Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.64 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
BỘ MÔN TÀI NGUYÊN ĐẤT ĐAI
----------





----------

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

Ths. PHẠM THANH VŨ ĐẶNG VĂN BÉ TÁM
MSSV: 4095143
LỚP: Quản Lý Đất Đai
Cần Thơ - 2011

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của nền kinh tế tri thức cùng với thời kì hội nhập mở cửa có sự giao lưu
trao đổi về trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ và một trong những chủ trương quan trọng
của Đảng ta là ra sức phát triển đô thị cùng với việc công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, giải quyết việc
làm, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để các đô thị làm hạt nhân thúc đẩy
công nghiệp hóa hiện đại hóa trong vùng và trên cả nước.
Quá trình phát triển đô thị ở nước ta bước đầu đem lại những thành quả, chẳng những
làm cho bộ mặt và cuộc sống đô thay đổi khá hơn trước mà còn tác động tích cực đến sự đổi


mới bộ mặt và cuộc sống nông thôn. Sự phát triển của đô thị tác động đến nông thôn, làm cho
cuộc sống của người dân khá giả hơn, nông nghiệp phát triển hơn. Ngược lại sự phát triển của
nông thôn và nông nghiệp lại tạo tiền đề cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực đó quá trình phát triển đô thị cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết
như vấn đề về dân số, giao thông và vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị…
Hiện nay các khu đô thị đang là điểm dừng chân của nhiều công ty, xí nghiệp và là nơi
dân số tập trung rất đông. Vì vậy nó đã tác động đến môi trường đô thị làm cho tình trạng ô
nhiễm môi trường của các khu đô thị rất nghiêm trọng. Và sự thay đổi của môi trường nó có
làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân hay không và có ảnh hưởng đến sự
phát triển đô thị như thế nào? Cách giải quyết vấn đề này ra sao? Để góp phần trả lời những
câu hỏi trên nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài đề tài: “ Những nguyên nhân gây ra ô
nhiễm môi trường trong quá trình phát triển đô thị ”.
2. NỘI DUNG
Các nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm môi trường đô thị:
2.1. Xe máy nguồn gây ô nhiễm chính ở đô thị
Giao thông là một trong những nguồn gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng ở các đô thị
hiện nay. Đặc biệt ô nhiễm do các phương tiện tham gia giao thông gây ra tác động trực tiếp
lên người đi đường, mang đến những hậu quả không nhỏ cho sức khỏe.
Trong khi đó, với mật độ phương tiện giao thông lớn nhưng chất lượng các loại phương tiện
kém, cộng với hệ thống đường giao thông chưa tốt làm thải lượng ô nhiễm không khí từ giao
thông đang có xu hướng gia tăng.
Giao thông TPHCM (Ảnh: Lê Hồng Thái /SGTT)
Ở TP Hồ Chí Minh nói riêng và các đô thị lớn nói chung đều tập trung rất nhiều
phương tiện lưu thông cá nhân mà mô tô, xe gắn máy là chủ lực. Theo số liệu thống kê từ Sở
GTVT, toàn TP hiện có khoảng 4,5 triệu xe gắn máy và hơn 400 ngàn xe ô tô. Bên cạnh đó là
hàng vạn xe từ các tỉnh lưu thông vào TP hằng ngày. Số lượng xe gắn máy sẽ còn tiếp tục tăng
lên để đáp ứng nhu cầu đi lại, nhưng đường sá thì không phát triển theo kịp nên xảy ra ùn tắc
triền miên càng làm gia tăng ô nhiễm.
Mặt khác, hiện có số lượng xe cũ, xe đã sử dụng nhiều năm không đạt tiêu chuẩn môi
trường chiếm tỷ lệ lớn. Ông Chu Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Môi trường (Bộ GTVT) cho biết,

ước tính có khoảng 50-60% mô tô, xe gắn máy không đạt tiêu chuẩn khí thải, là nguồn gây ô
nhiễm không khí chính ở các đô thị lớn. Theo Vụ Môi trường, kết quả phân tích ở nhiều báo
cáo đánh giá tác động môi trường cho thấy, hiện hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đều bị ô
nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm trầm trọng, ở mức báo động.
Tại các TP lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ… bụi trong
không khí trung bình gấp từ 200 tới 300% lần tiêu chuẩn cho phép. Thống kê của Bộ GTVT
năm 2010 cũng cho thấy, ô nhiễm không khí ở đô thị do các hoạt động giao thông vận tải
chiếm tỷ lệ khoảng 70%.
Vụ trưởng Vụ Môi trường nhận định, suy thoái chất lượng môi trường không khí là nguy
cơ dễ nhận thấy trong thời gian ngắn sắp tới, đặc biệt là ở các đô thị, dọc các tuyến giao thông
quan trọng và trong các cảng biển lớn.
Tỷ lệ phương tiện giao thông cá nhân quá cao khiến thực trạng giao thông ở các đô thị ngày
càng xấu, biểu hiện qua sự gia tăng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và tai nạn.
“Sự phát triển của GTVT dẫn đến ô nhiễm không khí, tiếng ồn, gia tăng lượng nhiên liệu cũng
như diện tích đất sử dụng… Điều này đặt ra sự cần thiết phải có những điều chỉnh tạo ra định
hướng mới cho ngành GTVT để đạt sự phát triển bền vững”, ông Hùng nói.
Trên 750 tỷ đồng kiểm soát ô nhiễm
Một đề án kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động GTVT vừa được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt với tổng kinh phí chỉ trong giai đoạn 2011-2015 đã lên đến 752 tỷ đồng.
Theo ông Hùng, chiến lược kiểm soát ô nhiễm trong giao thông vừa được duyệt xác định nêu
rõ mục tiêu kiểm soát, hạn chế gia tăng ô nhiễm, thực hiện hoàn nguyên môi trường trong hoạt
động giao thông và hướng tới xây dựng hệ thống giao thông vận tải thân thiện môi trường.
Chiến lược xác định phải thực hiện nghiêm túc về lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải các
loại phương tiện giao thông nhằm hạn chế ô nhiễm không khí; đầu tư trang thiết bị thu gom,
xử lý chất thải từ hoạt động giao thông vận tải gây ra.
Cụ thể đến năm 2015 ít nhất có 25% số toa xe khách đường sắt đóng mới, 80% bến xe khách
loại 1 có thiết bị thu gom, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt; 30% cảng biển quốc tế có
phương tiện thu gom, xử lý rác thải, dầu thải từ tàu biển…
Trước mắt sẽ áp dụng một loạt các giải pháp về kỹ thuật, khoa học công nghệ để giảm
thiểu ô nhiễm như nghiên cứu, xây dựng lộ trình nâng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô lên

các mức Euro 3, 4, 5; kiểm tra khí thải lần đầu, định kỳ đối với các loại mô tô, xe gắn máy…
Rõ ràng, đề án đặt ra nhiều nhiệm vụ nhưng đòi hỏi một nguồn kinh phí khá lớn.
Vấn đề nan giải là tìm kiếm nguồn vốn từ các nguồn ngân sách, nguồn tài trợ quốc tế, nguồn
xã hội hóa và áp dụng triệt để nguyên tắc, cơ sở, cá nhân gây ô nhiễm phải chịu chi phí kiểm
soát, bảo vệ môi trường để bảo đảm giảm tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường từ hoạt động
giao thông vận tải gây ra.
2.2. Ô nhiễm do chất thải bệnh viện
Tin từ Tổng cục Môi trường cho biết, hiện nay, mới có khoảng 40% chất thải tại các
bệnh viện, tập trung tại tuyến bệnh viện Trung ương được xử lý. Thực tế qua kiểm tra 200 lò
đốt trên cả nước chỉ có 80 lò đốt hai buồng đạt tiêu chuẩn môi trường, với công suất từ 300 –
450 kg/ngày. Trong khi đó, tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ các cơ sở y tế của năm 2010
đạt hơn 500 tấn/ngày, chất thải rắn y tế nguy hại phải xử lý khoảng 60 – 70 tấn/ngày.
Khảo sát những lò đốt công suất nhỏ và trung bình, phục vụ xử lý chất thải tại chỗ hoặc cho
cụm bệnh viện, cho thấy có nhiều lò đốt không được sử dụng hoặc vận hành không hết công
suất, nhiều lò đốt không có hệ thống xử lý khí thải, nên không thể kiểm soát được các khí độc
hại như dioxin, furan.
Thậm chí phần lớn bệnh viện huyện và một phần bệnh viện tỉnh vẫn còn dùng biện pháp
chôn lấp chất thải nguy hại trong khuôn viên hoặc chôn lấp tại bãi chất thải chung của địa
phương.
Nhìn rộng ra toàn tuyến y tế cấp tỉnh, có tới trên 61% cơ sở y tế vẫn thuê xử lý chất thải và
6,4% sử dụng lò đốt 1 buồng và 9% cơ sở tự đốt hoặc chôn lấp.
Trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại, chỉ có 53% số bệnh viện sử dụng xe có nắp
đậy… là những kẽ hở phát tán ô nhiễm, lây lan mầm bệnh.
Một lò xử lý chất thải y tế "lộ thiên". (Ảnh : Internet)

Theo các chuyên gia của ngành y tế, hiện nay trên thế giới đang loại bỏ công nghệ đốt
chất thải rắn y tế, bởi khó kiểm soát khí thải độc hại phát sinh.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, là do còn thiếu nguồn kinh phí
đầu tư xây dựng và vận hành hệ thống xử lý chất thải nguy hại.
Bên cạnh đó còn có tình trạng phân loại chất thải rắn y tế chưa đúng qui định. Các phương tiện

thu gom như túi, thùng đựng chất thải còn thiếu và chưa đồng bộ, phần lớn chưa đạt chuẩn.
Gần đây, Bộ Y tế cũng đã cho triển khai thử nghiệm công nghệ vi sóng kết hợp nước bão
hòa. Hai lò đốt đầu tiên đã được xây dựng tại Bệnh viện Phổi Trung ương và Bệnh viện Nhiệt
đới Trung ương. Tuy nhiên, lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh chỉ đạt khoảng 30
kg/ngày.
2.3. Ô nhiễm do các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp
Nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là kéo theo đô thị
hoá. Theo kinh nghiêm của nhiều nước, tình hình ô nhiễm môi trường cũng gia tăng nhanh
chóng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong vòng 10 năm tới tăng bình quân khoảng 7%/năm,
trong đó GDP công nghiệp khoảng 8-9%/năm, mức đô thị hoá từ 23% năm lên 33% năm 2000,
thì đến năm 2010 lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên gấp 2,4 lần so với bây giờ,
lượng ô nhiễm do nông nghiệp và sinh hoạt cũng có thể gấp đôi mức hiện nay.
Theo kết quả tính toán, hoạt động của các khu công nghiệp này cùng với 195 cơ sở
trọng điểm bên ngoài khu công nghiệp, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng
Nai tổng cộng 1.740.000 m3 nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng,
1.130 tấn BOD5 (làm giảm nhu cầu ôxy sinh hoá), 1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy hoá
học), 104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô nhiễm cho môi
trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân
cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá
trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông.
Ô nhiễm không khí do động của sản xuất công nghiệp: Tại Hà Nội, vào nhưng năm
1996-1997 ô nhiễm trầm trọng đã xảy ra ở xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp
Thượng Đình với đường kính khu vực ô nhiễm khoảng 1700 mét và nồng độ bụi lớn hơn tiêu
chuẩn cho phép khoảng 2-4 lần; xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Minh Khai –
Mai Động, khu vực ô nhiễm có đường kính khoảng 2500 mét và nồng độ bụi cũng cao hơn
tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại khu công nghiệp Thượng Đình, kết quả đo đạc các năm
1997-1998 cho thấy nồng độ SO2 trong không khí vượt tiêu chuẩn cho phép 2-4 lần.
Tại thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đến năm 2010, nếu tất cả
74 khu công nghiệp đều sử dụng hết diện tích, thì các xí nghiệp sẽ thải ra một lượng chất thải
rắn lên tới khoảng 3500 tấn/ngày tức là gấp 29 lần so với hiện nay, trong đó có khoảng 700 tấn

chất thải độc hại...
Trước những điểm nóng về ô nhiễm môi trường như trên, nhiều giải pháp tương đối
đồng bộ và cụ thể đã được kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường cả trong hiện
tại và trong dự báo về chính sách, chiến lược, quy hoạch đến các giải pháp về công nghệ, nhân
lực, giải pháp xã hội, các cộng cụ kinh tế và các biện pháp quan trắc theo dõi, kèm theo một số
dự án hoặc nghiên cúu sâu đối với các trường hợp cụ thể.
Tại Hà Nội, đang thực hiện gói thầu CP7A nhằm cải thiện hệ thống thoát nước ở Hà Nội trên
hệ thống sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, tức lần thực hiện các biện pháp xử lý nước thải hữu
hiệu như đã đề ra trong quy hoạch tổng thể thoát nước của Hà Nội thì đến năm 2010 hầu hết
các con sông ở Hà Nội có chỉ tiêu BOD dưới 25 mg/lít; còn nếu không có biện pháp cải thiện
môi trường rõ rệt thì chỉ số BOD sẽ tăng gấp đôi so với thời kỳ 1992-1994 và khoảng 1,8 lần
so với thời kỳ 1997-1998, trong đó sông Lừ sẽ bị ô nhiễm nặng nhất với chỉ số BOD là 130
mg/l, khá nhất là sông Sét thì cũng là 54 mg/l; trong đó tiêu chuẩn cho phép đối với nước loại
A không quá 4 mg/l, với nước loại B không quá 25 mg/l.
Hà Nội cũng đang tiến hành dự án cải tạo môi trường đối với khu công nghiệp Minh
Khai – Vĩnh Tuy, di dời các nhà máy ra khỏi vùng đô thị đông dân, áp dụng nguyên tắc
“Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Trường hợp tính lệ phí nước thải của một xí nghiệp công
nghiệp”. Thành phố Hồ Chí Minh lập dự án xây dựng các nhà máy xử lý chất thải công
nghiệp...Các giải pháp sẽ chỉ có tác dụng giảm bớt ô nhiễm môi trường nếu mọi người cùng
coi trọng và bảo vệ môi trường bằng y thức và hành động cụ thể của mỗi người.
2.4. Các chất ô nhiễm khác trong nước thải
- pH của nước thải:
pH của nước thải có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình xử lý. Các công trình xử lý
nước thải áp dụng các quá trình sinh học làm việc tốt khi pH nằm trong giới hạn từ 7 ¸ 7,6.
Như chúng ta đã biết môi trường thuận lợi nhất để vi khuẩn phát triển là môi trường có pH từ 7
¸ 8. Các nhóm vi khuẩn khác nhau có giới hạn pH hoạt động khác nhau. Ví dụ vi khuẩn nitrit
phát triển thuận lợi nhất với pH từ 4,8 ¸ 8,8, còn vi khuẩn nitrat với pH từ 6,5 ¸ 9,3. Vi khuẩn

×