Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề bài tính tư tưởng trong hội họa siêu thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.77 KB, 15 trang )

BÀI TẬP NHÓM
Môn: Nghệ thuật học đại cương
Đề bài: Tính tư tưởng trong hội họa siêu thực
CẤU TRÚC BÀI VIẾT
I. TÌM HIỂU CHUNG.
1. Nguồn gốc, khái niệm
2. Những dạng biểu hiện.
3. Một số bức tranh tiêu biểu thuộc trường phái hội họa siêu thực.
II. TÌM HIỂU MỘT SỐ DANH HỌA VÀ BỨC TRANH TIÊU
BIỂU.
1. Danh họa Savaldor Dali.
1.1. Bức tranh Sự dai dẳng của kí ức.
1.2. Bức tranh Swans reflecting delephans.
1.3. Bức tranh Hươu cao cổ bốc cháy.
2. Danh họa René Magritte.
2.1. Bức tranh Clairvoyance (tự họa).
2.2. Bức tranh Elective Affinitives (sự tương đồng chọn lọc).
2.3. Bức tranh Golconde.
3. Danh họa Nguyễn Đình Đăng.
3.1 Bức tranh Biến thái.
3.2 Bức tranh Buổi học dương cầm.
3.3 Bức tranh Ánh trăng.
III. TỔNG KẾT.
1. Đặc trưng của hội họa siêu thực.
2. Phong cách, đề tài.
3. Nghệ thuật tỏng hội họa siêu thực.
4. Khái luận chung về tính tư tưởng trong hội họa siêu thực.
HÌNH THỨC THUYẾT TRÌNH
- Người thuyết trình: Hoàng Thùy Ninh.
- Các bước:
• Trình chiếu powerpoint.


• Xem đoạn Moviemaker (nhóm tự làm) giới thiệu về một số bức
tranh, tác giả tiêu biểu (phục vụ phần I.2).
• Trình chiếu powerpoint kết hợp với thuyết trình miệng ý nghĩa
của các bức tranh.
• Sử dụng hình thức vấn đáp trong khi thuyết trình.
1
TÍNH TƯ TƯỞNG TRONG HỘI HỌA SIÊU THỰC
I. TÌM HIỂU CHUNG.
1. Nguồn gốc của trường phái hội họa siêu thực.
Ở khoảng thế kỉ thứ XX có một khuynh hướng nghệ thuật lớn
ra đời, nó bao trùm rất nhiều đến các loại hình nghệ thuật khác , bắt đầu từ
thơ đến hội họa, rồi lan nhanh đến các loại hình nghệ thuật như: điện ảnh
tiểu thuyết.
Nghệ thuật Siêu thực bắt đầu ở Pa-ri (Pháp) và được nhà thơ
An-đrê Brơ-tông (Andre Breton) viết tuyên ngôn vào năm 1924. Breton định
nghĩa: Chủ nghĩa Siêu thực là biểu hiên tự phát của tâm lý người ta biểu
hiện lời nói, hoặc bằng nói, hoăc bằng bất cứ cách gì, chức năng có thực
của tư duy. Đó là sự tự do tư tưởng, không cần bất cứ sự chi phối nào của lí
trí, của các mối bận tâm của mỹ học hay đạo đức.
Ở đây, không nên hiểu nhầm siêu thực là “bộc lộ tiềm thức mà
không bị rào cản của lý trí”, mà siêu thực là chấp nhận các thông điệp từ vô
thức chui vào ý thức. Đó là trạng thái tâm lý thuần túy vô-ý-thức mà Breton
gọi là automatism. Các thông điệp của vô thức được truyền đạt bằng các
hình tượng, ký hiệu, ý niệm, trong khi các thông điệp của ý thức được truyền
đạt bằng ngôn ngữ. Nếu trào lưu hiện thực dựa vào biểu tả hình tượng các
vật thể từ thế giới xung quanh, còn trào lưu trừu tượng biểu tả thế giới tinh
thần mà không cần tới hình tượng của vật thể từ thế giới xung quanh, thì các
nghệ sĩ siêu thực muốn làm một sự kết nối giữa thế giới trừu tượng của tinh
thần và thế giới hiện thực khách quan của các vật cụ thể. Dùng các vật thể
của thế giới xung quanh như một loại ẩn dụ, nghệ sĩ lôi thực tại từ tâm trí vô

thức (unconscious mind) ra, đưa nó vào tâm trí có ý thức (conscious mind)
để ta có thể giải mã. Carl Jung (1875 – 1961), nguyên môn đệ xuất sắc của
S. Freud, đã viết rất rõ về điều này như sau: “Niềm khát khao không được
thoả mãn của nghệ sĩ đã quay về với hình tượng hoang sơ của vô thức –
hình tượng nào phù hợp nhất để bù lấp sự phiến diện một chiều của hiện tại.
Nghệ sĩ chiếm hữu hình tượng đó, lôi nó lên từ vô thức sâu thẳm, đưa nó
vào mối liên kết với những giá trị của ý thức, và từ đó biến đổi nó cho đến
khi trí tuệ những người đương thời chấp nhận nó tùy theo khả năng của
họ.”
Nghệ thuật hội hoạ Siêu thưc được coi là sư nối tiếp của nghệ
thuật Đa-da, một trào lưu nghệ thuât ra đời vào khoảng năm 1916 ở zu-rich
(Thụy Sỹ). Các hoạ sĩ Đa-đa đòi quyền tự do sáng tác,tự do diễn tả cảm xúc
riêng, không cần cho người khác hiểu hoặc không cần nhìn mà chủ yếu là
tưởng tượng. Sau khi chủ nghĩa Đa-đa ra tuyên bố giải tán, các nghệ sĩ muốn
thoát khỏi sư phủ định củ Đa-đa và muốn có một cái mới. Cái mới đó là
chính là Siêu thục.
2
Như vậy: chủ nghĩa siêu thực là cách tạo dựng một thế giới
ám ảnh, dựa trên sự lắp ghép những biến thể của vật thể hoặc những ảnh
giác soi rọi trong tâm thức của người nghệ sĩ để phát hiện ra nội tâm vũ
trụ.
2. Những dạng biểu hiện của hội họa siêu thực.
Dạng hỗn hợp hư và thực: tranh là sư kết hợp giữa hai yếu tố
hư và thực: Trên nền của phong cảnh thực như trời , biển, núi, đất…tác giả
sắp đặt nhiều hình ảnh kì dị được tạo nên bằng trí tưởng tương phong phú
của tác giả.

Ngóng chờ_sơn dầu_Dali

3

Gửi hàng_sơn dầu_Gali
Nhưng nhiều khi hiện thực đó lại chính là những nỗi đau, niềm
bất hạnh, là những sự kiện có thật từ chính cuộc đời của người họa sĩ

Hai bức hoạ: Bệnh viện và Cây hi vọng của nữ hoạ sĩ Siêu thực người
Mêhicô_ Prida kahlo (1907-1954) là những bức tranh như vậy. Nữ họa sĩ
này có cuộc đời bất hạnh với chuỗi dài những tai ương. Mới sáu tuổi nữ hoạ
sĩ đã bi bệnh đậu mùa, hậu quả là cho đến cuối đời bà phải đi khập khiễng.
Trong một lần bị đâm xe, bà bị thương ở chân và vùng xương chậu, vì thế
hoạ sĩ tài năng chẳng thể có con.Hai bức vẽ trên chính là những tác phẩm bà
vẽ về thời kì đau khổ này của mình. Nhân vật trong tranh chính là bản thân
bà. sự viêc trong tranh chính là những gì đã diễn ra với cuôc đời thực của bà.
Nhưng chúng đã đươc thể hiên không như binh thưòng. Mà những gì chúng
ta thấy lại như một cơn ác mộng đau xót hoặc lại như niềm hi vọng đầy lạ
lùng kì dị, khác thường.
Dạng khác nữa là dạng vẽ hoàn toàn không có thực: Những
bức tranh chỉ có thế giới của Siêu thực, không còn một chút yếu tố hiện thực
trong tranh. Tranh loại này có những hình ảnh quái dị và giống như hình ảnh
xuất hiện trong những cơn ác mộng. Ngoài sự khó hiểu chúng còn gây ra sư
lo âu, căng thẳng cho người đứng trước chúng, chiêm ngưỡng chúng.
4

Hươu Cao cổ bốc cháy _Đali
Ngoài hai trương phái trên, có hoạ sĩ lại vẽ trong tranh
mình những hình ảnh bay bổng, thiếu hiện thực nhưng đầy chất thơ chất lãng
mạn.Những tranh này được gọi là tranh Siêu thực trữ tình.


Ngày sinh nhật_Marc Chagall_ 1919_ sơn dầu


Cô gái và hoa - Marc Chgall
5
3. Một số danh họa và bức tranh tiêu biểu.(xem đoạn video)
Có rất nhiều tác giả đã ghi danh vào lịch sử mĩ thuật thế giới
như: Salvador Dali, Anné Magritte, Max Ernst, Francisco Goya, Miro… và
ở Việt Nam không thể không nhắc đến họa sĩ, nhà Vật lí học Nguyễn Đình
Đăng.
II. TÌM HIỂU MỘT SỐ DANH HỌA VÀ PHÂN TÍCH MỘT SỐ
BỨC TRANH TIÊU BIỂU.
1. Danh họa Salvador Dali
1.1. Giới thiệu chung:
- Salvador Dali (1904-1989) là họa sĩ Tây Ban Nha có
ảnh hưởng lớn tới nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX.
- Ông được xem như là biểu tượng của hội họa Siêu thực
trong lòng công chúng không chỉ do những bức tranh mà ở cả những bài
viết, những thái độ… mà bản thân cuộc sống của Salvador Dali cũng hoàn
toàn Siêu thực.
- Trong cuộc sống, Dali luôn có những ý tưởng khác lạ
và “điên rồ” mang rõ nhất đặc trưng của phong cách Siêu thực. Mới 5 tuổi,
Salvador Dali đã muốn trở thành đầu bếp, lên 7 tuổi muốn trở thành
Napoléon. Năm 16 tuổi, ông viết trong nhật ký: “Tôi sẽ trở thành thiên tài.
Cả thế giới sẽ biết đến và ái mộ tôi. Có nhiều người sẽ căm ghét, không hiểu
tôi. Nhưng tôi sẽ là một thiên tài, tôi chắc là như vậy”.
- Năm 1927, Dali bị đuổi khỏi Viện Mỹ thuật San
Fernandino vì có hành vi và thái độ kỳ quái. Sau đó, Dali sang Paris gặp và
trao đổi ý kiến với họa sĩ Tây Ban Nha, Pablo Picasso.
Năm 1928, Dali tham gia nhóm các họa sĩ theo trường
phái siêu thực và đây chính là con đường mà ông chọn để đeo đuổi sự
nghiệp cho đến khi qua đời.
1.2. Đặc điểm tranh của Dali.

Tranh của Dali mang những đặc điểm tiêu biểu của hội
họa Siêu thực, bởi vậy ông được coi là họa sĩ đỉnh cao trong trường phái hội
họa Siêu thực. Trong các tác phẩm của ông, màu sắc tươi sáng, các hình
tượng được sắp xếp theo một logic, trật tự riêng của họa sĩ.Trật tự ấy theo ý
đồ của tác giả, và nó khá đơn giản trong hình tượng để người xem có thể tiếp
cận được. Đồng thời, ông cũng sử dụng phương pháp chắp ghép,
Nghệ thuật của Dali là lìa xa những tập quán cố cựu,
những đề tài đóng băng để hướng tới con đường sáng với những gì tựa như
mơ trong tác phẩm của trường phái siêu thực. Ở vào những năm 1927/1928
một số tranh Salvador Dali chịu ảnh hưởng kiểu cách siêu thực (the
surrealistic styles) của một số họa nhân Jean Arp, Joan Miró và Yves
6
Tanguy. Một vài họa phẩm của Dali tạo nên những đốm loé (blob-like) sắc
bén, phá thể của giấc mơ hãi hùng ngay cả giấc ‘mơ-mộc- đè’(nightmarish).
Dù tranh của Dalí với màu sắc, chất liệu trong sáng cỡ nào cũng không để lại
một cái gì dịu êm mà chứa đựng hình ảnh khiếp đảm trong đó; tuy nhiên vẫn
cho chúng ta nhận ra được một cái chứng có tính cách mắc bệnh (affected
Dalí’s) giả tạo trong toàn bộ bố cục xây dựng của Dali !
Đối với Dali là một vượt thoát từ nội tại đến thể chất, một
bung phá mà con người ông thường trực với nội tâm, Dali chỉ mượn nội giới
để tháo gỡ ràng buộc, những thứ đó tiềm tàng bấy lâu nay, đưa dẫn Dali vào
cõi mộng, sống với mộng, trao đổi với mộng để biến mình trở nên cuồng
tính với tư duy. Xuyên qua những giấc mơ bấn loạn tâm thần. Có lần Dali
nói: ”Khi bạn là con người siêu thực bạn phải hòa điệu vào với nó. Tất cả
những cấm kỵ, cưỡng ép là ‘tử cấm thành’ hoặc cách khác như thử liệt kê để
phải làm những điều tuân thủ”.
1.3. Phân tích một số bức tranh.
a. Bức tranh “Sự dai dẳng của ký ức”.
Bức tranh được vẽ vào năm 1931.
Mô tả bức tranh: bức tranh vẽ 3 chiếc đồng hồ, nhưng 3

chiếc đồng hồ lại có hình dạng kì lạ: chúng đều bị méo mó, tan chảy, lại
được đặt trong hoàn cảnh hoang tàn, cằn cỗi thiếu sức sống. Một chiếc được
vắt ở cành cây khô; một chiếc nằm vắt vẻo ở một thành đỡ, 1 nửa bên trên,
một nửa ở dưới; một chiếc được đặt trên
Ý nghĩa: Sự dai dẳng của ký ức thể hiện với những chiếc
đồng hồ méo mó bị chảy,mềm Đây như một cái gì đó giằng xé trong tâm
can, là những giấc mơ nối liền thực tại với hàng triệu năm về trước và hàng
triệu năm chưa đến. Thời gian mềm rũ rượi trong những giấc mơ, hiện tại,
tương lai và quá khứ giành giật nhau những mẩu ký ức còn sót lại sau những
7
tô cháo lú của cuộc sống mà muốn hay không muốn người ta cũng sẽ phải có
lần phải thử.
Ba chiếc đồng hồ, ba “thời gian”, giằng xé nhau, không
tương thích nhau- Họa sỹ dường như muốn nói về những cái đã qua, những
gì đang có và những điều chưa đến? Quá khứ chênh vênh, tương lai mong
manh đều chẳng nằm trong tầm với của con người, chỉ có hiện tại luôn đè
nặng trên bức chân dung méo mó dường như tan chảy trên nền nâu của đất
núi và vàng của ráng mây và xanh thẳm của bầu trời.
b. Bức tranh “Swans reflecting delephans”.
Được vẽ năm 1937.
Mô tả: bức tranh có những con thiên nga, bóng của chúng
và những cành cây soi rọi xuống hồ nước. Nhưng kì lạ thay: bóng lại là
những tấm ảnh màu, núi không có bóng, những đám mây hình nhân cũng
không có bóng. Nắng chỉ đổ bóng vào những cây hình thù kì lạ và những
con thiên nga đang xòe cánh. Bóng cây và thiên nga đổ xuống hồ, mặt nước
yên lặng. Va kì diệu hơn lại là: chiếc bóng của những con thiên nga duyên
dáng lại là những chiếc tai voi thô ráp.
Ý nghĩa: có quan điểm cho rằng: hình và bóng trong bức
tranh này cũng chỉ là sự nhiễu loạn do không bao giờ tồn tại sự cô đơn tuyệt
đối. Khi chú tâm vào những con thiên nga người ta sẽ không thấy những con

voi và ngược lại. Nhìn và nghĩ về thiên nga – cái đẹp thì sẽ không thấy sức
mạnh to lớn và ngược lại, khi chú tâm nhìn vào những con voi – cái sức
mạnh thì cái đẹp sẽ biến mất. Từ đó biểu thị ý nghĩa: cái đẹp và sức mạnh
không bao giờ cùng tồn tại trong ý niệm của mỗi người.
8
c. Bức tranh “Hươu cao cổ bốc cháy”.
Mô tả: bức tranh vẽ một con hươu cao cổ đang bị bốc
cháy rừng rực, nhưng hình ảnh này lại không phải là hình ảnh trung tâm của
bức tranh. Hình ảnh trung tâm, chiếm diện tích lớn hơn cả lại là hình ảnh của
những hình người kì quái, bước đi dò dẫm, trên lồng ngực và đùi bật ra 8
ngăn kéo. Đằng xa là 1 dải núi nhấp nhô với những cái bóng đổ dài im lặng.
Ý nghĩa: bức tranh thể hiện một nỗi ám ảnh phức tạp về
sự hủy diệt ở trần thế, đồng thời thể hiện thông điệp nghệ thuật bí ẩn về một
khát vọng thẩm mĩ độc đáo.
2. Danh họa René Magritte.
2.1. Giới thiệu chung:
Magritte sinh ngày 21 tháng 9 năm 1898 và mất ngày 15
tháng 8 năm 1967 là một họa sĩ nước Bỉ.
Magritte sinh ra tại Lessines, thuộc tỉnh Hainaut, nước Bỉ
vào năm 1898. Ông là con trai cả của Léopold Magritte, một thợ may và mẹ
ông là Adeline Magritte, một người thợ làm mũ. Năm 1910, ông bắt đầu
theo học những lớp vẽ đầu tiên ở tuổi 12. Ông theo học Học viện Hoàng gia
Khoa học và Nghệ thuật Bỉ tại Brussels trong hai năm cho đến năm 1918.
Năm 1922, Magritte lấy Georgette Berger, người phụ nữ mà ông đã gặp từ
thời còn niên thiếu.
Trong năm 1926, ông đã vẽ bức tranh siêu thực đầu tiên
và sau đó tổ chức triển lãm vào năm 1927. Tuy nhiên các nhà phê bình đã
phê phán các bức tranh của Magritte thậm tệ. Chán nản trước thất bại,
Magritte chuyển đến Paris và ông trở thành bạn của André Breton, đồng thời
tham gia vào nhóm các họa sĩ vẽ tranh siêu thực.

9
Magritte miêu tả các bức tranh của mình như sau:"Những
bức tranh của tôi là những hình ảnh hữu hình nhưng không hề ẩn chứa bất
cứ thứ gì; chúng khơi gợi sự bí ẩn và, tất nhiên, khi một người xem một
trong những bức tranh của tôi, người đó sẽ tự hỏi "Điều đó có nghĩa là gì?".
Nó không ẩn chứa điều gì cả, vì bí ẩn không có nghĩa, đó là điều không thể
nhận biết"
2.2. Đặc điểm tranh của Magritte.
Magritte nổi tiếng với những bức tranh kỳ dị và bí ẩn.
Một trong những đặc trưng trong các bức tranh của ông là sự sắp xếp các sự
vật, hiện tượng hữu hình với nhau theo những cách kỳ lạ và khiến chúng trở
nên kỳ cục. Trong bức tranh Sự tương đồng chọn lọc, ông vẽ một quả trứng
bị nhốt trong cái lồng chim. Hay trong bức tranh Thính phòng, ông vẽ một
quả táo khổng lồ ở trong một căn phòng.
Nhiều sự vật, hiện tượng trong các bức tranh của
Magritte hết sức hoang đường và kỳ bí. Ví dụ như trong bức tranh Chân
dung Edward James vẽ Edward James đang nhìn trực tiếp vào gương nhưng
chỉ thấy phần phía sau của mình trong đó. Nhiều hình ảnh siêu thực khác
cũng xuất hiện trong các bức tranh của Magritte là đồ vật hóa thành người,
lá hóa chim, nến phát ra ánh sáng màu đen
2.3. Phân tích một số bức tranh của Magritte .
a. Bức tranh “Golconde”
Được vẽ vào năm 1953, là một trong những bức họa
nổi tiếng của Magritte.
Mô tả: bức tranh có điểm nhấn là những hình người
giống y như nhau: từ khuôn mặt đến quần áo (màu đen) đang “bay” trong
thành phố.
Ý nghĩa: tác giả của bức tranh muốn cười nhạo cả
thành phố cứng nhắc, giả dối và đơn điệu. Họ giống như những hình nộm,
10

lăng xăng và vo ve khắp nơi như ruồi nhặng hay châu chấu xâm nhập vào
thành phố như một cơn mưa.
b. Bức tranh Clairvoyance (tự họa).
Bức tranh được hoàn thành năm 1936. Bức tranh được
vẽ bằng cách, họa sĩ soi gương và vẽ hình ảnh được phản chiếu trong gương
(một cách vẽ của tự họa). Do đó, có thể nhìn thấy trong bức tranh là hình
ảnh của một nhà họa sĩ đang hướng mắt ra sau, trên bàn có mẫu vật là một
quả trứng và bức tranh vẽ lại là hình một con chim đang sải cánh. Dường
như mọi hình ảnh trong bức tranh đều rất rời rạc, chúng chẳng có sự logic
nào cả. Tuy nhiên, dựa vào đặc trưng của hội họa siêu thực mà ta có thể hiểu
như sau:
3. Danh họa Nguyễn Đình Đăng.
3.1. Tìm hiểu chung:
Sinh năm 1958, là một nhà vật lý, nhà nghiên cứu về lý
thuyết vật lý hạt nhân tại Viện Vật lý hóa học Nhật Bản (tức Viện RIKEN).
Ông là một trong số ít nhà khoa học có hai bằng tiến sĩ. Ông còn là một hoạ
sĩ, hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Chủ thể Nhật Bản
(năm 2005, là người nước ngoài đầu tiên được công nhận là hội viên chính
thức trong lịch sử 41 năm từ khi thành lập của hội này). Ngoài ra, ông còn là
tác giả nhiều bài viết, nhiều bài dịch từ tiếng Nga, Nhật, Anh, Pháp được
đăng trên các báo như Talawas, Tia sáng, Người viễn xứ, Quân đội nhân
dân, Lao động, Tạp chí mỹ thuật, Ngày nay, Vietnamnet, Sài Gòn tiếp thị
Phát biểu tại khai mạc triển lãm cá nhân đầu tiên của
Nguyễn Đình Đăng tại Nhật Bản năm 2001, giáo sư Akito Arima - nhà vật
lý, thượng nghị sĩ, nguyên bộ trưởng văn hóa - giáo dục - khoa học Nhật
Bản, nguyên chủ tịch viện RIKEN, nguyên hiệu trưởng Đại học Tổng hợp
Tokyo - đã gọi Nguyễn Đình Đăng là "một thiên tài".
11
Giáo sư vật lý D.H. Feng - phó hiệu trưởng Đại học Tổng
hợp Texas tại Dallas (Hoa Kỳ) - đã gọi Nguyễn Đình Đăng là "một người

thời Phục Hưng" vì những mối quan tâm rộng và tài năng đa dạng của ông.
Tờ tạp chí danh tiếng tại Nhật Bản Japan Times đã chọn
tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng là người đầu tiên để giới thiệu trên chuyên mục
lớn “Họ là ai?”, nói về những người Việt Nam thành đạt tại Nhật Bản. Ông
được đánh giá là một trong những điển hình hiếm hoi của sự dung hòa khoa
học và nghệ thuật trong một con người.
Song hành với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, Nguyễn
Đình Đăng còn đam mê âm nhạc và hội họa. Nguyễn Đình Đăng được đánh
giá là tác giả có những bức tranh mang đậm phong cách phương Tây kết hợp
với nét văn hóa Á đông. Những bức tranh như: Biến thái, Giấc mơ bạch
tuộc, Buổi học dương cầm, Ánh trăng… là những tác phẩm hội hoạ đậm
chất thơ, nhạc điệu, pha trộn trong sự huyền ảo, giữa hư và thực là sự phô
diễn kỹ thuật và biểu đạt suy tư sâu lắng là nét độc đáo, và là thế mạnh làm
nên thành công của Nguyễn Đình Đăng (theo Đinh Quang Tỉnh - Ba Tỉnh)
như một hoạ sĩ “thành danh” đứng ngang hàng với những nghệ sỹ chuyên
nghiệp và tên tuổi trong nước.
3.2. Phân tích một số bức tranh tiêu biểu.
a. Bức tranh “Biến thái”.
Bức tranh vẽ một cô gái Nhật mặc bộ kimono đang chơi piano
trong căn phòng trải chiếu tatanni có cửa kéo, ngồi trên 1 ổ bánh mì Ý.
Phomat và Prosciutto Ý (đùi lợn ướp muối) được gắn vào hai đầu cây piano.
Bức tranh này thể hiện sự thoát xác của nước Nhật từ một chánh thể độc tài
quân phiệt trở thành một cường quốc dân chủ. Sự thoát thai này giống như
sự biến thái của ấu trùng từ kén trở thành một chú bướm lộng lẫy. Vì thế mà
12
sau lưng cô gái Nhật này có hình một con bướm rất lộng lẫy. Đó chính là
diện mạo của đất nước Nhật Bản mới.
b. Bức tranh “Buổi học dương cầm”
Tác giả vẽ một pianist cháy như bó đuốc trước một hình nhân
khoác áo nhà sư có đầu như da bọc gỗ, đeo mặt nạ, bàn tay như vó ngựa,

đứng bên cạnh một mỏ neo han rỉ, lăn lóc trong đống dây thừng cạnh một
bản thảo bị đốt cháy, gần bức tường có một xác ướp. Ở bên trái treo lủng
lẳng một máy đếm nhịp như người bị treo cổ dưới một đoạn xà gỗ.
c. Bức tranh “Lối ra”
Đây là bức tranh được giải thưởng Sompo Japan năm 2007 và
được mời dự triển lãm “Các họa sĩ xuất sắc đang nổi lên” lần thứ 28 năm
2009 tại bảo tàng mỹ thuật Seiji Togo.
Trong tranh có vẽ một lối ra của ga tàu điện ngầm nơi tác giả
sống ở Nhật. Lối ra này cũng đồng thời là lối vào, phụ thuộc vào hướng đi.
13
Người phụ nữ trẻ trong tranh là một nghệ sĩ piano Nhật. Cô mặc váy áo biểu
diễn và ngồi trên một cái lá sen. Câu ca dao Việt Nam “Trong đầm gì đẹp
bằng sen…” có thể rất phù hợp trong trường hợp này chăng? Tuy nhiên tác
giả lại bị ám ảnh bởi những câu thơ khác, cho dù có thể được bắt nguồn từ
câu ca dao trên, nhưng, theo tác giả, lại rất độc đáo và sâu xa. Đó là những
câu trong một bài thơ của Nguyễn Bảo Sinh:
Khi mê bùn chỉ là bùn,
Ngộ rồi mới biết trong Bùn có Sen.
Ở lớp thứ hai là một cô dâu Nhật mặc áo cưới truyền thống -
tiếng Nhật gọi là “shiromuku”. Đi lấy chồng là “bước ra” hoặc “bước vào”
một cuộc đời mới, thậm chí một thế giới mới với bổn phận của người vợ,
người mẹ. Trong trường hợp bức tranh “Lối ra”, trong một lần đi ra khỏi cửa
xe điện ngầm ở ga Ikebukuro (Tokyo), “tôi chợt nảy ra ý tưởng vẽ cái đuôi
áo cô dâu kéo lê dưới đất rồi biến thành một cái đàn đại dương cầm, như
thể đuôi áo đang kéo theo cái đàn - sự nghiệp và mơ ước nghệ thuật của cô
dâu. Thực ra áo shiromuku không có đuôi, mà thẳng đứng. Chỉ có áo cưới
châu Âu mới có đuôi dài quét trên sàn. Cái áo trong tranh của tôi là một sự
hòa trộn giữa áo Nhật và áo Tây vậy”. Đây chính là đặc điểm nổi bật trong
tranh của Nguyễn Đình Đăng.
III. TỔNG KẾT

Quan niệm và nguyên tắc của nghệ thuật Siêu thực dựa theo học
thuyết Phân tâm của Phrớt (Freud,1856-1939 bác sĩ người Áo).Theo học
thuyết này,vai trò của tiềm thức, sự giải thoát khỏi những ức chế bằng các
giấc mơ chính là đối tương nghiên cứu của Siêu thực. Họ tin tưởng vào thực
tế khách quan của giấc mơ. Những khát vọng những tư tưởng ngẫu nhiên,
những hình ảnh trong giấc mơ là phương thức để giải thoát tâm linh khỏi sự
đè nén của lí trí. Theo các hoạ sĩ Siêu thực, có hai thế giới hiện thực: Hiện
thực hữu hình, có thực và hiện thực tồn tại trong tiềm thức của hoạ sĩ. Cái
thế giới đó mới là đối tương họ quan tâm khai thác để vẽ tranh. Thế giớ siêu
thực không thể lĩnh hội được bằng các giác quan,và nó có thật trong mỗi con
người, ở nhiều mức độ khác nhau. Thế giới ấy nằm trong tiềm thức, trong
vùng vô thức. Do đó, Siêu thực thể hiên vai trò của sự phi lí.
Như vậy, hội họa siêu thực hướng vào thế giới vô thức của con người
mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá, sáng tạo nghệ thuật.
Nó đề cao các ngẫu hứng, chú trọng ghi những cái xuất hiện lướt qua trong
đầu, không qua sự kiểm soát của lí trí. Nó vứt bỏ sự phân tích logic, xóa bỏ
các gông cùm của lí trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ,
ảo giác, những linh cảm bản năng và sự tiên tri.
14
15

×