Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.87 KB, 24 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang phát triển với tốc độ rất nhanh
chóng. Năm 2003 tốc độ tăng trởng GDP là 7,24%, đứng thứ hai trong khu vực
chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên tỷ lệ tăng trởng cao cũng có thể đa đến một số
hậu quả không mong muốn, trong đó có lạm phát. Lạm phát ảnh hởng toàn bộ
đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Lạm
phát phá vỡ các kế hoạch của nền kinh tế, làm giảm sức mua từ đó làm giảm
mức sống của nhân dân, làm tăng tình trạng phân phối thu nhập bất công bằng
trong xã hội, và do đó làm cho ngời dân mất lòng tin đối với chính phủ. Vì
vậy, việc chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là
một mục tiêu rất quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô.
Muốn kiềm chế đợc lạm phát ở mức độ mong muốn, trớc hết phải hiểu rõ
bản chất và các nguyên nhân của nó. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: Lạm
phát và các nguyên nhân gây ra lạm phát với mong muốn thông qua đề án
này có thể hiểu biết sâu sắc hơn về lạm phát nói riêng và các vấn đề trong nền
kinh tế nói chung.
Do lợng kiến thức còn hạn chế cũng nh thời gian viết có hạn nên đề án
này còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự chỉ bảo thêm của thầy để
em có thể hoàn thiện hơn những hiểu biết của mình.

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nội dung
I. Lạm phát trong nền kinh tế.
I.1. Khái niệm về lạm phát.
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trờng, là căn bệnh
nảy sinh khi yêu cầu của quy luật lu thông tiền tệ không đợc tôn trọng. ở đâu
còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn
ẩn náu khả năng lạm phát.


Lạm phát đã đợc đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của
các nhà kinh tế học. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế học đã đa
ra các khái niệm khác nhau về lạm phát.
Theo Các Mác trong bộ T bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các
luồng lu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng
lạm phát là bạn đờng của Chủ nghĩa T bản, ngoài việc bóc lột ngời lao động
bằng giá trị thặng d, Chủ nghĩa T bản còn gây ra lạm phát để bóc lột ngời lao
động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lơng thực tế của ngời lao động giảm
xuống.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng
lên trong mức giá cả chung. Theo ông: lạm phát xảy ra khi mức chung của giá
cả và chi phí tăng giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô tăng; tiền lơng, giá đất,
tiền thuê t liệu sản xuất tăng.
Còn Milton Friedman thì quan niệm: Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh
và kéo dài. Ông cho rằng: Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện t-
ợng tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lợng tiền
trong lu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

ở Việt Nam, ông Bùi Huy Khoát chia sẻ quan điểm của luận thuyết Lạm
phát cầu kéo và cho rằng lạm phát nảy sinh do sự mất cân đối giữa cung và
cầu, khi cầu có khả năng thanh toán tăng vợt quá khả năng cung của nền kinh
tế làm giá của hàng hoá tăng lên...Xét đến cùng thì lạm phát là sự tăng lên tự
động của giá cả để lấy lại thế cân bằng đã bị phá vỡ giữa cung và cầu biểu hiện
ra ở hàng và tiền.
Còn ông Nguyễn Văn Kỷ lại thiên về luận thuyết lạm phát lu thông tiền
tệ khi khẳng định lạm phát là hiện tợng tiền quá thừa trong lu thông so với l-
ợng hàng quá ít ỏi.
Ông Vũ Ngọc Nhung thì chỉ ra đặc trng của lạm phát là hiện tợng giá cả
tăng lên phổ biến do tiền giấy mất giá so với vàng và so với mọi giá cả hàng

hoá trừ hàng hoá sức lao động.
Quan điểm cá nhân em ủng hộ định nghĩa của M. Friedman, tức là lạm
phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tợng tiền tệ.
I.2. Chỉ tiêu đo lờng lạm phát.
Lạm phát đợc đo bằng chỉ số giá cả.
* Chỉ số giá cả đợc sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CPI ( Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và
dịch vụ trên thị trờng, các nhóm chính đó là hàng lơng thực, thực phẩm, quần
áo, nhà cửa, chất đốt, vật t y tế.
Để tính CPI, ngời ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng
trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
* Chỉ số thứ hai cũng thờng đợc sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất PPI
( Producer Price Index). Đây là chỉ số giá bán buôn. PPI đợc xây dựng để tính
giá cả trong lần bán đầu tiên do ngời sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì
nó đợc tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

* Ngoài hai chỉ số nói trên, chỉ số giảm phát GNP cũng đợc sử dụng. Chỉ
số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó đợc xác định nh sau:
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa / GDP thực tế
Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng
hoá và dịch vụ trong GNP.
I.3. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
* Xét về mặt định lợng, lạm phát đợc chia thành:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát d-
ới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tơng đối nhỏ.
Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thờng, đời sống của ngời lao
động ổn định. Sự ổn định đó đợc biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền
gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số l-

ợng lớn...
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho những ngời lao động
chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có
khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu t cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tơng đối nhanh
với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả
chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng đợc
chỉ số hoá. Lúc này ngời dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và
không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thờng. Loại lạm phát này khi
đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vợt
xa lạm phát phi mã. Nó nh một căn bệnh chết ngời: tốc độ lu thông tiền tệ tăng
kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lơng thực tế bị giảm mạnh,
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đồng tiền mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị
trờng biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy
nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.
* Xét về mặt định tính, lạm phát đợc chia thành:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: lạm phát đợc gọi là cân bằng khi nó tăng tơng ứng
với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hởng đến đời sống của ngời lao động.
Lạm phát không cân bằng: là lạm phát có tỷ lệ tăng không tơng ứng với
thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng là loại lạm phát thờng hay
xảy ra nhất.
-Lạm phát dự đoán trớc và lạm phát bất thờng
Lạm phát dự đoán trớc: là lạm phát xảy ra trong một thời gian tơng đối
dài, với tỷ lệ hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, ngời ta có thể dự đoán
trớc đợc tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, ngời dân đã
quen với tình hình lạm phát đó và ngời ta đã có những chuẩn bị để thích nghi

với tình trạng lạm phát này.
Lạm phát bất thờng: là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trớc đó cha hề
xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi ngời đều cha
thích nghi đợc. Lạm phát bất thờng gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự
thiếu tin tởng của ngời dân vào chính quyền đơng đại.
- Lạm phát cao và lạm phát thấp:
Không thể đánh giá theo cách chủ quan của mình rằng đây là lạm phát
cao (high inflation), kia là lạm phát thấp (low inflation) nếu không hiểu rõ tiêu
chuẩn hoặc mốc để đánh giá. Bởi vì lạm phát cao hay thấp không đơn thuần
chỉ dựa vào tỷ lệ % năm của nó.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Theo Gary Smith và John Kenneth Galbraith, lạm phát đợc gọi là cao khi
tỷ lệ tăng bình quân năm của giá cả lớn hơn mức tăng của thu nhập trong cùng
thời gian. Ngợc lại, lạm phát đợc gọi là thấp khi tỷ lệ tăng của nó từ nhỏ đến
rất nhỏ so với mức tăng của thu nhập trong cùng thời gian. Điều này nghĩa là,
nếu nền kinh tế tuy có lạm phát nhng tỷ lệ này là nhỏ đến rất nhỏ so với mức
tăng của thu nhập thì lạm phát vẫn đợc coi là thấp, đời sống nhân dân vẫn tốt
hơn, sung sớng hơn.
I.4. Tác động của lạm phát.
Từ thực tế diễn biến của lạm phát ở các nớc trên thế giới, có thể thấy rằng
nó tác động tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, tác động của
lạm phát cũng có hai chiều hớng đó là tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát ở mức
cao và không đợc dự đoán trớc, nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực. Ngợc lại
nếu lạm phát vừa phải và kiểm soát đợc thì nó thậm chí còn là một tín hiệu tốt
cho nền kinh tế.
I.4.1. Những tác động tiêu cực của lạm phát.
* Lạm phát và lãi suất.
Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế là làm thay đổi lãi
suất. Và vì lãi suất ngày nay tác động nhiều mặt đến thu nhập, tiêu dùng và

đầu t, cho nên thông qua lãi suất, lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của
đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô.
Để duy trì và ổn định hoạt động, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng
duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có, tức là giữ cho lãi suất thực
ổn định. Mặt khác, lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa tỷ lệ lạm phát. Do
đó trong điều kiện lạm phát cao, muốn cho lãi suất thực không đổi, lãi suất
danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát này. Việc các ngân hàng và hệ
thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế
phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

* Lạm phát và thu nhập thực tế.
Trong trờng hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm
giảm thu nhập thực tế của ngời lao động. Với 600.000 đồng tiền lơng một
tháng hiện nay, một công nhân sẽ mua đợc 2 tạ gạo (với giá gạo là 3000đ/kg).
Vào năm sau, nếu tiền lơng của công nhân này không thay đổi, nhng tỷ lệ lạm
phát trong nền kinh tế tăng thêm 50% so với năm trớc, tức là giá gạo lúc này là
4500đ/kg, thì với số tiền lơng nhận đợc trong một tháng, ngời công nhân này
chỉ có thể mua đợc 133,33kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi
(tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm
giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do
chính sách thuế của Nhà nớc đợc tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi
lạm phát tăng cao, những ngời đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ
lạm phát, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà ngời có tiền cho vay phải
nộp tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập
ròng (thu nhập sau thuế) thực tế (sau khi đã trừ đi tác động của lạm phát) mà
ngời cho vay nhận đợc bị giảm đi.
Bởi vì mức thuế đợc ấn định cho cả năm hoặc nhiều năm nên trong thời
gian ngắn, nó rất khó điều chỉnh. Trong khi đó, lạm phát có thể xảy ra bất cứ

lúc nào. Vì vậy, vô hình chung, lạm phát xảy ra càng chất thêm gánh nặng
thuế thu nhập và các loại thuế khác. Kết quả là lạm phát càng cao, thu nhập
thực tế của nhân dân càng giảm, đời sống của họ càng khó khăn hơn. Ngay cả
khi lãi suất và tiền lơng đợc điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát thì tình trạng này
vẫn cha chấm dứt.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

* Lạm phát và phân phối thu nhập bất bình đẳng.
Trong quan hệ kinh tế giữa ngời cho vay và ngời đi vay, khi lạm phát tăng
cao, ngời cho vay sẽ chịu thiệt và ngời đi vay sẽ đợc lợi. Điều này đã tạo nên
sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa họ. Thông thờng đối tợng đi vay
là các nhà kinh doanh. Thành phần cho vay cuối cùng là nhân dân với các
khoản tiền tiết kiệm nhỏ bé của mình. Lạm phát làm cho các nhà kinh doanh
có đợc phần thu nhập tăng thêm do thiệt hại của các thành phần nhân dân
nghèo. Trong khi đó, đời sống nhân dân lao động đã khó lại càng thêm khốn
khó.
Hơn thế nữa, lạm phát còn thúc đẩy những ngời kinh doanh tăng cờng
thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi, do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay
trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Về phía những ngời thừa tiền, lạm phát bất thờng sẽ kéo họ vào thị trờng
đầu cơ tài sản và hàng hoá. Trong khi dân nghèo không có đủ tiền để mua sắm
hàng tiêu dùng cho một tháng, thì những ngời này có thể mua hàng núi hàng
hoá để tích trữ, chờ giá lên tung ra bán. Chính sự đầu cơ ấy càng làm cho cung
hàng hoá khan hiếm, và giá cả càng lên cơn sốt. Cuối cùng là nhân dân lao
động không mua nổi ngay cả hàng tiêu dùng cần thiết để sống, trong khi
những kẻ đầu cơ bán ra hàng hoá với giá cao và càng trở nên giàu có hơn.
Nh vậy, lạm phát có thể dẫn đến rối loạn kinh tế và làm cho hố sâu ngăn
cách thu nhập giữa ngời giàu và ngời nghèo càng thêm lớn hơn.
* Lạm phát và nợ quốc gia.
Nếu ở phần trớc, chúng ta thấy rằng lạm phát làm cho chính phủ đợc

nhiều hơn từ thuế thu nhập đánh vào nhân dân, chính phần thu nhập thực tế mà
nhân dân mất đi đã chạy vào ngân sách của chính phủ, thì ngợc lại, trong quan
hệ kinh tế đối ngoại, những khoản nợ quốc gia của chính phủ đối với các nớc
sẽ trở nên trầm trọng hơn trớc trong điều kiện có lạm phát. Chính phủ đợc lợi
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trong nớc nhng bị thiệt đối với nợ nớc ngoài. Bởi vì : tỷ lệ tăng, giảm tỷ giá
VNĐ/ ngoại tệ = tỷ lệ lạm phát của VNĐ - tỷ lệ lạm phát của ngoại tệ.
Trong khi đợc lợi từ các khoản thuế thu trong nớc do lạm phát, chính phủ
sẽ phải chịu các khoản nợ nặng nề hơn đối với nớc ngoài cũng do lạm phát.
Nguyên nhân là vì lạm phát làm e tăng và đồng tiền trong nớc trở nên mất giá
nhanh hơn so với ngoại tệ tính trên các khoản nợ.
I.4.2. Những tác động tích cực của lạm phát.
Lạm phát không phải bao giờ cũng gây ra những tác động tiêu cực nh trên
mà nó còn có một số mặt tích cực sau:
- Lạm phát tựa nh dầu mỡ giúp bôi trơn nền kinh tế. Trong điều kiện nào
đó có thể thông qua lạm phát từ 2%-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi
suất thực âm có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ đầu t, do đó giảm bớt
thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trởng kinh tế.
- Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích
đầu t vào những lĩnh vực kém u tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm
phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo định hớng mục
tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
Nh vậy ta có thể nói rằng bên cạnh những tác hại của lạm phát thì nó vẫn
có một số mặt tích cực nhất định. Nếu nh một quốc gia có thể duy trì lạm phát
ở mức vừa phải và kiềm chế, điều tiết đợc mức lạm phát đó sao cho có lợi cho
sự phát triển kinh tế thì lạm phát ở đây không còn là một căn bệnh nguy hiểm
nữa mà đã trở thành một công cụ điều tiết kinh tế.
II. Những nguyên nhân gây ra lạm phát.
II.1. Cung ứng tiền tệ và lạm phát.

II.1.1. Quan điểm của phái tiền tệ.
Chúng ta sẽ xem xét quan điểm của phái tiền tệ thông qua hình vẽ sau:

×