Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vấn đề văn học Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.59 KB, 22 trang )

1, Tác giả của Mahabharata và Ramayana. Tên 2 sử thi có nghĩa là
gì? Thời gian ra đời của sử thi có ảnh hưởng gì đến tác phẩm?
Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ,
cuốn thứ hai là Ramayana. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn
thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính
trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống
con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không
thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn
Độ."
Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại
Ấn Độ, do nó còn chứa Bhagavad Gita, một kinh văn quan trọng hàng đầu
của Ấn Độ giáo (đạo Hindu) dài chừng 700 câu thơ.
Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa
là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua
Bharath".
Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ
dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử
dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa.
Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 -
9.
Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc
liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua
Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên
Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".
Nền tảng lịch sử của Mahabharata là một thời đại đầy nhiễu nhương xung
đột.
-Xung đột giữa chế độ thị tộc dựa trên cơ sở huyết thống với chế độ chiếm
hữu nô lệ mới manh nha trên cơ sở tư hữu và thể chế nhà nước.
-Xung đột giữa hai đẳng cấp BRAHMANA (tăng lữ) và KSHATRIYA (Võ sĩ quí
tộc) trong cuộc chiến đấu giành quyền lực tối thượng giữa thần quyền và
vương quyền.


-Xung đột giữa nội bộ đẳng cấp KSHATRIYA trong những cuộc chiến tranh
giành đất đai, mở rộng bờ cõi giữa các vương quốc, các tiểu vương quốc,
các bộ lạc cổ đại.
Các xung đột này thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau và thể hiện ra thành
những cuộc chiến tranh có qui mô to lớn, sức huỷ diệt khủng khiếp của thời
kì cổ đại.
Mahabharata là kí ức lịch sử về những cuộc chiến tranh như vậy. Tác phẩm
kể về cuộc chiến tranh cốt nhục giữa hai chi thuộc cùng dòng họ Bharata.
Pandava tấn công Kaurava để giành lại vương quốc của họ đã bị chiếm đoạt
một cách bất công.
Rāmāyaṇa (Devanāgarī: रररररर) là một sử thi cổ đại viết dưới dạng
trường ca tiếng Sanskrit và là một phần quan trọng của bộ kinh Ấn Độ giáo
(smṛti). Đây là bộ sử thi bằng tiếng Phạn nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ cổ đại.
Người ta cho rằng tác giả của Ramayana là nhà thơ Valmiki.
Tên gọi Rāmāyaṇa là một từ ghép tatpurusha của Rāma và ayana "đi đến,
tiến đến", được dịch ra là "những cuộc du hành của Rāma". Rāmāyaṇa bao
gồm 24.000 câu[1] trong bảy tập (kāṇḍas) và kể về câu chuyện của một
hoàng tử, Rama của xứ Ayodhya, vợ là Sita bị bắt đi bởi vua quỷ (Rākshasa)
vua xứ Lanka, Rāvana. Trong dạng hiện tại của nó, Valmiki Ramayana có
niên đại có thể từ 500 TCN đến 100 TCN, hay là khoảng cùng thời với những
bản đầu tiên của sử thi Mahabhārata
Sử thi này gồm 24.000 câu thơ đôi, tức 48.000 dòng thơ, chưa bằng 1/4
khối lượng dòng thơ của bộ Mahabharata nhưng bố cục chặt chẽ hơn. Chủ
đề của tác phẩm là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ
chung thủy Sita.
Xưa kia ở vương quốc Kosala có ông vua già yếu tên là Dasaratha, có bốn
người con trai do bà vợ sinh ra. Con cả Rama hơn hẳn các em về tài đức.
Vua có ý định nhường ngôi cho chàng, nhưng vì bị trói buộc bởi lời hứa với
bà vợ thứ hai Kaikeyî xinh đẹp cho nên đã đày Rama vào rừng 14 năm và
trao ngôi lại cho Bharata, con của Kaikeyî.

Vợ Rama, nàng Sita, cùng em trai Laksmana tình nguyện theo Rama vào
rừng sống ẩn, luyện tập võ nghệ. Quỉ vương Rãvana ở đảo Lanka lập mưu
cướp nàng Sita đem về làm vợ. Hắn dụ dỗ và ép buộc nàng nhưng nàng đã
kịch liệt chống cự. Mất Sita, Rama đau buồn khôn xiết. Chàng quyết tâm
cứu bằng được vợ trở về. Trên đường đi, Rama gặp và giúp đỡ vua khỉ Xu-
gri-va, sau đó chàng được tướng khỉ Hanuman cùng đoàn quân khỉ giúp.
Cuối cùng Rama cũng cứu được Sita.
Nhưng sau chiến thắng vẻ vang đó, Rama nghi ngờ tiết hạnh của Sita, nổi
cơn ghen dữ dội, không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để Rama tin ở lòng
chung thủy của mình, Sita đã bước vào lửa. Thần lửa A-nhi biết được nàng
trong sạch, đã cứu nàng. Thấy vậy Rama vô cùng sung sướng, giang tay đón
nàng. Hai người đưa nhau trở về kinh đô trong cảnh chào đón nồng nhiệt
của dân chúng.
Ramayana ngợi ca chiến công và đề cao đạo đức của hoàng tử Rama, ca
ngợi mối tình chung thuỷ của nàng Xita, đồng thời phản ánh sự phát triển
của xã hội người Arian. Tuy là một tác phẩm ca ngợi đẳng cấp quý tộc vũ sĩ
nhưng đã khắc họa được những gương mặt có tâm hồn trong sáng. Rama là
nhân vật lí tưởng kiểu mẫu của đạo Hinđu, của đẳng cấp vương công quý
tộc đồng thời là khát vọng của nhân dân về một vị minh quân, một anh
hùng tài ba, đức độ, đem lại hạnh phúc cho xã hội. Sita thánh thiện, là mẫu
người phụ nữ Ấn Độ cổ đại, một người vợ tiết hạnh, một người con gái
nhân hậu, quả quyết, hi sinh quên mình. Tướng khỉ Hanuman có trái tim
nóng bỏng nhiệt tình, là hoá thân của lực lượng quần chúng nhân dân làm
hậu thuẫn cho những anh hùng chiến đấu cho tự do và công lý, giải phóng
bảo vệ đất nước Tác phẩm cũng đã nêu bật được khát vọng chiến thắng
cái ác, đem lại nguồn an ủi cho quần chúng nhân dân bị áp bức, do đó được
nhân dân rất ưa chuộng. Vì thế, những câu chuyện và những nhân vật trong
Ramayana đã được nhiều văn nghệ sĩ khắc họa trong thơ ca và trong các
công trình mỹ thuật - điêu khắc ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Đặc điểm nổi bật khiến Ramayana sống mãi trong lòng người đọc là sức gợi

cảm của nó, với sự kết hợp của yếu tố tưởng tượng kì ảo và việc phản ánh
hiện thực khách quan, nét hoang đường kì ảo và việc miêu tả tính cách con
người trần tục, những cảnh oai hùng và những cảnh bi tráng.
Ramayana đã song hành cùng lịch sử dân tộc Ấn Độ dẫu qua nhiều sự gọt
giũa của các thi sĩ vô danh, qua nhiều lời kể của các nghệ nhân dân gian,
song vẫn là tiếng ca bất hủ về lòng hướng thiện, tư tưởng yêu hòa bình, đề
cao sự công bình bác ái; với những triết lí mang tầm nhân loại có giá trị cho
muôn đời: lẽ hài hòa, bổn phận, khát vọng, đúng như Vanmiki đã nói:
“chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì anh hùng ca Ramayana còn
làm say mê lòng người và giải thoát họ ra khỏi vòng tội lỗi”.
2, Kết thúc các sử thi ấn độ thường trái với sự đón đợi của người đọc các
nhân vật pản diện được lên cõi cực lạc, dựa vào hiểu biết văn hóa Ấn Độ
hãy giải thích?
Mahabharata của Ấn Độ không chỉ là một sử thi anh hùng thuần khiết
mà còn là một sử thi luân lý, đạo đức - một dharmasatra của đạo Hindu. Vì
thế, độ dài 110 ngàn sloka (câu thơ đôi) không dành riêng để kể về chiến
trận mà còn thuật lại những sự kiện diễn ra trong đời thường. Kết thúc sử
thi phần lớn miêu tả cái chết của nhân vật anh hùng. Điều này trái với sự
đón đợi của người đọc, thể hiện cảm quan thẩm mĩ của văn hóa Ấn Độ.
Thường thì các sử thi anh hùng kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết để ngợi
ca, tôn vinh lòng dũng cảm chiến binh. Với Mahabharata, kỳ diệu hóa trong
miêu tả cái chết còn để diễn tả ý nghĩa đạo đức và xác lập cơ sở cho sự siêu
thoát của người anh hùng. Ảnh hưởng tư tưởng luân hồi - nghiệp báo
(karma - samsara) của Hindu giáo, người Ấn Độ cho rằng cuộc đời hiện tại
của mình chỉ là mắt khâu gần nhất trong một chuỗi xích dài những cuộc đời
kế tiếp nhau vô hạn, từ quá khứđến hiện tại và tới tương lai. Vậy nên, nếu
cái chết trên chiến trận đối với người anh hùng Hy Lạp là đểđạt tới tuyệt
đích vinh quang lưu danh cho hậu thế thì với người chiến binh Ấn Độ là để
"mởđược cánh cửa trời" tiếp tục sống một kiếp khác trong niềm hạnh phúc
vĩnh cửu. Bởi, người Ấn quan niệm cái chết thuộc phạm trù của cái bất tử.

Nếu trong Iliad mọi cái chết trên chiến trận đều đáng ngợi ca như nhau,
thì trong Mahabharata cái chết được miêu tả với nhiều cung bậc, sắc thái,
mang ý nghĩa đạo đức. Mahabharata sử dụng hình ảnh thiêng liêng, huyền
diệu để bất tử hóa người anh hùng qua cái chết.
Bên cạnh những cái chết được thể hiện với một thái độ ngợi ca tôn
vinh nhằm bất tử hóa người anh hùng, còn có những cái chết thể hiện sự vô
vị, tầm thường của cuộc sống nhân vật. Qua sự miêu tả cái chết người đọc
cảm nhận rất rõ dụng ý của tác giả: ngợi ca hay phê phán, tôn vinh hay hạ
bệ đối với nhân vật.
Cái chết méo mó, biến dạng, không đạt được sự giải thoát
Kichaka là một dũng tướng, tổng chỉ huy quân đội của triều đình Virata,
một trong ba võ sĩ nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Nhưng, kiêu căng và dục
vọng đã làm lu mờ trí tuệ, hạ thấp nhân phẩm của Kichaka. Nhân vật phải
trả giá cho hành động vô đạo đức của mình bằng cái chết nhục nhã: chết
trong bóng tối, không biết mặt kẻ giết mình, chết không giữđược nguyên
vẹn thi thể…Đây là cái chết đến hai lần cả về thể xác lẫn linh hồn, phản ánh
lối sống méo mó, phẩm hạnh đạo đức loang lổ của nhân vật.
Cái chết của Kichaka gợi nhớ cái chết của Yavakrida trong câu chuyện đạo sĩ
Lomasa kể cho Yudhisthira vào thời kỳ lưu vong mười hai năm trong rừng.
Yavakrida là một người thông tuệ, nhưng rốt cục lại chết trong một cơn
khát - khát nhận thức, bị tước mất phép màu nhiệm và sức mạnh. Đây
chính là sự trả giá cho hành động vô đạo đức, cho dục tính bản năng trong
Yavakrida.
Cái chết sự trả giá cho tội ác
Dữ dội và khủng khiếp là cái chết của Dussasana độc ác qua hình ảnh thi thể
tả tơi, tương xứng với tư cách và nhân phẩm đồi bại của hắn. Kết cục số
phận Dussasana là một minh chứng rõ nét cho tư tưởng nhân quả nghiệp
báo.
Cái chết tầm thường của kẻ mưu lừa, mẹo lọc
Cái đầu gốc rễ của mọi hành vi tội lỗi lăn lông lốc trên đất là hình ảnh về

cái chết của Sakuni gợi cho ta một cảm giác ghê rợn. Mahabharata kết luận:
"Cái đầu đó chính là gốc rễ của mọi hành vi tội lỗi của họ Kaurava". Mưu mô
ván bài oan nghiệt là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh khốc
liệt, làm suy đồi đạo lý dharma. Cái chết cho ta lần ngược lại ý nghĩa sự
sống của nhân vật.
Sử thi Mahabharata là một câu chuyện lớn và kỳ diệu mang đậm màu sắc
tôn giáo đạo đức: "Những đau buồn của cuộc sống nhân gian được mô tả
với một vẻđẹp cao cả và nó diễn ra trên một toàn cảnh lớn. Đằng sau câu
chuyện về những lầm lạc và đau khổ, nhà thơ giúp chúng ta có một ảo
tưởng về cõi thực và cõi thiên tiên"(6).
3, Vẻ đẹp của nhân vật anh hùng trong Ramayana.
Trong sử thi anh hùng ca, nhân vật trung tâm bao giờ cũng là người
anh hùng toàn thiện toàn mỹ và các nhân vật khác chỉ giữ vai trò phụ, mờ
nhạt và quy tụ làm tôn thêm vẻ đẹp cho người anh hùng. Nhân vật anh
hùng mang tính khái quát, mang tính lý tưởng xã hội và lý tưởng thẩm mỹ
của thời đại đã sản sinh ra nó. Ngoài tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu
biểu cho sức mạnh thể chất - tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật
anh hùng sử thi còn sáng ngời vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng
dũng cảm,…
Tất cả được thể hiện qua những hành động cao cả, dũng cảm của người
anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhân vật anh hùng sử thi không
thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành
chiến thắng. Người anh hùng phải có những khát vọng lớn lao, những lý
tưởng cao cả và lý tưởng ấy cũng là đại diện cho lý tưởng của cộng đồng
dân tộc. Những vẻ đẹp về sức mạnh thể chất, tinh thần, tài năng và những
phẩm giá ưu tú của cộng đồng được thể hiện qua nhân vật người anh hùng
trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội.
1. Vẻ đẹp về ngoại hình
Nhân vật anh hùng trong sử thi về ngoại hình phần lớn thường có tầm vóc
đẹp, có kích thước lớn lao. Đây là điều hết sức hợp lý bởi nó là sự cộng

hưởng thể chất của cả cộng đồng. Và ở cộng đồng nào thì người anh hùng
sử thi đều xuất hiện trọng vẻ đẹp tạo hình theo quan điểm thẩm mỹ, theo
chuẩn mực riêng của cộng đồng ấy.
Người anh hùng trong sử thi Phương Tây được xây dựng dựa trên thế giới
quan thần linh chủ nghĩa. Vì thế nhân vật anh hùng mang một vẻ đẹp siêu
phàm và kỳ vĩ. Trong sử thi Hy Lạp, người anh hùng ở cả hai chiến tuyến
đều là những con người toàn thiện toàn mỹ và là linh hồn của sử thi Hy Lạp.
Đó là những người anh hùng đại diện cho quan điểm tư tưởng của người
Hy Lạp cổ đại. “Asin là tổng thể những sức mạnh ưu tú của nhân dân.”
“Asin đó là sự thần thánh hóa nước Hy Lạp bằng nghệ thuật”(1). Dưới lời kể
của Hômer thì người anh hùng Achilles từ hình dáng đến vũ khí của chàng,
… đều thấp thoáng hình bóng của thần linh. Chàng có vẻ đẹp “như một
thần linh”, tiếng thét thì âm vang như “tiếng kèn xung trận” làm cho “đầu
gối của hết thảy những người Troy đều run rẩy” và “trái tim tan ra như
nước”. Không những thế, vũ khí của chàng cũng do thần linh làm giúp.
Chiếc khiên của chàng là một công trình nghệ thuật của vị thần thọt chân
trứ danh Hêphaixtôx, áo giáp và mũ trụ sáng ngời lên “trông xa như một
đám cháy lớn, như vầng đông khi mặt trời mới mọc” đến nỗi quân sĩ của
chàng cũng phải rùng mình run sợ khi đánh bạo nhìn vào những vũ khí đó.
Người anh hùng trong sử thi Phương Đông được xây dựng dựa trên cảm
quan và tư duy tôn giáo. Người Ấn Độ chú trọng đời sống tâm linh, nên hình
dáng không chỉ là cái bên ngoài mà còn là hình dáng được cảm nhận từ bên
trong. Trong sử thi Mahabharata, có rất nhiều nhân vật anh hùng lý tưởng
nhưng mỗi nhân vật lại xuất sắc về một mặt nào đó. Hình ảnh Arjuna bước
vào hội cầu hôn Draupadi: “Arjuna – chàng trai trẻ, như thân của một con
voi, có đôi vai, cánh tay và bắp đùi rắn chắc. Nếu nhìn kỹ, trông chàng ta
sừng sững như đỉnh Himavat. Arjuna có dáng đi như dáng đi của một con
sư tử, có sức mạnh như sức mạnh của một con voi thời sung mãn… Chàng
ta trông thật quyết chí và chắc chắn giành được chiến thắng”(2). Vẻ đẹp
của người anh hùng thường với tầm vóc hoành tráng, kỳ vĩ thường được so

sánh với phong thái uy nghi đường bệ của các vị thần linh. Bhima “Người
ông trông hệt như Ngọc hoàng Indra đứng giữa các chư thần giơ cao lưỡi
tầm sét”(3).
Trong sử thi Ramayana, nhân vật anh hùng lại có được vẻ ngoài thánh thiện
do các biện pháp kỹ thuật sử thi được sử dụng trong sự kết hợp nhuần
nhuyễn với những yếu tố tôn giáo. Hoàng tử Rama trong tác phẩm có “đôi
mắt sáng như mặt trời và mặt trăng, có đôi tai nghe thấu nhạc của trời đất,
chàng là kẻ thù của mọi sự ghen tuông hờn giận và tội ác tàn bạo”(4).
Trong sử thi Tây Nguyên, vẻ đẹp của nhân vật anh hùng được gắn liền với
kích thước của núi rừng, sông suối, cây cối, chim muông… nơi vùng đất
cộng đồng đang sống. Dựa trên kiểu so sánh được thiết lập trên sự tương
đồng về tính chất của sự việc, và sắc thái khâm phục ngợi ca mà các hình
ảnh gợi đến đã khắc họa nên vẻ đẹp oai hùng của người anh hùng Đam San:
“Đam San đóng khố màu sặc sỡ. Đầu đội khăn đẹp như các tù trưởng. Khiên
tròn như đầu cú. Gươm sáng như mặt trời. Tư thế chờ sẵn như con sóc mắt
sáng”(5); “Móc dao vào phên rồi lại ngồi giữa nhà, Đam San trông dẻo như
con rắn trong hang, con hùm bên bờ suối. Tiếng nói tiếng cười của chàng
như sấm vang sét đánh”(6). Thước đo vẻ đẹp hình thể của chàng Đam San
là những gì quen thuộc trong thiên nhiên một miền rừng núi, nó gắn liền
với nếp nghĩ, nếp cảm của đồng bào Tây Nguyên.
Chuẩn mực vẻ đẹp bề ngoài của người anh hùng không ở vấn đề toàn thiện,
toàn mỹ mà vẻ đẹp ấy phải phù hợp với khí phách hào hùng, với nhiệm vụ
bảo vệ cộng đồng dân tộc. Đó cũng là một kiểu dáng vóc sử thi.
2. Về vẻ đẹp phẩm chất - sức mạnh, tài năng, trí tuệ, đức hạnh
Ngoài tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu biểu cho sức mạnh thể chất -
tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật anh hùng sử thi còn sáng ngời vẻ
đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm… Tất cả được thể hiện
qua những hành động cao cả, dũng cảm của người anh hùng với những
chiến công hiển hách. Hêghen đã nhận định: “Tinh thần dũng cảm làm
thành cái hứng thú chủ yếu mà tinh thần dũng cảm là một trạng thái tâm

hồn và một hoạt động không hợp với tính cách biểu hiện trữ tình, cũng
không phù hợp với hành động có tính kịch, nhưng lại đặc biệt phù hợp với
hình tượng sử thi”(7). Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại nếu
không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành chiến thắng vang
dội, lập được những chiến công hiển hách. Người anh hùng phải có những
khát vọng lớn lao, những lý tưởng cao cả và lý tưởng ấy cũng là đại diện cho
lý tưởng của cộng đồng dân tộc.
Lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi thường được coi là những phẩm chất
đạo đức có tính chất tuyệt đối của người anh hùng trong sử thi. Trong sử
thi Hy Lạp, với quan điểm nhìn người anh hùng trong tính toàn vẹn, tính
tổng thể, xuất sắc về mọi phương diện, nhân vật hành động hết sức quyết
liệt vì lợi ích thành bang và vòng nguyệt quế vinh quang của người anh
hùng. Người anh hùng luôn khao khát chiến thắng và để giành được thắng
lợi trên chiến trường dù phải hy sinh thì đó cũng là cái chết hết sức vinh
quang. Trong sử thi Ôđixê, người anh hùng không thỏa hiệp với bất cứ một
trở ngại nào trên đường để trở về đến quê hương Itac. Chàng có thể vượt
qua bao gian lao thử thách trên biển cả là nhờ lòng dũng cảm, ý chí sắt
thép, sự chịu đựng phi thường. Chàng tự mình làm bè vượt biển, đơn độc
đối mặt với những bão táp, sóng gió Trong sử thi Iliát, phần lớn là câu
chuyện về cơn giận của Achilles cùng những hậu quả của nó. Achilles trừ
điểm yếu của chàng là gót chân thì chàng là người mình đồng da sắt, dũng
cảm không ai bằng, chiến công lẫy lừng hơn bất cứ ai, căm thù giặc sục sôi,
trung thành với bạn hữu… ít ai sánh được với chàng. Với khát vọng “Chừng
nào chưa đánh cho quân Troy tê liệt ta sẽ chưa thôi chiến đấu”, chàng đã
không hề lùi bước trước bất cứ một khó khăn, trở ngại nào. Những cuộc
giao tranh giữa các anh hùng cũng thường được so sánh với các cuộc săn
mồi của các muông thú: “Như lũ cá hoảng hốt nấp vào khắp hang hốc của
một cửa biển chắc chắn để chốn một con cá heo hung tợn ăn thịt bất cứ
con gì nó bắt được, quân Troy cũng ẩn vào những chỗ hiểm hóc của lòng
sông khủng khiếp đó”(8). Với người Hy lạp thì chiến trường cũng giống như

vũ đài thi đấu mà “Vòng nguyệt quế sẽ được quàng cho người xuất sắc
nhất, Achilles, kết tinh toàn bộ sức mạnh của người Hy Lạp; còn Hecto, của
người Troy - hai võ sĩ bước lên võ đài mà phần thưởng có thể là cả một
thành bang với những đường phố rộng sẽ thuộc về người xuất sắc hơn”(9).
Và những phẩm chất đó của nhân vật anh hùng luôn luôn tồn tại ở mức độ
phi thường, không ai sánh kịp, tạo nên vẻ đẹp hùng mạnh cho nhân vật sử
thi.
Trong sử thi Mahabharata, có thể tìm thấy nhiều nhân vật anh hùng nhưng
ở mỗi người anh hùng lại xuất sắc và ưu tú về một mặt nào đó. Sự lựa chọn
hành động để làm nổi bật điểm mạnh của từng nhân vật cũng là khuôn
mẫu truyền thống trong các sử thi anh hùng. Thể hiện sức mạnh thể chất
của người anh hùng được biểu hiện qua nhân vật Bhima. Sự thể hiện trí tuệ
và tài năng của người anh hùng thì được biểu hiện qua hành động của
nhân vật Arjuna. Trí tuệ và đạo đức của người anh hùng lại được thể hiện
qua nhân vật Yudhisthira. Đạo lý là tiêu chí để đánh giá hành động của
nhân vật này, tạo nên một gam màu riêng về khuôn mẫu người anh hùng
Ấn Độ. Sức mạnh của Yudhisthira không phải ở thể lực hay tài năng chiến
binh mà là sức mạnh siêu phàm của trí tuệ và sự công bằng, đạo đức trong
sáng. Trí tuệ ấy giúp chàng hiểu được tận cùng cốt lõi của đạo lý.
Yudhisthira đã giành sự sống cho các em mình bằng sự công minh, chính
trực, cao thượng với trái tim nhân hậu. Như vậy, trong sử thi
Mahabharata, nhân vật anh hùng lý tưởng là sự tổng hòa của nhiều nhân
vật, mỗi nhân vật thể hiện cái nhất thể lý tưởng và là một kiểu nhân vật
điển hình trong “Bức tượng N vị nhất thể”.
Trong sử thi Ramayana, nhân vật Rama được xây dựng là người anh hùng
lý tưởng “toàn thiện toàn mỹ”. Rama được đặt trong mối quan hệ, xung
đột với các nhân vật khác để người anh hùng bộc lộ những tài năng, đức
hạnh của mình. Người anh hùng Rama trong sử thi Ramayana được xây
dựng không chỉ đẹp về hình thức mà tài năng và đức hạnh của chàng cũng
rực rỡ như các vì sao trên bầu trời. Một chương trong khúc ca thứ nhất nói

về sự ra đời của người anh hùng “Rama ra đời” tuy rất ngắn gọn nhưng đã
khái quát được những nét điển hình trong tính cách, sức mạnh tài năng và
đức hạnh của người anh hùng. Trong bốn người con của vua Đaxaratha thì
“Rama hùng mạnh vô song thì tính cách không tì vết như trăng rằm, là niềm
vui sướng của những ai được nom thấy chàng. Chàng là một trang kỵ mã
lão luyện, một tay điều khiển chiến xa thành thục, và có thể cưỡi voi. Chàng
là một tay bắn cung bậc thầy và không hề sao nhãng mảy may việc luyện
tập võ nghệ cũng như sớm hôm phụng dưỡng cha già”(10). Đặc biệt sử thi
đã dành hẳn Chương 1- Người anh hùng trong khúc ca thứ hai: Khúc ca
Ayođhya để khắc họa hình tượng người anh hùng toàn thiện toàn mỹ.
Trong đó đặc biệt chú trọng tô đậm vẻ đẹp phẩm chất đạo đức, tôn giáo
của người anh hùng: “Chàng khôi ngô tuyệt vời và lòng dạ chàng trong sáng
như gương và cũng toàn năng như cha… Chàng trẻ trung, khỏe mạnh, có
đức hạnh, và dân chúng coi chàng như chính bản thân họ vậy. Chàng thông
tuệ kinh Vêđa và Vêđanga, lão luyện tinh thông mọi vũ khí được sử dụng,
với sự hỗ trợ hay không của ác thần chú Mantra. Chàng dũng cảm, ngay
thẳng thật thà và là nguồn gốc của mọi điều thiện… Chàng khiêm tốn, có ý
tứ và bao giờ cũng tỏ lòng tôn kính đối với các bậc bề trên… Chàng hết sức
cao siêu về triết học và có tài lớn về thi ca.” Về sức mạnh và tài năng trong
chiến đấu của người anh hùng lại được khắc họa hết sức ngắn gọn ngay ở
chương giới thiệu: “Chàng là một tay kỵ mã lão luyện, một chiến binh kiệt
xuất, một tướng lĩnh dũng cảm dắt dẫn quân đội chiến thắng kẻ thù và tinh
thông đủ mọi thuật bài binh bố trận. Chàng là người bất khả chiến thắng
ngay cả trước các chư thần”(11). Lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi
thường của người anh hùng Rama được thể hiện rõ hơn khi chàng chấp
nhận lưu đày mười bốn năm trong rừng với mọi khó khăn thử thách. Chàng
đón nhận với tâm trạng nhẹ nhàng bình thản: “Không ai nom thấy bất cứ
một dấu hiệu buồn khổ nào trong thái độ của chàng”(12). Hay trong các
cuộc giao tranh, lòng dũng cảm, sức mạnh và vũ khí lợi hại của người anh
hùng đã khiến kẻ thù khi trông thấy đều khiếp sợ: “Quân Raksaxa đâm

hoảng loạn và bắt đầu kêu thét lên khiếp đảm lúc trông thấy Rama, như con
voi phải lánh xa khi nom thấy con sư tử” (13).
Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại mà không có lý tưởng cao cả,
khát vọng lớn lao. Lý tưởng ấy cũng chính là đại diện cho lý tưởng cộng
đồng dân tộc. Trong sử thi Hy Lạp, người anh hùng mang lý tưởng tập thể
thị tộc, bộ lạc, lý tưởng của những con người tràn đầy sức sống và nhiệt
tình sôi nổi, khao khát lập chiến công và vinh quang. Chàng Hecto trong sử
thi Iliát với mục đích chiến đấu lập chiến công để lưu danh hậu thế nhưng
đó cũng chính là lý tưởng chiến đấu vì bộ lạc, vì quyền lợi của cộng đồng.
Trong sử thi Ôđixê, lý tưởng cao quý chi phối mọi hành động của người anh
hùng Uylixơ là trở về quê hương, gia đình, là muốn tìm hiểu thế giới, khám
phá những bí ẩn thiêng, làm chủ số mệnh và chinh phục thế giới.
Nếu như người anh hùng trong các sử thi Hy Lạp luôn hướng tới chiến
thắng và vinh quang nơi chiến trận, nơi biển khơi thì người anh hùng trong
các sử thi Ấn Độ lại mang lý tưởng thuần khiết hơn: lý tưởng về điều thiện,
về lẽ phải, về đạo lý ở đời. Trong sử thi Mahabharata lời giáo huấn của
Krishna dựa trên cơ sở vững chắc của lẽ Dharma: “Ai cũng phải chết, người
anh hùng hay kẻ nhát gan cũng vậy, nhưng nhiệm vụ cao quý nhất của một
Kshatriya là phải trung thành với dòng dõi và niềm tin của mình, phải đè
bẹp quân thù trong những trận đánh chính đáng mà giành lấy vinh
quang”(14).
Trong sử thi Ramayana, người anh hùng Rama luôn lùi bước trước những
hành động đi ngược lại bổn phận. Với niềm tin lý tưởng “chiến thắng thuộc
về những người đề cao Dharma” nên người anh hùng Rama luôn hành xử
theo bổn phận, tinh thần cao thượng và sự vị tha. Rama được quyền nối
ngôi cha, nhưng vì cha đã hứa với thứ phi Kaikêyi đày mình vào rừng để
nhường ngôi báu cho Bharata, Rama không dám cãi lại lệnh cha. “Lời hứa
của cha là danh dự, danh dự của cha là danh dự của mình và của dòng
giống. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha là một bổn phận. Đó là tiêu
chuẩn đạo đức của đẳng cấp quý tộc và xã hội đương thời” (15). Chàng vui

lòng từ giã cuộc sống vương giả để ra đi và chàng nói với thứ phi Kakêyi:
“Không có một đạo giáo nào lớn hơn là phụng sự cha mình và thực hiện
mệnh lệnh của cha… Phụng sự cha là bổn phận cao nhất của con
người”(16). Theo quan niệm của người Ấn Độ, người anh hùng lý tưởng bên
cạnh sức mạnh, tài năng và lòng dũng cảm thì phải là con người luôn luôn
thực hiện Dharma. Trong sử thi Ramayana, người anh hùng Rama được
khắc họa nổi bật lên cùng phẩm chất tuyệt đối trung thành với bổn phận,
có sự bao dung độ lượng cao cả và ý thức về danh dự. Mọi hành động của
Rama đều luôn tuân thủ tuyệt đối theo trách nhiệm và bổn phận của
Dharma. Một tình huống thấm đẫm nước mắt là khi Rama buộc tội Xita,
đây là thử thách buộc người anh hùng phải lựa chọn Danh dự hay Tình yêu?
Quyền lợi, trật tự xã hội của cộng đồng hay Hạnh phúc cá nhân? Rama đã
lựa chọn hy sinh người mình yêu thương nhất để lựa chọn hành động theo
bổn phận thuần khiết của một đấng quân vương là xây dựng gia đình chuẩn
mực, có vị hoàng hậu đáng kính nể về tình yêu chung thủy. Vì vậy, Rama
được người Ấn Độ xem như là hiện thân của đạo lý Dharma, “là khuôn vàng
thước ngọc của đẳng cấp Kshatrya”(17).
Nhân vật anh hùng sử thi luôn hiện diện song hành cùng sức mạnh thể chất
và tài năng, phẩm chất đạo đức siêu phàm, là người anh hùng toàn thiện
toàn mỹ và trở thành “khuôn vàng thước ngọc” về vẻ đẹp vật chất và sức
mạnh đạo đức của con người thời đại. Người anh hùng trong Ramayana là
sự khái quát hóa cao độ những khát vọng lý tưởng về sức mạnh, tài năng,
lòng dũng cảm, đức hạnh của toàn thể cộng đồng dân tộc sản sinh ra nó. Vẻ
đẹp ấy là chỗ dựa, niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc nên luôn được
nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca với niềm tôn kính thiêng liêng. Người anh hùng
trong Ramayana trở thành biểu tượng cho tâm hồn, tính cách dân tộc Ấn
Độ yêu chuộng hòa bình, hòa hợp và bình đẳng.
4, Đoạn trích rama buộc tội nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nghệ thuật
miêu tả rama vượt qua ước lệ dân gian. anh chị có tán thành ko? phân tích
nv để làm sáng tỏ?

Trước hết, Rama là nhân vật lí tưởng kiểu mẫu của đạo Hindu vằ đẳng cấp
vương công quí toojcKsatrya, đồng thời cũng thể hiện khát vọng của nhân
dân đương thời là muốn có 1 vị minh quân , 1 vị anh hùng tài ba , đức độ và
dũng cảm để bảo vệ mình cứu mình ra khỏi đau khổ , đem lại công lí và
hạnh phúc xã hội.
Đi suốt chiều dài tác phẩm, chàng Rama đã được các nghệ sĩ dân gian miêu
tả ở mọi góc độ , mọi phương diện. Chàng là hoàng tử thông minh, tài giỏi
nhất trong 4 vị hoàng tử, là người duy nhất được đạo sĩ lựa chọn, chàng
hơn hẳn các em về trí tuệ , nhân cách và lòng quả cảm, do vậy mà chàng
được mọi người yêu mến, dân chúng vui mừng, ủng hộ lên ngôi vua. Chàng
là người biết quí trọng danh dự, thực hiện bổn phận của 1 người con , 1 vị
vua nhân đức. Cha của Rama – đức vua Darasatha trước kia đã từng hứa
với thứ phi Kakeyi sẽ thực hiện 2 lời hứa bất kì của bà ta. Vào trước hôm
Rama lên ngôi vua, Kakeyi đã nhắc lại với nhà vua điều hứa năm xưa và
muốn nhà vua nhường ngôi cho con trai bà ta – Bharata thay vì Rama, và
nhà vua phải ra lệnh cho Rama chịu lưu đày trong rừng 14 năm. Vì không
muốn cha phải trở thành kẻ thất hứa bị mọi người chê cười , muốn bảo vệ
danh dự cho cha , Rama đã thực hiện lời hứa của cha với thứ phi Kakeyi cho
dù chàng hoàn toàn có thể ở lại và dù Bharata cũng từ chối ngôi vua này.
Rama xuất thân là 1 hoàng tử, đang sống trong nhung lụa nhưng đã từ bỏ
cuộc sống cao sang , phú quý nơi cung đình điện ngọc để vào rừng. Lời hứa
của cha là danh dự , danh dự của cha chính là danh dự của mình và của cả
dòng giống , Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha , đó là bổn phận người
làm con – Đây là những tiêu chuẩn đạo đức của đẳng cấp và xã hội Ấn Độ
đương thời.
Rama có sức mạnh phi thường, võ nghệ cao cường, lòng nhân đức cao cả.
Chàng có đôi mắt sáng như mặt trời và mặt trăng , có đôi tai thấu nhạc của
trời đất, là kẻ thù của mọi sự ghen tương , giận hờn và tội ác tàn bạo, đã
vượt qua mọi gian nan thử thách , chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ tình yêu
và hạnh phúc, đem lại công lí , cuộc sống yên vui cho mọi người. Rama có

ngoại hình miêu tả phù hợp với tiêu chí thời đại , 1 hoàng tử tuấn tú và sức
khỏe phi thường , chàng giống như 1 vị thần cõi trần gian. Thực tế ngoại
hình chàng không được miêu tả cụ thể mà chỉ nhắc đến như 1 yếu tố tô
dậm vẻ đẹp của chàng. Sức mạnh của chàng được thể hiện qua các hành
động. Từ nhỏ Rama đã được rèn luyện , được giáo dục 1 cách khuôn phép,
có nguyên tắc. Chàng là người duy nhất nhấc được cây cung thần , cung rất
to và nặng chỉ có thể giương bằng 1 chiếc xe có 8 bánh khổng lồ và chưa 1
ai có thể nâng cung lên để bắn. Vậy mà Rama có thể nhẹ nhàng nâng cung
lên , kéo dây 1 cách dễ dàng . Cũng nhờ vây mag Rama có thể lấy được
nàng Sita – con vua Janaka- xinh đẹp, hiền thục về làm vợ. Sau khi rời bỏ địa
vị để vào rừng Rama đưa vợ (nàng Sita) và người em trai Lakshamana theo,
họ hạnh phúc sống bên nhau trong rừng. Trong khi tu luyện nơi này, chàng
đã lập được rất nhiều chiến công giúp cho nhân loại tránh khỏi tai ương .
Chàng dã tiêu diệt rất nhiều quỷ dữ: Con quỷ Vali, quỷ khổng lồ vô địch,
đánh quỵ trâu thần Dundubbi. Rama diệt trừ quỷ Thataka và đặc biệt là quỷ
vương Râvana . Với tinh thần hiệp nghĩa, Rama đã chiến đấu giành lại ngôi
báu cho Sugriva khi Sugriva bị quỷ Vali cướp vợ và đuổi đi. Đây là hành
động thể hiện ước mơ công lí của người Ấn Độ. Trong bất ức hoàn cảnh
chiến đấu nào, Rama vẫn cứ thể hiện được khí phách hào hùng của 1 chiến
sĩ Ksattrya. Chàng là người có sức mạnh , biết sử dụng chiếc cung thần mà
Brahma cung cấp, chiếc cung thu hồi gió vào đôi cánh, sức nóng mặt trời
vào đầu cung, sức nặng của núi vào thân cung, để xuyên thủng ngực
Ravana, kẻ thù của mình.
Đạo đức của Rama là khuôn vàng thước ngọc của đẳng cấp Ksatrya. Có thể
nói, toàn bộ ý chí , tình cảm , tài năng và sức mạnh chiến thắng của nhân
dân được khái quát thành biểu tượng người anh hùng này. Con người luôn
bênh vực điều thiện, chống lại điều ác cứu người hiền, đặc biệt là phụ nữ.
Ngoài một con người lí tưởng , Rama còn thể hiện con người trần thế của
mình. Điều này thể hiện ở tình cảm, trách nhiệm của Rama với nàng Sita.
Rama là người đại diện cho vẻ đẹp thời đại. Chàng là người chung thủy, yêu

Síta hết mực. Yêu Sita ngay từ cái nhìn đầu tiên khi chàng nhìn thấy, và
chàng đã vượt qua mọi thử thách để lấy được nàng 1 cách đường hoàng.
Chàng đã bẻ gãy cây cung mà đức vua Janaka đã thách đố. Lúc Sít bị Ravana
bắt đi, chàng than khóc vật vã, đau đớn khôn nguôi và còn nói rằng: quốc
gia, ngai vàng sẽ chẳng là gì nếu để mất Sita. Ở Rama luôn tồn tại 2 con
người: con người bổn phận và con người tình yêu. Khi buộc phải lựa chọn,
Rama sẽ chọn lựa con người bổn phận. Chính điều này đã đẩy tình yêu giữa
chàng và Sita vào bi kịch . Khi chiến thắng được quỷ Ravana , Rama đã nghi
ngờ phẩm tiết của Síta, trì hoãn gặp nàng, cảnh gặp gỡ không phải ở trong 1
không gian tâm tình mà là giữa đông đảo nhân dân, quần chúng khiến cho
Sita phải chọn cách tự thiêu để chứng minh. Trong “ Rama buộc tội” , không
khí căng thẳng như 1 phiên tòa mà quan thẩm ohans là Rama còn bị cáo là
Sita. Thái độ của chàng thể hiện thái độ ghen tuông cực độ của chàng. Lòng
ghen đó đã khiến cho 1 vị minh quân vốn sáng suốt mất đi sáng suốt vốn
có. Chàng không chấp nhận 1 người vợ không còn trong trắng . Chàng nhẫn
tâm để vợ mình bước lên giàn hỏa thiêu. CHỉ đến khi ngọn lửa bùng cháy,
thần Agni đã làm chứng cho sự trong sạch của nàng thì Rama mới nhận ra
lòng chung thủy, kiên trinh của Sita. Rama tuy xuất thân từ thánh thần
Visnu giáng thế, là bậc quân vương, vị anh hùng nhưng chàng cũng vẫn có
đủ mọi cung bậc tình cảm của con người trần tục. Chàng yêu yêu say đắm,
hết mình nhưng ghen cũng cực độ, có lúc oai phong lẫm liệt, nhưng cũng có
lúc mềm yếu nhu nhược, có lúc vị tha nhưng cũng có lúc nhỏ nhen, ích kỉ.
Trong đoạn trích sử thi ”Rama buộc tội” Van-mi-ki đã đặt nhân vật Rama
vào tình thế thử thách ngặt nghèo,có sự đấu tranh nội tâm hết sức dữ dội,
đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt,bộc lộ sâu sắc bản chất của con người. Rama
dám vào sinh ra tử,dũng cảm chiến đấu với quỷ dữ để dành lại người vợ
yêu quý của mình nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu, tình cảm cá nhân
của chính bản thân mình đẻ đổi lấy danh dự, bổn phận của một người anh
hùng, một đức vua mẫu mực. Ở đoạn trích này tác giả đã miêu tả xung đột
tâm lí của hai nhân vật Rama và Xita trong cuộc gặp lại đầy thử thách và éo

le.Tâm trạng của hai người cứ biến đổi theo nhịp điệu đối thoại.Khi Rama
xưng hô với Xita một cách khách khí,lạnh lùng, có vẻ xa lạ “ta”,”phu
nhân”thì Xita vô cùng ngạc nhiên, bất ngờ và cảm thấy giữa hai người đã có
khoảng cách.Rama tuyên bố lí do chàng chiến đấu chiến thắng quỷ vương
chỉ vì danh dự, bổn phận,cá nhân của người anh hùng, vị quân tướng trong
tương lai.Và xita càng đau xót hơn khi Rama đối xử nhẫn tâm,lạnh lùng và
những lời nói vô tình, độc địa cùng với lời khuyên tầm thường đối với
mình.Tất cả những gì Rama hành động và nói với Xita chỉ là để chàng thể
hiện cái vị trí của mình trong cộng đồng vì chàng là một vị thần,một vị vua
trong tương lai,một anh hùng trong bộ tộc của mình.Mọi việc đều chỉ muốn
mọi người tôn kính,nâng cao uy tín của mình.Ngay cả khi Xita bước lên dàn
hỏa thêu Rama mặc dù rất đau đớn tuyệt vọng,có sự giằn co về tâm lí -một
bên là danh dự một bên là tình cảm cá nhân thì danh dự đã chiến thắng và
chàng cố kìm nén cảm xúc,nỗi đau đớn cực độ của mình mà ngồi nhìn Xita
bước vào lửa.Qua đó ta có thể biết thêm về nhân vật sử thi Ấn Độ,họ trọng
danh dự của mình hơn là tình cảm cá nhân.Và trong sử thi chiến tranh bắt
buộc xảy ra nhưng không miêu tả chi tiết về chiến tranh mà miêu tả vãcung
đột giữa cái thiện và cái ác,giữa đạo lí và phi đạo lí.Rama là người của cái
thiện và đạo lí.Rama xuất hiện từ thế giới thần linh,mang yếu tố nửa người
đã xuất hiện nhiều trong thần thoại và truyền thuyết cùng với Xita và Ha-
nu-man.Qua nhân vật anh hùng Rama, ta nhận thấy được sử thi Ấn Độ
nặng về danh dự. Đó là sẵn sàng hi sinh tình yêu của chính bản thân để bảo
về danh dự và đạo lí, lẻ phải.
Sử thi anh hùng là những áng văn tự sự (văn xuôi hoạc văn vần) có qui mô
hoành tráng ,miêu tả và ca ngợi những người anh hùng dũng cảm, có phẩm
chất tốt đẹp, tài trí hơn người,lập được nhiều chiến công hiển hách,biết hi
sinh lợi ích cá nhân để bảo vệ cho cộng đồng. Để hiểu rõ thêm về thể loại
sử thi bây giờ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể về vẻ đẹp của nó.
Trong sử thi anh hùng, nhân vật anh hùng đại diện cho toàn thể cộng đồng
về mọi phương diện.Nội dung ấy khiến cho hình tượng người anh hùng sử

thi có ý nghĩa biểu tượng cao hơn.
Nhân vật anh hùng là những nhân vật trung tâm của tác phẩm sử thi.Vẻ
đẹp ấy trước hết toát ra ở ngoại hình.Nhân vật anh hùng sử thi thường có
tầm vóc đẹp, có kích thước lớn lao hơn chính bản thân nó. Đặc điểm ngoại
hình nổi bật nhất của nggười anh hùng sử thi là nó mang vẻ đẹp tạo hình
theo quan điểm thẩm mĩ, theo chuẩn mực riêng của cộng đồng.
Nói đến vẻ đẹp của người anh hùng sử thi phải nói đến vẻ đẹp của phẩm
chất,của tài năng phi thường.Vẻ đẹp đàu tiên cầ phải nhắc đến của người
anh hùng sử thi là lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi thường .Lòng dũng
cảm được coi là pẩm chất đạo đức có tính chất tuyệt đối của người anh
hùng sử thi.Bao giờ người anh hùng cũng là những con người có lòng chiến
đấu dũng cảm và ý chí chiến đấu mãnh liệt nhất.
Một phẩm chất khac cũng không kém phần quan trọng của người anh hùng
sử thi là họ luôn mang một lý tưởng cao cả, một khát vọng lớn lao.Nếu lý
tưởng của người anh hùng sử thi phương Tây là khát vọng chiến công, lập
vinh quang nơi chiến trận thì các anh hùng của sử thi ấn Độ lại mang một lý
tưởng thuần khiết hơn:họ hướng về điều thiện,về lẽ phải,về đạo lý ở đời.
Và nhờ có sức mạnh thể chất phi thường cộnh với sức mạnh tinh thần kì
diệu, người anh hùng sử thi luôn lập được nhiều chiến công hiển
hách.Chiến công của người anh hùng bao giờ cũng mang ý nghĩa lớn
lao,mang quyền lợi, danh dự và hạnh phúc cho bộ tộc cộng đồng.
Tóm lại, nhân vật anh hùng luôn hiện diện với tổng hoà các sức mạnh về vật
chất lẫn tinh thần.Những vẻ đẹp đó lúc đầu thì siêu phàm, kì vĩ, phi thường
nhưng về sau thì bình dị, bình thường và gần gũi. Người anh hùng sử thi
luôn được nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca với niềm tôn kính thiêng liêng.
Chúng ta càng thấy vẻ đẹp của các anh hùng sử thi rõ hơn qua ba sử thi nổi
tiếng của phương Đông và phương Tây:
- Đăm Săn (anh hùng Đăm Săn);
- Ra-ma-ya-na (hoàng tử Ra-ma);
- Ô-đi-xê (chàng Uy-lít-xơ).

Cả ba nhân vật đều có ý nghĩa biểu trưng cho cộng đồng.Ba nhân vật Đăm-
săn,Ra-ma,Uy-lít-xơ,họ là những nhân vật anh hùng của sử thi Việt Nam, Ấn
Độvà Hi Lạp, đều là người đại diện cho cộng đồng,có vẻ đẹp ngoại hình,có
sức mạnh phi thường, tài trí hơn người, lập được nhiều chiến công hiển
hách,biết căm ghét kẻ hung ác,bênh vực người yếu đuốivà biết hi sinh để
bảovệ hạnh phúc cho cộng đồng.
Tuy vậy,vì là con đẻ của cái nôi văn hoá nghệ thuật khác nhau và ba tác
phẩm khác nhau nên ba nhân vật cũng có nét khác biệt.Ra-ma là hoàng tử,
Uy-lít-xơ là anh hùng chiến trận, Đăm-săn là tù trưởng.
Trong sử thi Ấn Độ Ramayana ngợi ca chiến công và đạo dức của hoàng tử
Rama-một nhân vật lý tưởng,kiểu cách của đạo Hinđu,của đẳng cấp vương
công quý tộc đồng thời là khát vọng của nhân dân về một vị minh quân,một
anh hùng tài ba, đức độ, đem lại hạnh phúc cho xã hội và nhân dân. Ở đây
Rama là một chàng hoàng tử phong nhã, hào hoa,tài đức vẹn toàn, dũng
cảm chiến đấu nhưng lại yếu mềm trong đời thường và cả trong tình yêu.
Trong đoạn trích sử thi ”Rama buộc tội” Van-mi-ki đã đặt nhân vật Rama
vào tình thế thử thách ngặt nghèo,có sự đấu tranh nội tâm hết sức dữ dội,
đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt,bộc lộ sâu sắc bản chất của con người. Rama
dám vào sinh ra tử,dũng cảm chiến đấu với quỷ dữ để dành lại người vợ
yêu quý của mình nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu, tình cảm cá nhân
của chính bản thân mình đẻ đổi lấy danh dự, bổn phận của một người anh
hùng, một đức vua mẫu mực. Ở đoạn trích này tác giả đã miêu tả xung đột
tâm lí của hai nhân vật Rama và Xita trong cuộc gặp lại đầy thử thách và éo
le.Tâm trạng của hai người cứ biến đổi theo nhịp điệu đối thoại.Khi Rama
xưng hô với Xita một cách khách khí,lạnh lùng, có vẻ xa lạ “ta”,”phu
nhân”thì Xita vô cùng ngạc nhiên, bất ngờ và cảm thấy giữa hai người đã có
khoảng cách.Rama tuyên bố lí do chàng chiến đấu chiến thắng quỷ vương
chỉ vì danh dự, bổn phận,cá nhân của người anh hùng, vị quân tướng trong
tương lai.Và xita càng đau xót hơn khi Rama đối xử nhẫn tâm,lạnh lùng và
những lời nói vô tình, độc địa cùng với lời khuyên tầm thường đối với

mình.Tất cả những gì Rama hành động và nói với Xita chỉ là để chàng thể
hiện cái vị trí của mình trong cộng đồng vì chàng là một vị thần,một vị vua
trong tương lai,một anh hùng trong bộ tộc của mình.Mọi việc đều chỉ muốn
mọi người tôn kính,nâng cao uy tín của mình.Ngay cả khi Xita bước lên dàn
hỏa thêu Rama mặc dù rất đau đớn tuyệt vọng,có sự giằn co về tâm lí -một
bên là danh dự một bên là tình cảm cá nhân thì danh dự đã chiến thắng và
chàng cố kìm nén cảm xúc,nỗi đau đớn cực độ của mình mà ngồi nhìn Xita
bước vào lửa.Qua đó ta có thể biết thêm về nhân vật sử thi Ấn Độ,họ trọng
danh dự của mình hơn là tình cảm cá nhân.Và trong sử thi chiến tranh bắt
buộc xảy ra nhưng không miêu tả chi tiết về chiến tranh mà miêu tả vãcung
đột giữa cái thiện và cái ác,giữa đạo lí và phi đạo lí.Rama là người của cái
thiện và đạo lí.Rama xuất hiện từ thế giới thần linh,mang yếu tố nửa người
đã xuất hiện nhiều trong thần thoại và truyền thuyết cùng với Xita và Ha-
nu-man.Qua nhân vật anh hùng Rama, ta nhận thấy được sử thi Ấn Độ
nặng về danh dự. Đó là sẵn sàng hi sinh tình yêu của chính bản thân để bảo
về danh dự và đạo lí, lẻ phải.Sử thi Ấn Độ là thế còn sử thi Hi Lạp và Việt
Nam thì sao chúng ta hãy tiếp tục tìm hiểu.
Sử thi Hi Lạp ca ngợi tự do,công lí dân chủ,tình yêu, đạo lí,nhân đạo, đề cao
lí tưởng anh hùng,chiến thắng số phận Trong sử thi Ôđixê ca ngợi trí
tuệ,dũng khí và nghị lực của con người với khát vọng chinh phục thế giới và
mơ ướcvề một cuộc sống hoà bình,yên vui và hạnh phúc. Ca ngợi tình yêu
quê hương,tình vợ chồng,tình cha con,tình bạn bè,thuỷ chung.Sử thi Ôđixê
có cốt truyện hấp dẫn,li kì và hấp dẫn.Ngôn ngữ tráng lệ.
Nhân vật Uylitxơ dũng cảm,gan dạ,chấp nhận thử thách,nhạy bén,sáng
suốt,nhẫn nại,có cách ứng xử tinh tế,có thể coi là anh hùng văn hoá. Đặc
biệt Uylitxơ là một người anh hùng trí tuệ, mưu trí “sánh ngang với thần
linh”.Sau bao năm xa cách quê nhà Uylitxơ trở về,chàng giả dạng người
hành khất nên vợ chàng-Pênêlôp-đã không nhận ra,chàng đã dương cung
bắn xuyên tên qua mười hai cái vòng rìu theo lời yêu cầu của Pênêlốp.Sau
đó chàng giết chết bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. Đó chính là

tính cách của người anh hùng sự hơn người ,dũng cảm, gan dạ,phi
thường .Khi nghe lời nói của Pênêlôp và Têlêmac,Uylitxơ đã mỉm cười vì
hiểu rằng vợ mình muốn thử thách mình. Đó là nụ cười về sự đấu trí,về
người vợ thông minh,và cũng là nụ cười tin tưởng vào thắng lợi của trí tuệ
mình.Bản lĩnh trí tuệ của Uylitxơ,cái bản lĩnh đã giúp chàng vượt qua biêt
bao nhiêu thử thách, đã khiến chàng không hấp tấp vội vàng mà đày mưu
mẹo khi về nhà để đạt mục đích đầu tiên:giết bọn cầu hôn.Nhưng với mục
đích thứ hai: đoàn tụ với người vợ chung thuỷ,bản lĩnh trí tuệ của chàng đã
gặp phải trí thông minh,khôn khéo của người vợ.Nhưng chàng vẫn không từ
bỏ mà càng tỏ ra nhạy bén hơn và ứng xử tinh tế hơn.Cuối cùng bằng trí tuệ
của mình,một sự thật sâu kín của tình cảm của vợ chồng yêu thương đằm
thắm đã bật lên qua lời kể về bí mật chiếc giường của Uylitxơ.Uylitxơ là
hình ảnh lí tưởng về người,về một người chồng,về một người cha dũng
cảm,mưu trí, độ lượng,chung thuỷ. Đồng thời Uylitxơ còn là một biểu
tượng đẹp đẽ của tình yêu quê hương,gia đình,tình vợ chồng chung thuỷ.
Rama một chàng hoàng tử sẵn sàng hi sinh tình yêu của mình để đổi lấy
danh dự.Uylitxơ một người anh hùng đầy trí tuệ,mưu lược,dũng cảm,có
cách ứng xử tinh tế Còn người anh hùng Đăm săn trong sử thi” Đăm
săn”thì sao?Chúng ta tiếp tục tìm hiểu để làm rõ thêm về vẻ đẹp của sử thi
anh hùng .
Sử thi Tây Nguyên (Việt Nam) thường ca ngợi người anh hùng chiến đấu để
bảo vệ cuộc sống yên lành cho buôn làng.Khi chiến thắng,buôn làng của
người anh hùng trở nên giàu có,cường thịnh hơn. Đoạn trích “Chiến thắng
Mtao Mxây” nói về người anh hùng Đăm săn chân thật, đơn giản,có lúc
ngông cuồng, có thể coi là người anh hùng chiến trận.Cuộc đối đầu giữa
Đăm Săn với Mtao Mxay là giữa hai tù trưởng dũng mãnh.Phẩm chất anh
hùng theo cách nhìn sử thi Tây Nguyên là chiến thắng bằng sức mạnh và sự
can đảm.Cuộc đối đầu sinh tử ấy không có chỗ dung thân cho kẻ nào hèn
nhát hơn.Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng,mọi cử
chỉ,ngôn ngữ,hành động của Đăm Săn đều nổi bật ,vượt trội hơn kẻ

thù.Chúng ta cùng chứng kiến cuộc thi tài múa khiên thú vị:Mtao Mxây thể
hiện sự khoác lác khi lời nói của hắn được minh chứng bằng tiếng khiên kêu
lộc cộc lộp cộp như tiếng những quả mướp khô đập vào nhau,còn Đam săn
đã dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa
khiên độc đáo.một bước nhảy của chàng vượt qua mấy đồi tranh,một bước
lùi vượt qua mấy đồi mía,Đăm Săn hùng cường ngay khi còn ở trong lòng
mẹ.,chàng có sức khoẻ ,sức mạnh phi thường và đầy tài năng. Đam săn
chiến thắng Mtao Mxay nhờ sự trợ lực của người vợ Hơ-nhi ném miếng
trầu để sức lực tăng lên gấp bội và sự giúp đỡ của Ông Trời. Đam săn chiến
đấu không hề đơn độc,chính nghĩa luôn thuộc về chàng.Đăm Săn chiến
thắng Mtao Mxây làm cho buôn làng của mình lại thêm giàu mạnh,càng
nâng cao uy tín của mình và tôi tớ, dân làng của tù trưởng thù địch tự
nguyện mang theo của cải đi theo Đăm Săn. Đoạn trích đã đem lại cho ta
những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đăm Săn trong chiến công bảo
vệ buôn làng, đem lại bình yên cho thị tộc.Sử thi Đăm săn quả thật đã hình
thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền giữa các dân tộc Ê-đê,thành
di sản quý báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử
thi rực rỡ với vẻ đẹp”một đi không trở lại”.
Cả ba đoạn trích sử thi đều kể lại về chuyện tái hợp, đoàn tụ gia đình giữa
người anh hùng và người vợ của mình.Và để có sự đoàn tụ,kết cục tốt
đẹp,các nhân vật đều phải trải qua những thử thách:thử thách về chiến
trận,thử thách về tâm lí,hoặc thử thách cả về chiến trận lẫn tâm lí.Từ chính
điểm này,ta cũng thấy được điểm khác biệt thú vị của mỗi nền văn
hoá.Trong Đam săn và Ramayana(hai sử thi đều của các nền văn học,văn
hoá phương Đông),việc đoàn tụ gia đình được thể hiện và đề cao ở khía
cạnh cộng đồng,danh dự,tài năng của người lãnh đạo với tư cách là người
đại diện cho cộng đồng(không gian diễn ra cuộc đoàn tụ là không gian cộng
đồng,có sự chứng kiến của”nhân vật quần chúng”,người anh hùng hành
động,nói năng chịu sự chi phối của vị trí,nghĩa vụ của người lãnh đạo cộng
đồng.Còn Ôđixê thì khác.Việc đoàn tụ được thể hiện ở khía cạnh cá nhân,

đề cao hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình(không gian đoàn tụ là không
gian cá nhân;cách thức thử thách để đoàn tụ không phải chỉ có chiến đấu
thể hiện sức mạnh hay hành động theo nghĩa vụ của đấng quân vương mà
là thử thách mang tính cá nhân,những kỉ niệm,kỉ vật-chiếc giường,tình cảm
vợ chồng gắn bó là tiêu chí để thử thách người anh hùng.)
Từ đó ta có thể nhận thấy rằng văn hoá phương Đông đề cao con người
cộng đồng còn văn hoá phương Tây đề cao con người cá nhân.
Những vẻ đẹp của các anh hùng sử thi luôn được làm nổi bật và đậm nét là
nhờ vào ngôn ngữ miêu tả của sử thi chỉ có sử thi mới đem lại những vẻ
đẹp độc đáo ấy của các anh hùng.Không chỉ có ngôn ngữ mà nhờ vào lời kể
chuỵện hấp đẫn,ngôn từ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn sâu
sắc,chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi của sử thi cùng
với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các biện pháp nghệ thuật:so sánh, phóng
đại
Tất cả nội dung và nghệ thuật có sự kết hợp với nhau tạo nên cho sử thi
một vẻ đẹp tuyệt vời.
5, Bộ 5 nhân vật anh hùng pandava trong sử thi có ý nghĩa gì?Bạn thích
nhân vật nào nhất? gthích?

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×