm khảnăng thu hồi và có lãi.
Nội dung của tựdo hoá cơchếtín dụng: Một là, bãi bỏhoàn toàn việc ấn định hạn mức tín dụng và các

tỷlệcó liên quan. Hai là, xoá bỏbao cấp trong hoạt động tín dụng. Ba là, mởrộng tín dụng cho mọi thành
phần kinh tế đểtận dụng các nguồn lực đang có và tiềm ẩn trong nền kinh tế. Bốn là, xoá bỏnhững ràng
buộc của hệthống ngân hàng trong hoạt động tín dụng, nâng cao tính tựchịu trách nhiệm và tính tựchủ,
tạo môi trường thông thoáng cho việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
1.4.1.3 Tựdo hoá tỷgiá hối đoái
Tựdo hoá tỷgiá hối đoái là đểcho diễn biến tỷgiá hối đoái trên thịtrường biến động dưới tác động của
quan hệcung cầu là chủyếu, cơquan quản l ý Nhà nước tránh sựcan thiệp trực tiếp và thái quá. Xu hướng
7
toàn cầu hoá đang diễn ra rất nhanh chóng.
Việc giao lưu, thông thương hàng hoá giữa các nước ngày một gia tăng. Tỷgiá hối đoái là một trong
những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽvà trực tiếp đến hoạt động đó. Vì vậy, yêu cầu các quốc gia dần phải
từbỏcách kiểm soát quá chặt chẽtỷgiá, đưa đồng bản tệcó khảnăng chuyển đổi cao. Khi Chính phủvà
NHTƯtừbỏviệc can thiệp của mình và đểcho tỷgiá được tựdo xác định trên thịtrường thì nước đó đang
theo đuổi chính sách tỷgiá tựdo. Vì vậy, tựdo hoá tỷgiá là một quá trình tiến tới cho phép tỷgiá được
tựxác định trên thịtrường.
Tựdo hoá tỷgiá hối đoái bao gồm những nội dung chính sau: Thứnhất, bãi bỏtỷgiá cố định với việc công
bốtỷgiá chính thức. Thứhai, nới lỏng biên độgiao dịch và tiến tới xoá bỏbiên độgiao dịch tỷgiá trong
hoạt động kinh doanh của NHTM. Thứba,đểcho tỷgiá biến động theo tương quan cung cầu trên
thịtrường và chỉcan thiệp có giới hạn khi xét thấy cần thiết.
Tựdo hoá tỷgiá cũng tiềm ẩn trong đó những bất ổn nhất là đối với những nền kinh tế đang phát triển.
Chẳng hạn nhưtỷgiá cao ảnh hưởng tới việc nhập khẩu, tỷgiá thấp ảnh hưởng tới xuất khẩu … bên cạnh
đó còn các vấn đềkinh tếkhác sẽcó những diễn biến xấu khi tỷgiá thay đổi quá đột ngột nhưtỷlệlạm phát,
lượng cung cầu ngoại tệ. Vì vậy, không một cơchếcủa quốc gia nào vềtỷgiá lại thảnổi hoàn toàn, vì
nhưvậy, vai trò điều tiết vĩmô của Nhà nước sẽbịtriệt tiêu. Chính vì vậy, hầu hết các nước áp dụng
cơchếtựdo hoá tài chính, thì tỷgiá cũng sẽ được thảnổi nhưng có quản lý, nghĩa là không thảnổi hoàn
toàn.
Đểthực hiện tựdo hoá tỷgiá hối đoái phải có một số điều kiện nhất định: Một là,thịtrường hối đoái phải
được hình thành trước và hoạt động trôi chảy. Hai là,lưu thông tiền tệtrong nước tương đối ổn định và
được kiểm soát tốt. Ba là,hoạt động kinh tếtài chính đối ngoại phải tương đối ổn định. Bốn
là,dựtrữngoại hối phải đủlớn, cán cân vãng lai thặng dưvà tương đối ổn định. Năm là,hệthống ngân

hàng trong nền kinh tếhoạt động hiệu quảvà ổn định.
1.4.1.4 Tựdo hoá quản lý ngoại hối và các luồng vốn quốc tế
Tựdo hoá quản lý ngoại hối và các luồng vốn quốc tế đó là làm cho các nguồn vốn nước ngoài và trong
nước tựdo luân chuyển, tạo sựhấp thụcó hiệu quảcác nguồn vốn từbên ngoài đểphát triển kinh tế, bên
cạnh đó mởrộng giao lưu kinh tếthương mại với các nước trên thếgiới, đặc biệt là trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng.
Nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tếkhông chỉhuy động từnội bộmỗi quốc gia mà còn từbên ngoài
từcác mối quan hệsong phương và đa phương với các nước khác. Quan hệngoại thương là cần thiết và
tất yếu khách quan nhất là trong bối cảnh hiện nay các quốc gia đều có xu hướng tham gia vào các khối
tựdo thương mại và mậu dịch thì tựdo hoá hoạt động ngoại hối sẽgiúp cho quan hệthương mại diễn ra
thuận lợi và nhanh chóng hơn.
Với xu thếvận động và phát triển của nền kinh tếthếgiới, chúng ta đang từng bước hội nhập nền kinh
tếthếgiới, theo tinh thần Nghịquyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứVIII [49]: “xây dựng một nền kinh
tếmở”, “ đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tếkhu vực và thếgiới”. Không nước nào đứng một mình có
thểphát triển một cách thuận lợi được trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra là ởchỗ: “làm sao đểhoà
nhập nhưng không hoà tan”.
Xu thếchung của các quốc gia trên thếgiới đang mởcửa biên giới, bãi bỏcác rào cản mậu dịch và nới
lỏng dần các biện pháp kiểm soát tài chính đểhội nhập toàn cầu nếu không muốn tụt hậu, đứng bên
lềcuộc chạy đua tăng trưởng kinh tế. Trao đổi giao lưu kinh tếhàng hoá đang ngày càng được mởrộng,
thông thoáng và tất yếu là cùng với nó dòng vốn cũng lưu chuyển mạnh mẽhơn ởphạm vi quốc gia và
quốc tế.
Với vịtrí quan trọng của các nguồn lực tài chính, lĩnh vực ngân hàng giữvai trò huyết mạch của nền kinh
8
tế, thông qua các chính sách và công cụ để điều hành nền kinh tế. Đểhội nhập thành công, chúng ta cần
tạo ra hành lang pháp lý trên cơsởtôn trọng các qui luật kinh tếkhách quan của thịtrường, tạo điều kiện
cho các chủthểtrên thịtrường có thểtựdo quyết định việc hình thành và sửdụng các nguồn lực tài chính
theo tín hiệu thịtrường
Tham khảo
Ngày nay trong sự phát triển và hội nhập nhanh chóng nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đã
cho thấy sự tăng trưởng kinh tế nhanh hay chậm hoặc suy thoái đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách

cũng như cơ cấu của hệ thống tài chính mỗi quốc gia. Xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới lựa
chọn thực hiện là tiến hành tự do hóa tài chính.
Việc tự do hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ bản như xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng
buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng, chấm dứt các kênh cấp vốn ưu đãi, các
định chế tài chính có quyền tự do xác định các lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi
suất, mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm dứt những phân biệt đối xử về
pháp lý giữa các lọai hình sở hữu và hoạt động khác nhau và tự do hóa các luồng vốn quốc tế. Khi tự
do hóa tài chính các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có hiệu suất sinh lợi thấp sang nơi có hiệu
suất sinh lợi cao mà không bị ngăn cản bởi các qui định phi kinh tế.
Trong môi trường quốc tế hóa một cách mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, VN cũng không thể đứng
ngoài tiến trình toàn cầu hóa, để hội nhập vào xu hướng chung này VN cần từng bước thực hiện tự do
hóa trên nhiều phương diện trong đó tự do hóa tài chính có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát triển
của kinh tế đất nước.
1. Hệ thống ngân hàng VN trong tiến trình thực hiện chính sách tự do hóa tài chính
Hệ thống ngân hàng VN là trung tâm tài chính cốt lõi của nền kinh tế quốc gia, nó là trọng tâm của
việc thực thi các chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước, nhìn vào thực trạng hoạt động của hệ thống
ngân hàng, ta có thể đánh giá được hiệu quả của hệ thống tài chính và sự phát triển của nền kinh tế đất
nước.
2. Những tồn tại trong tiến trình thực hiện tự do hóa tài chính
2.1 Vấn đề lãi suất
Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng và
là bước tiến quan trọng của quá trình tự do hóa tài chính ở VN. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi
tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất cập
trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng VN như việc NHNN công bố lãi suất cơ bản
nhằm định hướng lãi suất thị trường trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các NHTM cổ phần
tiềm lực về tài chính còn hạn chế phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất.
2.2 Hệ thống pháp lý và kế toán - kiểm toán
- Hệ thống pháp lý: Tuy đã có những sửa đổi nhất định để hoàn thiện hành lang pháp lý, nhưng thực tế
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, hiệu quả kinh doanh của toàn hệ thống còn thấp, sức cạnh
tranh còn khoảng cách xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới

- Kế toán - kiểm toán: Chúng ta đã có Luật kế toán và Luật kiểm toán nhưng hoạt động kế toán, kiểm
toán ở VN vẫn chưa đạt đến qui mô mà tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi.
2.3 Điều hành tỷ giá hối đoái
Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá trị đồng VN đã bị
đánh giá quá cao so với ngoại tệ , như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa VN
trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều
9
hành chính sách tiền tệ.
2.4 Hệ thống ngân hàng
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ thống ngân hàng VN
tiến gần hơn đến điều kiện đủ cho thành công của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng
VN còn nhiều yếu kém trên các mặt
a. Quản lý yếu kém
Vấn đề điều hành, quản lý hoạt động ngân hàng từ NHNN đến các NHTM chiếm vị trí quan trọng trong
việc quyết định hoạt động hiệu quả và tính lành mạnh của hệ thống, nhất là đối với NHTM trong điều
kiện chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận cơ chế kinh doanh bình đẳng.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức ở các NHTM, trong một số ngân hàng,
bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của bộ phận
điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ thống ngân hàng
VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nhất
là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín dụng.
b. Tính cạnh tranh thấp
Hiện nay, NHTMQD vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng mà khách hàng của khu vực
này chủ yếu vẫn là các DNNN, điều này khiến cho việc cải cách hoạt động của các NHTMQD sang
kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trong lĩnh vực ngân
hàng gặp khó khăn. Sự bảo trợ công khai hay ngấm ngầm của Nhà nước đối với các DNNN trong việc
vay vốn ngân hàng vẫn còn tồn tại đồng nghĩa với việc phát huy tác dụng của các qui luật kinh tế thị
trường trong lĩnh vực này bị cản trở, dẫn đến tính cạnh tranh trong khu vực NHTMQD còn thấp.
3. Giải pháp cho vấn đề tự do hóa tài chính và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ở VN
3.1 Sử dụng công cụ lãi suất trong quản lý vĩ mô

3.1.1 Công cụ điều tiết lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế nhất
là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực đó một
cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
3.1.2 Sử dụng hiệu quả công cụ lãi suất
Trên sơ sở kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới về việc sử dụng công cụ lãi suất trong
điều hành chính sách tài chính, tiền tệ thì việc lựa chọn lãi suất nào là cơ bản, có tính chất tác động
đến lãi suất thị trường phụ thuộc vào điều kiện phát triển của thị trường tài chính tiền tệ của quốc gia.
Hiện tại, việc sử dụng các loại lãi suất trên thị trường liên ngân hàng của NHNN VN mang tính chất
hình thức do độ nhạy cảm của các lãi suất này đối với thị trường thấp; vấn đề được đặt ra là làm thế
nào để lựa chọn lãi suất chủ đạo với điều kiện lãi suất này phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên
thị trường, đồng thời có tác dụng điều chỉnh lãi suất thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.
a. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
Mặc dù thị trường liên ngân hàng đã được thiết lập và hoạt động được một thời gian, nhưng đối với
các NHTM thì thị trường liên ngân hàng chưa phải là nơi có thể sẵn sàng cung cấp nguồn vốn thiếu
hụt, các nghiệp vụ được thực hiện trên thị trường này còn ít nên chưa hình thành được lãi suất IBOR.
Đối với một thị trường liên ngân hàng phát triển, các NHTM phải tính toán kỹ lượng vốn thừa hay thiếu
trong ngắn hạn để có thể xác định mức vay hoặc cho vay của mình trên thị trường liên ngân hàng một
cách chính xác, và khi giao dịch trên thị trường này, bắt buộc phải theo thực hiện lãi suất mình đã công
bố. Vì vậy, muốn hình thành lãi suất IBOR và nó có tác dụng trong việc điều tiết lãi suất thị trường theo
10
đúng mục tiêu thì việc thúc đẩy hoạt động của thị trường này của NHNN là vấn đề quan trọng.
b. Lãi suất trên thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được nhiều nước trên thế giới sử dụng rất hiệu quả trong việc điều tiết thị
trường tiền tệ cũng như định hướng lãi suất trên thị trường do lãi suất trên thị trường này khá sát và
nhạy với với lãi suất thị trường, bên cạnh đó các nghiệp vụ trên thị trường mở dễ dàng được sửa chữa
hơn nếu NHNN phát hiện sai sót so với nghiệp vụ trên thị trường liên ngân hàng, quan trọng nhất là
khả năng thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường này có thê đáp ứng yêu cầu về cung ứng vốn, đủ sức
điều chỉnh lãi suất trên thị trường một cách hữu hiệu, nhưng kèm theo đó là điều kiện phát triển của thị
trường mở cũng như yêu cầu hoạt động thường xuyên để NHNN có thể thu thập, xử lý thông tin và thực

hiện nghiệp vụ thị trường mở sao cho hoạt động trên thị trường tiền tệ không vượt quá tầm kiểm soát
của NHNN và đi đúng mục đích của chính sách tài chính tiền tệ.
3.2 Cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái
Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng trong điều kiện hội
nhập và quốc tế hóa ngày nay, xu hướng tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái đang được Chính phủ các
quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô thì NHNN VN đang thực hiện chế độ tỷ giá linh
hoạt, có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có thể nói là một lựa chọn đúng đắn của Nhà nước trong điều
kiện quá trình hội nhập của VN với thế giới còn nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi tự
do thì điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của chúng ta chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính
sách điều hành tỷ giá theo kiểu “an toàn” thì không thể tránh khỏi những áp đặt mang tính hành chính
vào quản lý tỷ giá - điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần với việc điều hành nền
kinh tế theo các qui luật phát triển. Điều kiện nêu trên đặt ra những yêu cầu đối với Nhà nước trong
việc lựa chọn và điều hành tỷ giá phải hết sức linh hoạt, thích ứng dần với hội nhập và tạo động lực
phát triển kinh tế.
3.2.1 Xác định đúng giá trị của đồng VN
Từ lâu đồng tiền VN (VND) đã có quan hệ tỷ giá chính thức với đồng đôla Mỹ (USD), để ấn định tỷ giá
này, NHNN căn cứ vào tỷ giá của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để công bố tỷ giá hàng ngày, đây
cũng là cơ sở pháp lý để các TCTD đưa ra mức tỷ giá cụ thể trong giao dịch với khách hàng. Như vậy,
tỷ giá VND chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của VND so với USD, điều này phản ánh
đúng thực trạng giao dịch ngoại hối của VN, các hoạt động thanh toán bằng USD chiếm tỷ trọng cao,
tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một ngoại tệ duy nhất là USD để xác định giá trị bản tệ thì quá mạo hiểm
đối với việc hoạch định chính sách vĩ mô. Vì vậy, chúng ta nên xem xét lại khả năng xác định linh hoạt
tỷ giá VND tương ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có tham gia thương mại với VN, có như
vậy, đồng tiền VN mới được xác định đúng giá trị và giảm thiểu tâm lý sùng bái USD, dẫn đến tình
trạng đôla hóa nền kinh tế của đại bộ phận dân cư hiện nay.
3.2.2 Nới lỏng biên độ tỷ giá và tiến tới lọai bỏ các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính
Năm 2005, NHNN vẫn qui định biên độ tỷ giá đối với các TCTD kinh doanh ngoại tệ theo hướng nới
lỏng biên độ hơn, hướng đi này giống như một bước thực tập cho các NHTM làm quen dần với việc
kinh doanh tiền tệ theo cơ chế cạnh tranh bình đẳng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá,
giảm thiểu tình trạng bị sốc do các biến động. Sau đó, Nhà nước sẽ tiến hành loại bỏ qui định mang

tính hành chính áp đặt và đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp trong điều hành tỷ giá
hối đoái, các TCTD được tự do quyết định giá mua bán ngoại tệ trên cơ sở qui luật cung - cầu trên thị
trường ngoại hối, các bước tiến hành như trên sẽ giúp cho các NHTM phát huy tính tự chủ và khả năng
hội nhập thị trường tài chính quốc tế theo đúng tiến trình.
3.2.3 Sử dụng công cụ gián tiếp để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường
11
Muốn cho công cụ điều chỉnh gián tiếp của NHNN thông qua nghiệp vụ trên TTNTLNH có tác dụng,
điều kiện cần là TTNTLNH phải thực sự tạo niềm tin cho các NHTM bằng cách biến đây thành chỗ dựa
của họ và nhu cầu được tham gia giao dịch ngọai tệ trên thị trường trở nên không thể thiếu. Hệ thống
thanh tóan liên ngân hàng cần được đầu tư đúng mức để đạt được hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian
cũng như nhân lực, đồng thời giúp cho cả NHNN và các NHTM có thể cập nhật những thông tin thị
trường và ra quyết định nhanh nhất trong giao dịch trên thị trường này. Có như vậy, các nghiệp vụ
ngoại hối mới có thể được thực hiện và phát triển trên thị trường, tránh sự đơn điệu về nghiệp vụ ngọai
hối hiện nay của TTNTLNH và công cụ điều chỉnh của Nhà nước thông qua thị trường này mới có tác
dụng.
3.3 Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
3.3.1 Đối với ngân hàng Nhà nước
- Cấu trúc lại tổ chức của NHNN từ Trung ương xuống chi nhánh theo hướng tinh gọn, hiện đại, tránh
sự can thiệp của chính quyền các cấp.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện các khung pháp lý đảm bảo sự bình đẳng cho hoạt động của các tổ
chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ VN.
- Xóa bỏ cơ chế bao cấp đối với các NHTM, đặc biệt là đối với các NHTM quốc doanh, buộc các ngân
hàng này phải thực sự hoạt động theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ dần cơ chế tín dụng chỉ định, giao
nghiệp vụ tín dụng ưu đãi theo chính sách của nhà nước cho các ngân hàng chính sách.
- Lãi suất và tỷ giá hối đoái được thỏa thuận theo quan hệ cung cầu trên thị trường, thực hiện kiểm soát
gián tiếp thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức ngân hàng.
- Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn và
hiệu quả, dễ giám sát theo thông lệ quốc tế.
- Rà soát lại toàn bộ những qui định về việc thành lập, hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước

cũng như nước ngoài . . .áp dụng linh hoạt các công cụ dự trữ bắt buộc, cho vay tái chiết khấu và
nghiệp vụ thị trường mở.
3.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại
Yêu cầu đối với các NHTM là :
- Các ngân hàng phải có qui mô đủ lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao.
- Phân bổ và huy động vốn một cách có hiệu quả.
- Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài chính của các NHTM trên cơ sở cơ cấu lại tài chính bao
gồm : xử lý nợ quá hạn, đẩy mạnh tái đầu tư và cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng vốn điều lệ.
- Hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm tra kiểm soát nội bộ theo thông
lệ quốc tế.
- Tạo sức cạnh tranh, mở rộng thị phần trong nước và tranh thủ thời cơ mở thị trường kinh doanh ra
nước ngoài.
3.4 Tiến hành cổ phần hóa NHTMQD
Tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và lành mạnh hóa tài chính quốc gia đòi hỏi phải thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ, các giải pháp lớn cần tiến hành như : xử lý nợ đọng, tăng vốn điều lệ của hệ
thống ngân hàng rất cần sự trợ giúp của Chính phủ và các cơ quan chức năng, tuy nhiên, để hệ thống
ngân hàng có thể giữ được sự phát triển ổn định, đủ sức cạnh tranh trong môi trường mở cửa, ngăn
ngừa sự phát sinh nợ xấu thì bản thân hệ thống ngân hàng cần có những nỗ lực hơn, nhất là các
12
NHTMQD - những ngân hàng vốn chiếm ưu thế về thị phần và lượng vốn trong hệ thống ngân hàng
VN.
Để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước có thể cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần của NHTMQD với lượng cổ phần tối đa không được vượt quá một tỷ lệ qui định,
nhằm tránh tình trạng bị thâu tóm bởi các tập đoàn tư bản nước ngòai do chúng ta chưa có nhiều kinh
nghiệm trong việc điều hành cũng như tổ chức hoạt động của một NHTM hiện đại. Bán cổ phần cho
các nhà đầu tư nước ngòai, phát triển về vốn hoạt động ngân hàng, chúng ta có thể thuê các tổ chức tài
chính quốc tế thực hiện việc cấu trúc lại hoạt động NHTM theo tiêu chuẩn của NHTM quốc tế hiện đại.
Có như vậy, NHTM của VN mới trở thành một NHTM hiện đại đích thực, có khả năng cạnh tranh và
vươn ra thị trường quốc tế.
Xu hướng tất yếu khách quan ngày nay là hòa nhập kinh tế toàn cầu, gắn liền với quá trình tự do hóa

thương mại và dòng vốn lưu chuyển không biên giới. Nếu tách biệt ra khỏi quá trình này, một quốc gia
không thể đạt được sự phát triển cao và bền vững. Đối với VN, đổi mới trong chính sách tài chính là
một bộ phận cấu thành của tiến trình hòa nhập kinh tế thế giới nên thành công của việc thực hiện chính
sách tài chính sẽ góp phần không nhỏ vào thành công của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội có
như vậy, VN mới có thể thực hiện thành công tự do hóa tài chính - một bước tiến quan trọng, một xu thế
tất yếu của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Câu 4: Những yếu tố tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)? Phân tích
các giải pháp mở rộng thu hút nhanh vốn FDI tại Việt Nam.
Có thể chia thành 5 nhóm yếu tố:
a/ Động cơ của nhà đầu tư
Mục tiêu của các chủ đầu tư khi tiến hành đầu tư là nhằm thu lợi nhuận càng nhiều càng tốt.
Muốn vậy, ngoài việc khai thác tối đa thị trường trong nước, họ còn tìm cách vươn ra thị trường nước
ngoài để mở rộng thị phần. Để xâm nhập thị trường nước ngoài, các chủ đầu tư có thể sử dụng nhiều
cách khác nhau (xuất khẩu, tiến hành FDI, nhượng quyền, ). Thông thường chủ đầu tư sẽ quyết định
đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức FDI khi bản thân họ có các lợi thế độc quyền riêng và FDI sẽ giúp
họ tận dụng được nhiều lợi thế cũng như cắt giảm chi phí (chi phí nhân công, nguyên liệu tại chỗ, chi
phí vận chuyển ) nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh.
b/ Nguồn lực:
- Tiềm năng thị trường: Qui mô và tiềm năng phát triển của thị trường là những nhân tố quan
trọng hàng đầu khi nhà đầu tư quyết định lựa chọn địa điểm để đầu tư. Thông thường họ sẽ nhắm đến
những vùng tập trung đông dân cư , có nhiều kỳ vọng tăng trưởng nhanh trong tương lai và có các cơ
hội mở rộng ra các thị trường lân cận.
- Vị trí địa lý: Lợi thế về vị trí địa lý giúp tiết kiệm đáng kể chi phí vận chuyển, dễ dàng mở rộng
ra các thị trường xung quanh, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và thúc đẩy các doanh nghiệp tập
trung hóa.
- Tài nguyên: Sự dồi dào về nguyên vật liệu với giá rẻ cũng là nhân tố tích cực thúc đẩy thu hút
đầu tư nước ngoài.
- Nguồn nhân lực:
Khi quyết định đầu tư một cơ sở sản xuất mới ở một nước đang phát triển, các chủ đầu tư sẽ
nhắm đến việc khai thác nguồn nhân lực trẻ và tương đối thừa thãi ở các nước này. Thông thường

nguồn lao động phổ thông luôn được đáp ứng đầy đủ và có thể thỏa mãn yêu cầu của các công ty. Bên
13
cạnh đó, đội ngũ nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, nhiều kinh nghiệm, những cán bộ quản lý giỏi cũng
là nguồn lực hấp dẫn các nhà đầu tư.
Văn hóa, thái độ, tác phong làm việc của người lao động là những yếu tố quan trọng trong việc
xem xét, lựa chọn địa điểm để đầu tư.
c/ Cơ sở hạ tầng:
Chất lượng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ công nghiệp hóa có ảnh hưởng rất quan trọng
đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào một nước hoặc một địa phương. Một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật hoàn chỉnh (bao gồm cả hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới cung cấp
điện, nước, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tiện ích khác), là điều mong muốn đối với mọi nhà đầu
tư nước ngoài. Bên cạnh đó còn phải kể đến các dịch vụ hỗ trợ khác như hệ thống y tế, giáo dục, giải
trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật, v.v ).
Thiếu sự hỗ trợ cần thiết của các hoạt động này, môi trường đầu tư cũng sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của các cơ sở công nghiệp địa phương, sự có mặt của các
ngành công nghiệp hỗ trợ, sự tồn tại các đối tác tin cậy để các công ty nước ngoài có thể liên doanh liên
kết cũng là những yêu cầu rất quan trọng cần phải được xem xét đến.
d/ Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư.
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế chính trị của vốn FDI vượt
khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn định kinh tế chính trị sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến tâm lý nhà đầu tư, nó không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng
vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi mới an toàn và hấp dẫn hơn.
Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư. Nội
dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở, phù hợp với luật pháp và
thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn của FDI càng cao.
e/ Hệ thống chính sách đầu tư hấp dẫn, khuyến khích nhà đầu tư
Ví dụ như: Chính sách thương mại thông thoáng; chính sách tiền tệ, lãi suất linh hoạt; chính sách hỗ trợ
tín dụng; hệ thống thuế rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng, mức thuế không quá cao, có ưu đãi…
Phân tích các giải pháp mở rộng thu hút nhanh vốn FDI tại Việt Nam.
Định hướng:

Để có những định hướng cụ thể về việc thu hút FDI, cần xem xét một số thuận lợi và khó khăn
mà Việt Nam phải đối mặt trong thời gian sắp đến.
- Về thuận lợi: Dòng FDI toàn cầu đã dần vượt qua khỏi đáy của sự suy giảm năm 2009, có thể
bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng trong năm 2011 và được dự báo đạt 1,2-1,5 nghìn tỉ USD. Các nước
đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2009-2011 của Cơ quan Thương mại và Phát
triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy, Việt Nam vẫn được các công ty xuyên quốc gia (TNCs)
đánh giá là 1 trong 15 nền kinh tế hấp dẫn cho đầu tư. Tình hình chính trị ổn định, vị thế quốc tế của
Việt Nam đang được nâng cao cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực trong năm 2010 của
lãnh đạo cấp cao Đảng và nhà nước ta sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và làm gia tăng mối quan tâm của
nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta trong năm 2011 và thời gian tới.
- Về thách thức: Bên cạnh những thuận lợi thì Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế ảnh hưởng đến
thu hút FDI như: hệ thống kết cấu hạ tầng còn yếu kém, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, công tác
quy hoạch thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính rườm rà, …
14
Từ những yếu tố thuận lợi và khó khăn đã phân tích, chúng ta có thể dự báo trong ngắn hạn
năm 2011, Việt Nam sẽ thu hút được khoảng 20 tỉ USD vốn FDI (bao gồm cả tăng vốn, mở rộng sản
xuất), tăng 7,6% so với ước thực hiện năm 2010 và vốn thực hiện đạt khoảng 11-11,5 tỉ USD.
Theo thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Phạm Huy Đông, trong thời gian sắp tới, thu hút FDI sẽ
thực hiện theo hướng chọn lọc hơn và trọng tâm là thu hút các dự án cơ sở hạ tầng; sử dụng công nghệ
cao; công nghệ sạch và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh; các dự án sản xuất hàng
xuất khẩu; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu Đối
với những dự án đầu tư quy mô lớn, đặc biệt là các dự án có sử dụng đất lớn, có khả năng gây ô nhiễm
môi trường, sử dụng nhiều tài nguyên khoáng sản nếu không có chế biến sâu, các dự án tiêu tốn nhiều
năng lượng sẽ được xem xét kỹ càng hơn. Bên cạnh đó, những dự án đầu tư chậm triển khai sẽ được
phân loại để có những biện pháp xử lý phù hợp, trong đó có việc xem xét rút Giấy chứng nhận đầu tư
theo quy định của pháp luật để tạo cơ hội cho các nhà đầu tư khác thực sự có tiềm năng và năng lực
triển khai tham gia đầu tư.
Một số giải pháp đổi mới nhằm thu hút, sử dụng vốn FDI hiệu quả:
a/ Về chính sách, quản lý nhà nước:

- Tiếp tục duy trì được ổn định chính trị như hiện nay là một trong những yếu tố hấp dẫn nhất đối
với nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam so với các nước trong khu vực.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài theo hướng đầy đủ, rõ
ràng, thông thoáng, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng Luật Đầu tư nước ngoài và
Luật doanh nghiệp áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo sự bình đẳng giữa các
doanh nghiệp. Thủ tục hành chính cần giảm bớt tối đa, tăng cường hỗ trợ các nhà đầu tư giải quyết các
thủ tục.
- Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu
tư nước ngoài.
- Thực hiện các cam kết quốc tế sau khi gia nhập WTO để tạo ra một sân chơi lành mạnh nhằm
thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
b/ Về các giải pháp quy hoạch:
- Rà soát, quy hoạch ngành, vùng chiến lược, từng bước mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ theo
lộ trình cam kết quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế.
- Làm rõ các lĩnh vực không cấp phép đầu tư và đầu tư có điều kiện, trong đó chú trọng lĩnh vực
văn hoá thông tin theo hướng minh bạch, cụ thể và phù hợp với các cam kết quốc tế; đẩy nhanh tiến độ
thực hiện các nội dung triển khai chậm hoặc chưa triển khai đã cam kết trong Sáng kiến chung Việt
Nam – Nhật Bản, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ,…
c/ Về xúc tiến đầu tư:
- Ðể thu hút dòng vốn FDI đúng mục tiêu và định hướng, công tác xúc tiến đầu tư cần tiếp tục
được đổi mới theo hướng bố trí các nguồn lực để xúc tiến đầu tư theo chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực
và theo vùng, miền. Không xúc tiến đầu tư theo địa giới hành chính để bảo đảm tính liên kết vùng,
miền, tận dụng tối đa các tiềm năng thế mạnh của vùng, miền và giảm đầu tư theo phong trào, theo
thành tích.
- Cần phải có chiến lược kêu gọi đầu tư, tăng cường các hoạt động đối ngoại, tích cực xúc tiến đầu
tư qua mọi phương tiện, mọi kênh thông tin với các nước trên thế giới thông qua các chuyến thăm, làm
việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ; tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo tổ chức
trong và ngoài nước
15
d/ Về cải thiện cơ sở hạ tầng:

- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến
năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp,
thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước
hết là tuyến Bắc-Nam; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại
năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn
thông, công nghệ thông tin.
- Ngoài ra cần phải quy hoạch, nâng cấp hệ thống điện, nước sạch và đường truyền Internet băng
thông rộng. Giá cước, phí các loại hàng hoá, dịch vụ công cộng cần phải có sự điều chỉnh tương đương
với các nước trong khối Asean nhằm đáp ứng tối đa các nhu cầu mà nhà đầu tư nước ngoài đã đặt ra.
e/ Về nguồn nhân lực:
Cần nâng cao số lượng cũng như chất lượng nguồn lao động Việt Nam đáp ứng được nhu cầu về
nguồn lao động do các nhà đầu tư nước ngoài đặt ra như: trình độ tay nghề - kỹ thuật, trình độ ngoại
ngữ, sức khoẻ và tác phong làm việc công nghiệp.
f/ Một số giải pháp khác:
- Xây dựng chính phủ điện tử và phổ biến thương mại điện tử. Thúc đẩy thiết kế và xây dựng các
website của Chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp
cận các nguồn thông tin FDI ban đầu có chất lượng và trung thực thông qua mạng Internet.
- Thu hút nguồn vốn đầu tư của Việt kiều về nước. Chính phủ cần có những chính sách, cơ chế
nhằm kêu gọi, thu hút các Việt kiều về nước đầu tư do họ có những trình độ quản lý, nắm bắt công
nghệ phương Tây, thêm nữa giúp quảng bá tốt hơn các chính sách đầu tư của Việt nam với các đối tác
kinh doanh quốc tế của mình.
Câu 5: Nêu cơ sở khoa học của việc chính phủ tham gia vào quản lý hệ thống tài chính bằng các
“qui định” (Regulations)?
Kể từ khi thống nhất đất nước, ban đầu hệ thống tài chính của Việt Nam được tự do hoá hoàn toàn,
nhưng dần dần tất cả các loại trong hệ thống tài chính dần dần được chính phủ Việt Nam kiểm soát chặt
chẽ bằng các quy định cụ thể cho từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính: Ngân hàng, chứng khoán, bảo
hiểm. Cấu trúc hệ thống tài chính: thị trường tài chính, tổ chức tài chính, các công cụ tài chính và cơ sở
hạ tầng tài chính.
Để kiểm soát được sự vận hành của từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính, chính phủ đã ban hành rất

nhiều quy định nhằm kiểm tra, giám sát của các hoạt động tài chính, đồng thời hạn chế rủi ro cho quốc
gia.
- Thứ nhất, trong hệ thống ngân hàng, với hàng loạt các quy định để kiểm soát được sự mất thanh
khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, NHTW đã quy định tỷ lệ dữ trữ bắt buộc của mỗi ngân
hàng thương mại, để hạn chế được sự lạm phát, chính phủ đã ban hành các quy định về lãi suất trần, lãi
suất sàn và lãi suất tái cấp vốn… Ngoài ra để bảo đảm an toàn trong hoạt động của các ngân hàng nói
riêng và hệ thống tài chính nói chung, chính phủ đã có một số quy định “Tổ chức tín dụng không được
huy động vốn quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ”, thủ tướng chính phủ đã ban hành danh mục
về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng đến hết năm 2010 phải có vốn điều lệ tối thiểu là 3000 tỷ
16
đồng và thực hiện các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá để quản lý nền kinh tế. Một số chính sách
có tính chất chữa cháy như chỉ thị 03vào tháng 05/2007 khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng
khoán không được vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay.
- Thứ hai, trong thị trường chứng khoán, chính phủ cũng cực kỳ khắt khe để kiểm soát được thị trường
chứng khoán để thực sự hoạt động hiệu quả. Một số quy định về việc chào bán chứng khoán riêng lẻ và
chào mua công khai, hay các công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về một số nội dung cơ
bản: báo cáo tài chính kiểm toán, nghị quyết đại hội đồng cổ đông thường niên. Việc chào mua chứng
khoán công khai nhằm kiểm soát các nhà đầu tư lách luật mà các cơ quan chức năng không xử lý được.
Việc chào bán chứng khoán riêng lẻ phải có các điều kiện sau: có nghị quyết của đại hội đồng cổ đông
hoặc hội đồng quản trị thông qua phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán.
- Thứ ba, trong thị trường bảo hiểm, Uỷ ban kinh tế đã dần dần xây dựng nên các quy định nhằm kiểm
soát chặt chẽ các dịch vụ bảo hiểm qua biên giới (các dịch vụ bảo hiểm trực tiếp ) để tránh thất thoát
ngoại tệ và thất thu thuế… từ thế đã ra đời luật kinh doanh bảo hiểm, nội dung đưa ra các quy định,
cách thức để các tổ chức kinh doanh bảo hiểm thực thi nhằm tạo ra các chuẩn mực chung nhất.
Câu 6: Cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ là do các qui định quản lý của hệ thống tài
chính quá lỗi thời. Nhận định này đúng hay sai? Giải thích?
“Khủng hoảng tài chính của nước Mỹ là do các qui định quản lý của hệ thống tài chính quá lỗi
thời” là nhận định sai
Các NH Mỹ trước đây chịu kiểm soát rất chặt chẽ bởi đạo luật Glass-Steagall (1933 – sau khủng hoảng
1929). Đạo luật này kiểm soát rất khắc nghiệt hđ NH, phân biệt rạch ròi, kiểm soát hoạt động của các

định chế tài chính (NH đầu tư, cty CK, cty Bảo Hiểm).
Từ năm 1990, đạo luật nào được gỡ bỏ dần dần. Và đến năm 1999, chính quyền Bill Clinton đã thay
thế đạo luật này bằng một đạo luận mới, cho phép các định chế siết chặt lại với nhau, không còn ranh
giới (NH có quyền kinh doanh CK, BH cũng vậy…). Mục đích là tạo ra sự tự do tài chính.
Chính do sự tự do hóa tài chính này dẫn đến việc các NH tham gia vào rất nhiều các hoạt động mang
tính rủi ro cao. Cộng với tâm lý quá lớn để thất bại nên các NH càng liều lĩnh trong các hoạt động của
mình. Vì vậy mới gây ra khủng hoảng dây chuyền năm 2007 ở Mỹ.
Những nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ, đó là:
- Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng thị trường bất động sản, của các khoản cho vay khổng lồ để
thế chấp nhà đất ở Mỹ.
- Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng và sai lệch lớn trong điều tiết tài chính, khi có tình thế xấu xảy
ra, hệ thống ngân hàng Mỹ bị hoảng loạn, lan ra toàn thế giới, gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn tới
sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ và nhiều nước đã có những khiếm khuyết lại được thực hiện
thiếu nhất quán, đầy đủ và thiếu cải cách cơ cấu dẫn tới kinh tế vĩ mô mất cân bằng và thiếu bền vững.
- Sự suy giảm giá trị của đồng đô la và khủng hoảng chế độ tiền tệ không bản vị. Từ tháng 8/1971, Mỹ
tuyên bố đóng cửa thị trường vàng và đồng đô la từ đó không còn dùng vàng làm thước đo giá trị nữa.
Từ đó, đồng đô la được phát hành vô tội vạ và giá trị của nó ngày càng giảm đi.
- Kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn giữa việc xã hội hoá vô cùng mạnh mẽ, rộng lớn của sức sản
xuất xã hội được cộng hưởng trong quá trình toàn cầu hoá với quan hệ chiếm hữu tư nhân chật hẹp,
ích kỷ, vô trách nhiệm tại các nền kinh tế lớn có ảnh hưởng toàn cầu, đặc biệt là ở Mỹ và các nước
phát triển. Để bảo đảm mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, giới chủ tư bản và các tập đoàn tư bản bằng
17
mọi giá thúc đẩy tư nhân hoá, tự do hoá thị trường, cổ vũ chủ nghĩa thực dụng, khuyếch đại chính sách
tư bản giả, chi phối các chính sách kinh tế - xã hội của các quốc gia. Chính vì thế, gần như toàn bộ
quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm đều trong tay giới tư bản tài phiệt, bất khả xâm phạm, không
thể kiểm soát.
Những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp nêu trên, bắt nguồn từ một điều cốt lõi nhất, quan trọng nhất
dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Đó chính là việc nhận thức và thực hiện sai lệch vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường. Cuộc khủng hoảng lần này rõ ràng bắt nguồn trực tiếp từ việc Chính phủ

Mỹ và các chính phủ khác ở các nước phát triển đã xử lý sai lầm quan hệ giữa nhà nước và thị trường,
trao quá nhiều quyền cho cơ chế thị trường tự do, buông lỏng sự quản lý và giám sát điều hành của
nhà nước. Cụ thể hơn ở Mỹ là Cục dự trữ Liên bang đã thả lỏng tín dụng trong một thời gian dài cho
sự bùng nổ thị trường bất động sản; thị trường ảo và kinh tế “bong bóng” đã tự do phi mã đến lúc vỡ
tung ra. Lỗi quan trọng ở đây là “quá ít nhà nước, quá nhiều thị trường tự do”.
Cắt nghĩa từ cội nguồn vấn đề này cần khái lược lại cơ chế vận hành của nền kinh tế Mỹ và các nước
phát triển. Đã có một thời gian dài, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được vận hành theo cơ chế
hoàn toàn tự do dựa trên học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith. Trong tác phẩm
“Của cải của các dân tộc (1776)”, Adam Smith đã đưa ra quan điểm có tính triết lý là: Hãy để cho thị
trường vận hành dưới sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”, cơ chế thị trường tự do sẽ đưa tới kết quả
cuối cùng là “sự hài hoà xã hội”. Tuy nhiên, cuộc Tổng khủng hoảng 1929 - 1933 đã làm cho tất cả
các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển buộc phải từ bỏ lý luận về bàn tay vô hình của cơ chế thị trường
để chuyển sang thực hiện thuyết kinh tế của Keynes với lý lẽ ngược lại rằng: Để thoát khỏi khủng
hoảng, thất nghiệp và nguy cơ bùng nổ xã hội, nhà nước phải điều tiết kinh tế. Lý thuyết kinh tế của
Keynes đã chiếm địa vị chi phối ở các nước Phương Tây từ năm 1945 - 1973.
Tới nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX, khi cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới nổ ra, các nước
tư bản phát triển lại rơi vào suy thoái kinh tế và lý thuyết Keynes bị coi là nguyên nhân gây ra tình
trạng trên để thay vào đó là chủ nghĩa tự do mới. Từ đầu những năm 1980, chủ nghĩa tự do mới được
Thủ tướng Anh That-chơ, Tổng thống Mỹ Reagan cùng với WB, IMF nhiệt liệt tán thưởng và lý thuyết
đó được đưa vào vận hành ngay tại Mỹ, các nước Tây Âu và hàng loạt nước khác. Phương châm của lý
thuyết tự do mới là “thị trường nhiều hơn, nhà nước ít hơn” với 5 điểm chủ yếu: 1. Tăng thị trường; 2.
giảm nhà nước; 3. phi điều tiết hoá; 4. tự do hoá; 5. tư nhân hóa. Theo quan điểm của thuyết tự do
mới, tăng trưởng kinh tế phải đi trước, công bằng xã hội sẽ đi sau, người nghèo hãy kiên tâm chờ đợi.
Do việc áp dụng chủ nghĩa tự do mới, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo cũng như
giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng.
Chỉ khoảng trên dưới một thập niên áp dụng mô hình kinh tế theo thuyết tự do mới, các cuộc khủng
hoảng kinh tế lần lượt nổ ra ở Mêhicô, một số nước ở Đông Nam Á, Nga, Áchentina trong những
năm 90 của thế kỷ trước và lần này nổ ra ngay tại Mỹ, nước đi đầu trong việc áp dụng cơ chế kinh tế
này. Cuộc khủng hoảng đó nhanh chóng gây thành phản ứng dây chuyền, đẩy kinh tế thế giới lún sâu
vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ những năm 30 của thế kỷ trước. Rõ ràng, cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu lần này đã giáng một đòn chí tử vào lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới, vào quan điểm
coi nhẹ vai trò điều hành và quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Giáo sư Joseph
Stiglitz, người được giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001 đã khẳng định; Mỹ đã xuất khẩu triết lý kinh
tế thị trường tự do, xuất khẩu một thứ văn hóa doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội , và cuối
cùng đã xuất khẩu sự suy thoái đi bốn phương
Câu 7: Theo S.Mishkin (2004): … “Cổ phiếu không phải là hình thức tài trợ vốn quan trọng hơn
các trung gian tài chính đối với các doanh nghiêp”…
18
Hãy dùng lý thuyết thông tin bất cân xứng để bình luận nhận định trên và nêu ra các giải
pháp để giúp hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển bền vững và lành mạnh?
(minskin tr18: vấn đề chanh)
Thuyết trật tự phân hạng (Thông tin bất cân xứng)
Thuyết trật tự phân hạng thị trường được nghiên cứu khởi đầu bởi Myers và Majluf (1984) dự đoán
không có cơ cấu nợ trên vốn cổ phần mục tiêu rõ ràng.
Giả thuyết rằng ban quản trị biết về hoạt động tương lai của doanh nghiệp nhiều hơn các nhà đầu tư bên
ngoài (thông tin không cân xứng) và việc quyết định tài chính có lẽ cho biết mức độ kiến thức của nhà
quản lý và sự không chắc chắn về lưu lượng tiền mặt tương lai.
Khi ban quản trị tin tưởng cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh giá thấp, họ có thể phát hành chứng
khoán (nguồn tài chính bên ngoài). Vì thế, khi doanh nghiệp đi theo thị trường vốn bên ngoài, những
thị trường này chấp nhận cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh giá thấp, và vì vậy, hoạt động này sẽ
chuyển tải thông tin không thuận lợi cho các nhà đầu tư. Kết quả là ban quản trị sẽ nỗ lực để tránh đi
theo các thị trường vốn (nguồn tài chính bên ngoài). Nếu ban quản trị đi theo những thị trường vốn này,
có khả năng họ phát sinh nợ nhiều hơn nếu như họ tin là cổ phiếu của họ được đánh giá thấp và sẽ sinh
ra vốn cổ phần nếu như họ cho rằng cổ phiếu của họ được đánh giá cao.
Vì vậy, sự phát hành vốn cổ phần từ việc bán cổ phiếu sẽ chuyển tải nhiều thông tin không thuận lợi
hơn là sự phát hành tiền cho vay. Điều này khiến các nhà quản trị quan tâm đến tiền cho vay hơn là vốn
cổ phần từ việc bán cổ phiếu.
Những quyết định về kết cấu vốn không dựa trên tỷ lệ Nợ/Tài sản tối ưu mà được quyết định từ việc
phân hạng thị trường. Trước hết, các nhà quản trị sẽ dự định sử dụng nguồn tài chính nội bộ, tiếp đến
có thể phát hành tiền cho vay, và cuối cùng là phát hành vốn cổ phần.

Tiêu điểm của thuyết này không tập trung vào kết cấu vốn tối ưu nhưng tập trung vào sự quyết định tài
chính hiện hành sắp tới.
Tỷ lệ Nợ/Tài sản = f {hoạt động kinh doanh, nhu cầu đầu tư}
Như vậy, Myers và Majluf cho rằng sẽ không có một cấu trúc vốn tối ưu với các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tài trợ bằng nợ rẻ hơn vốn cổ phần. Trong trường hợp này, “chi phí” được đề cập ở đây
chính là chi phí có thể đo lường được cho việc huy động vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Với nợ, đó chính là chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ
phần, chi phí sử dụng vốn được hiểu như là quyền đối với thu nhập phải đủ thỏa mãn được các cổ
đông khi họ quyết định góp vốn vào công ty.
Ví dụ, nếu bạn điều hành một doanh nghiệp nhỏ và cần tài trợ khoảng $40,000, bạn có thể hoặc là đi
vay ở ngân hàng số tiền $40,000 với lãi suất 10% hoặc bạn có thể bán 25% cổ phần doanh nghiệp cho
người hàng xóm với giá $40,000.
Giả sử trong năm sau đó, doanh nghiệp của bạn có thể tạo ra được lợi nhuận hoạt động là $20,000.
Nếu ban đầu bạn quyết định đi vay ở ngân hàng với chi phí lãi vay (hay còn gọi là chi phí tài trợ của
nợ) sẽ là $4,000, bạn còn lại lợi nhuận $16,000. Ngược lại, nếu bạn đã sử dụng tài trợ vốn cổ phần,
nghĩa là bạn không hề có nợ và dĩ nhiên là không có chi phí lãi vay nhưng bạn chỉ được nắm giữ 75%
lợi nhuận của doanh nghiệp thôi (25% khác thuộc sở hữu của người hàng xóm nhà bạn). Do đó, lợi
nhuận của bạn bây giờ chỉ có $15,000 (tức 75%*$20,000)
19
Do đó, cũng dễ hiểu khi các cổ đông sáng lập của công ty quyết định lựa chọn phát hành nợ chứ không
phải vốn cổ phần. Thuế cũng là một yếu tố giúp cho tình huống phát hành nợ trở nên tốt hơn. Nếu
doanh nghiệp sử dụng nợ, bởi vì chi phí lãi vay được khấu trừ ra khỏi thu nhập hoạt động trước khi thu
nhập bị đánh thuế, do đó chính hành động đã đem đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế từ nợ.
Dĩ nhiên, lợi ích của tài trợ nợ với lãi suất cố định đôi khi lại có thể là điểm bất lợi. Bởi vì nợ được xem
là chi phí tài chính cố định, dù doanh nghiệp của bạn có hoạt động ra sao, thu nhập nhiều hay thậm chí
đang thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo việc trả lãi vay đúng kỳ hạn và trả nợ gốc khi đáo hạn,
do vậy một sự gia tăng nợ của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc gia tăng thêm rủi ro tài chính.
Quay trở lại ví dụ trên, giả sử trong năm sau, công ty của bạn chỉ tạo ra được có $5,000. Với tài trợ
nợ, bạn có thể vẫn có cùng $4,000 lãi vay phải trả và vì vậy lợi nhuận của bạn chỉ còn lại $1,000
($5,000 -$4,000). Trong trường hợp tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần, tức là bạn không hề phải trả

một đồng lãi vay nào hết, thì bạn vẫn có 75% lợi nhuân tương đương với $3,750 (75% x $5,000).
Do vậy, đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử dụng thường xuyên
với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy nhiên, nếu giai đoạn nào công ty không
thể vận hành tốt để tạo ra lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng.
Đây chính là mặt trái của việc tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ. Từ đây có thể thấy, dù nợ có chi
phí rẻ hơn vốn cổ phần, doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều này, nhưng thời điểm nào thì sử
dụng nợ là hợp lý? Hợp lý ở đây có nghĩa là tận dụng được tối đa lợi ích của nợ, tận dụng tối đa lợi ích
từ đòn bẩy tài chính từ nợ. Khi nào thì doanh nghiệp nên vay nợ và vay nợ bao nhiêu là thích hợp?
Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu nhập trong tương lai
(mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập tương lai của các doanh nghiệp càng
không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp,
có dòng tiền ổn định thường sử dụng nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro
hơn. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi nghiệp cũng sử
dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới với sự không chắc
chắn cao có thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay, nên thường
thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần.
Ở Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường có tâm lý e dè, nhất là đối với các doanh nghiệp đang trong
thời kỳ “sung mãn”, lượng tiền mặt vô cùng dư thừa thì dường như họ lại càng không quan tâm đến nợ.
Sau 7 năm TTCKVN ra đời, đi vào hoạt động và đạt được sự phát triển như hôm nay thì để giải quyết
bài toán thiếu vốn, doanh nghiệp niêm yết thường chọn giải pháp vốn cổ phần chứ không mấy mặn mà
với việc sử dụng tài trợ bằng nợ. Các doanh nghiệp dường như đã quên đi lợi ích từ việc sử dụng đòn
bẩy tài chính. Hi vọng trong tương lai không xa, vấn đề tài trợ bằng nợ sẽ được các doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng nợ. Phát hành trái phiếu
doanh nghiệp cũng là một hình thức vay nợ của doanh nghiệp.
Giải pháp để giúp hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển bền vững và lành mạnh
Doanh nghiệp và ngân hàng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hoạt động kinh doanh
cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến “sức khỏe” của các ngân
hàng. Sau đây là một số giải pháp giúp hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển bền vững và lành
mạnh trong việc cho vay đối các doanh nghiệp:
- Thẩm định tốt các doanh nghiệp vay vốn bao gồm thẩm định năng lực tài chính thông qua

báo cáo tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp tự đánh giá năng lực tài chính của công ty từ đó tính toán hạn
mức nhu cầu vốn vay thật sự của doanh nghiệp tránh tình trạng doanh nghiệp vay số tiền vượt nhu cầu
thật sự của mình dẫn đến áp lực trả nợ cao. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cẩn phải thẩm định tính pháp
20
ly doanh nghiệp, người đại diện công ty trước pháp luật, trụ sở, chi nhánh nhà xưởng máy móc thiết bị
để biết được quy mô hoạt động của doanh nghiệp, quy trình sản xuất cũng như hoạt động tiêu thụ sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Ngoài ra, thẩm định tài sản (đối với trường hợp vay thế chấp) cũng là
một việc quan trọng vì đây là “chốt chặn cuối cùng” phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng. Việc thẩm định
phải đảm bảo nguyên tắc “an toàn” và không chịu áp tăng trưởng dư nợ cũng như áp lực từ phía khách
hàng.
- Theo sát dòng tiền của doanh nghiệp sau khi cho vay để có những xữ lý kịp thời cũng nhu
cung cấp các sản phẩm dịch vụ phù hợp cho doanh nghiệp. Ví dụ đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực thương mại có uy tín thì ngân hàng có thể hỗ trợ vốn vay bằng cách cung cấp sản phẩm
chiết khấu hoặc bao thanh toán nhằm hỗ trợ khả năng thanh toán cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với
các doanh nghiệp được phép vay tín chấp thì viêc theo sát dòng tiền là điều kiện tiên quyết bắt buộc đối
với ngân hàng để phòng ngừa rủi ro.
- Bảo mật thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp đang vay vốn tại ngân hàng. Tránh
những tiết lộ gây ảnh hưởng đền hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau cho vay.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ để thực hiện tốt công tác thẩm định và chăm sóc
khách hàng.
- Thiết kế các sản phẩm dịch vụ phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp và nhu cầu của họ.
- Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập và có tiềm năng phát triển.
- Cân đối lãi suất huy động và cho vay hợp lý để đảm bảo tính thanh khoản và tăng trưởng dư
nợ bền vững.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc bất ngờ như khủng hoảng
kinh tế, thiên tai…nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các ngân hàng không có đầy
đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định . Nói
một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực nên các ngân hàng đã để "lọt" những khách
hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của kho trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự

án có rủi ro cao.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một bên có nhiều thông tin hơn có thể có những hành vi gây
tổn hại đến bên có ít thông tin hơn. Đây chính là vấn đề bất cân xứng về thông tin trong các hoạt động
của nền kinh tế.
Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi (adverse selection) và
tâm lý ỷ lại (moral hazard). Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi ký kết hợp đồng của bên có
nhiều thông tin có thể gây tổ hại cho bên ít thông tin hơn. Tâm lý ỷ lại là hành động của bên có nhiều
thông tin hơn thực hiện sau khi ký kết hợp đồng có thể gây tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.
Câu 8: Phân tích sự phối hợp giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm
phát. Liên hệ thực tiển của Việt Nam trong thời gian qua.
1. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát (xem thêm câu 1)
Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định hướng phát triển của nền
kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa. Chính sách tài khóa khác với
những chính sách kinh tế cơ bản khác như chính sách tiền tệ, đó là chính sách nhằm ổn định nền kinh tế
bằng cách kiểm soát tỉ lệ lãi suất và nguồn cung tiền. Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi
tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của
21
chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh tế như: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh
tế; kiểu phân bổ nguồn lực; phân phối thu nhập, hay nói cách khác chính sách tài khóa liên quan đến
tác động tổng thể của ngân sách đối với hoạt động kinh tế.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn định tiền tệ (kiểm soát lạm phát); tăng trưởng
kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán. Tùy theo từng giai đoạn và diễn biến của kinh tế
vĩ mô mà chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu ưu tiên nào là chủ yếu, chẳng hạn trong giai đoạn lạm
phát cao, tăng với tốc độ vừa phải, chính sách tiền tệ thường tập trung ưu tiên vào mục tiêu kiểm soát
lạm phát và khi ổn định được lạm phát, mục tiêu của chính sách này lại thường kết hợp với mục tiêu
tăng trưởng. Các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất tái chiết khấu, chính sách dự trữ
bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và hạn mức tín dụng có tác động nhanh chóng trong việc kiểm soát
lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lạm phát, và vì vậy, chính phủ các nước thường sử dụng tối đa
các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát về ngắn hạn; nhưng nếu chỉ có chính sách
tiền tệ, lạm phát khó có thể được kiểm soát về dài hạn, đặc biệt đối với các nước lạm phát cơ cấu như

Việt Nam. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách vĩ mô phải kết hợp nhịp nhàng hoạt động hai chính
sách này để vừa giải quyết được các mục tiêu trước mắt, vừa kiểm soát được lạm phát về lâu dài. Thế
nhưng trên thực tế, sự phối hợp hai chính sách không phải lúc nào cũng ăn khớp như mong muốn.
2. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian
qua
Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong năm 2010, Việt Nam vẫn đạt được
mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong khu vực.
Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định, các công cụ điều hành mang tính hành chính trong
giai đoạn chống suy giảm kinh tế dần dần được dỡ bỏ, các công cụ thị trường đang dần tái sử dụng, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp hồi phục và phát triển sau tác động của khủng hoảng kinh tế và tài
chính trên thế giới. Có được kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết liệt, cùng với phương pháp điều
hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ, trong đó chính sách tiền tệ
và chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trò quan trọng có quyết định tới ổn định kinh tế vĩ mô và
thúc đẩy tăng trưởng.
Thế nhưng, trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát đã vượt mục
tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả không mong muốn này, trong đó sự
phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng đã ảnh hưởng tới
kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa hai
chính sách vĩ mô quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn là
do:
- Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Với mô hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước hiện tại
hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và nhờ vào việc bán tài nguyên, gia công trình độ thấp dẫn đến
hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm
tăng trưởng GDP (hệ số ICOR) vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn đến quyết định logic về
chính sách là để tăng trưởng cao cần gia tăng đầu tư.
- Thứ hai: Kết cục của mô hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi chính sách tài khóa mở
rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc
biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư từ

nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có
điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3 - 4
lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua tổng hợp của
22
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ
đồng (tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các công trình, dự án sử
dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng
vay và trả nợ” . Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp lý số lượng dự án hoàn thành
còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn.
- Thứ ba: Chinh sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ lệ đầu
tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhất châu Á, sau Trung Quốc. Do nền kinh tế kém hiệu quả nên
các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số
lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng
cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại
sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán
(25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản
của lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
- Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo hướng thắt chặt
tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng dầu, giá điện. Sự
không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm
phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngay trong tháng 12 năm 2010, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có
dấu hiệu thắt chặt thông qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng chính sách tài khóa dù có dấu hiệu thắt
chặt hơn nhưng nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng.
- Thứ năm: Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị trường để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để huy động vốn cho gia tăng đầu tư công,
Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất ở một số thời điểm lên tới 11 -
12%/năm, cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng, sau một thời gian, mức lãi suất huy
động trái phiếu đã giảm xuống 9,6% năm, nhưng vẫn cao hơn so với mức rủi ro của công cụ tài chính
này. Các ngân hàng thương mại với động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, họ đã sử dụng

vốn huy động được trên thị trường mua trái phiếu chính phủ hấp dẫn hơn là cho các doanh nghiệp vay
và mức lãi suất này vô hình trung đã đẩy mức lãi suất huy động trên thị trường lên cao. Đây là một biểu
hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành của chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ trong thời gian
qua.
- Thứ sáu: Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về ngắn hạn. Điều hành chính sách
tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ, cập nhật và chính xác, thế nhưng trong một số
trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch
pha về thời gian với yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ.
3. Một số đề xuất tăng cường sự phối hợp trong thời gian tới
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là hai bộ phận trọng yếu trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế và
đặc biệt trong kiểm soát lạm phát. Hai chính sách này trên thực tế được hoạch định và thực thi khá
riêng biệt bởi hai cơ quan khác nhau của Chính phủ, nhưng lại cùng một mục tiêu vĩ mô là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, và vì vậy, hoạt động của hai chính sách này có mối quan hệ
đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Để tăng cường hiệu quả của hai chính sách này cần phải có sự kết
hợp nhịp nhàng và đồng bộ theo hướng sau đây:
- Thứ nhất: Chính phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về tài chính - tiền tệ năm 2011,
trong đó các vấn đề về cân đối bội chi ngân sách, cân đối đầu tư công cần được tính toán, nghiên cứu
trong mối quan hệ chặt chẽ tới các chỉ tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ: tổng phương tiện thanh
23
toán và tăng tưởng tín dụng. Tránh hiện tượng trong khi chính sách tiền tệ đang tìm cách thắt chặt để
kiểm soát lạm phát thì chính sách tài khóa lại nới lỏng cho đầu tư công như thời gian vừa qua.
- Thứ hai: Việc phát hành trái phiếu chính phủ với khối lượng lớn trong năm qua cho chi tiêu công đã
dẫn tới hiện tượng khan hiếm vốn cho khu vực sản xuất, các doanh nghiệp vẫn thiếu vốn và lãi suất
cho vay vẫn ở mức cao cho dù chính sách tiền tệ đã kiểm soát tốt các chỉ tiêu tổng phương tiện thanh
toán và tăng trưởng tín dụng. Do vậy, để ưu tiên vốn cho khu vực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng, Chính phủ cần nghiên cứu giảm phát hành trái phiếu chính phủ cho đầu tư công trong năm
2011 và các năm tiếp theo.
- Thứ ba: Lãi suất phát hành trái phiếu cần được nghiên cứu, tính toán với mặt bằng lãi suất huy động
chung của hệ thống ngân hàng thương mại, hạn chế các ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động

để mua trái phiếu chính phủ và cần tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa trong việc xác định lãi suất đảm bảo ổn định lãi suất thị trường.
- Thứ tư: Từng bước giảm bội chi ngân sách theo hướng Chính phủ chỉ đầu tư các công trình cơ sở hạ
tầng trọng điểm liên quan đến quốc kế dân sinh, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư
các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua hình thức đối tác công tư (PPP)
- Thứ năm: Nguyên nhân căn bản của lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua là mô hình tăng trưởng
dựa vào đầu tư nhưng lại kém hiệu quả và thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, và vì vậy, để kiểm
soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới, Chính phủ cần kiên định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ
mô thay vì thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP, thậm chí cần đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn (khoảng
6 - 6,5%) để kiểm soát lạm phát ở mức 5 - 6% năm 2011 và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3 - 4% những
năm tiếp theo. Làm được như vậy nền kinh tế sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng vững chắc và lâu dài.
- Thứ sáu: Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay từ khâu
xây dựng và hoạch định chính sách, trước mắt năm 2011, cả hai chính sách này phải nên được thắt
chặt để giảm tổng cầu và ngăn chặn lạm phát, chính sách tài khóa cần được xây dựng theo hướng
giảm dần thâm hụt tài chính tổng thể và thâm hụt ngân sách nên được duy trì ở mức 4 - 5%/năm.
Câu 9: Trình bày các quan điểm lựa chọn cấu trúc tài chính trong điều kiện thông tin bất cân
xứng và khuynh hướng tài trợ vốn của hệ thống tài chính Việt Nam trong thời gian tới.
Thuyết trật tự phân hạng thị trường được nghiên cứu khởi đầu bởi Myers và Majluf (1984) dự đoán
không có cơ cấu nợ trên vốn cổ phần mục tiêu rõ ràng.
Giả thuyết rằng ban quản trị cho biết về hoạt động tương lai của doanh nghiệp nhiều hơn các nhà đầu tư
bên ngoài (thông tin không cân xứng) và việc quyết định tài chính có lẽ cho biết mức độ kiến thức của
nhà quản lý và sự không chắc chắn về lưu lượng tiền mặt tương lai.
Khi ban quản trị tin tưởng cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh giá thấp, họ có thể phát hành chứng
khoán (nguồn tài chính bên ngoài). Vì thế, khi doanh nghiệp đi theo thị trường vốn bên ngoài, những
thị trường này chấp nhận cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh giá thấp, và vì vậy, hoạt động này sẽ
chuyển tải thông tin không thuận lợi cho các nhà đầu tư. Kết quả là ban quản trị sẽ nỗ lực để tránh đi
theo các thị trường vốn (nguồn tài chính bên ngoài). Nếu ban quản trị đi theo những thị trường vốn này,
có khả năng họ phát sinh nợ nhiều hơn nếu như họ tin là cổ phiếu của họ được đánh giá thấp và sẽ sinh
ra vốn cổ phần nếu như họ cho rằng cổ phiếu của họ được đánh giá cao.
Vì vậy, sự phát hành vốn cổ phần từ việc bán cổ phiếu sẽ chuyển tải nhiều thông tin không thuận lợi

hơn là sự phát hành tiền cho vay. Điều này khiến các nhà quản trị quan tâm đến tiền cho vay hơn là vốn
cổ phần từ việc bán cổ phiếu.
24
Những quyết định về kết cấu vốn không dựa trên tỷ lệ Nợ/Tài sản tối ưu mà được quyết định từ việc
phân hạng thị trường. Trước hết, các nhà quản trị sẽ dự định sử dụng nguồn tài chính nội bộ, tiếp đến là
vay nợ ngân hàng ( vay nợ phát ra tín hiệu về chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí vay
được tính vào chi phí kinh doanh có sự chia sẻ kinh tế của nhà nước, doanh nghiệp kg bị chia sẻ quyền
quản lý và dưới áp lực lãi suất doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, đồng thời tránh tâm lý ỷ lại
của giám đốc), tiếp đến có thể phát hành tiền cho vay (phát hành trái phiếu, trái phiếu có khả năng
chuyển đổi) và cuối cùng là phát hành vốn cổ phần (việc phát hành cổ phiếu kg gây áp lực trả cổ tức
cho cổ đông, nhưng ảnh hưởng đến đạo đức kinh doanh)
Khuynh hướng tài trợ vốn của hệ thống tài chính VN trong thời gian tới:
Với việc cải thiện và nâng cao chất lượng của hệ thông ngân hàng và thị trường chứng khoán thì đây là
2 kênh huy động tài chính chính của doanh nghiệp
Ngân hàng chiếm ưu thế trong hệ thống tài chính của các nước nói chung và VN nói riêng, việc sử
dụng ngân hàng như là kênh tài trợ tài chính có những ưu điểm sau:
 Cải thiện tình trạng thông tin bất cân xứng
 Cung cấp các cơ chế giảm thiểu rủi ro
 Cải thiện tình trạng chiếm lĩnh thông tin của DN
 Không chi phối hoạt động kinh doanh của DN
 Khắc phục tình trạng thông tin nội gián
 Khắc phục tình trạng sử dụng thông tin không trả phí
Ở VN trong những năm trở lại đây, TTCK khẳng định được tầm quan trọng trong nền kinh tế và qui
mô ngày càng tăng lên so với ngân hàng cùng với sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó, TTCK là kênh tài
trợ tài chính không thể bỏ qua của các DN. Ưu điểm của kênh TTCK:
 Kích thích sự đổi mới và tăng trưởng dài hạn
 Cung cấp nhiều công cụ quản lý rủi ro
 Không giới hạn qui mô tài trợ vốn
 Liên kết và gia tăng tiềm lực đầu tư
 Cung cấp nguồn vốn dài hạn

 Khắc phục các yếu kém của hệ thông ngân hàng
Câu 10: - Phân tích những lợi ích chi phí khi tham gia khu vực đồng tiền chung.
- Nhưng điều kiện cơ bản khi xây dựng khu vực đồng tiền chung.
- Nhận định về điều kiện xây dựng đồng tiền chung khu vực Asean.
1. Lợi ích – chi phí
• Lợi ích
- Giảm chi phí trong thương mại
- Xóa bỏ thị trường ngoại tệ với các đồng tiền trong khu vực. Ví dụ: thống kê trong EUROZONE
khoảng tiết kiệm này lên đến 0.25 -0.5% GDP
- Thúc đẩy TM; gia tăng đầu tư
- Đồng nhất giá cả
- Một đơn vị tiền tệ chung cho hàng hóa trong khu vực => gia tăng TM trong nội khối
25

×