A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trong hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều đảng
phái chính trị cùng tồn tại và hoạt động. Mỗi đảng phái đóng vai trò nhất định trong
đời sống xã hội và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, song thực tiễn
cho thấy đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động luôn giữ vai trò lãnh
đạo. Đảng của giai cấp công nhân luôn là đội tiên phong, là đại biểu trung thành với
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ở Việt Nam,
Đảng cộng sản- đội tiên phong của giai cấp công nhân cũng là lực lượng đóng vai
trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta. Tuy nhiên, vị trí to lớn đó được
thể hiện như thế nào, phương thức lãnh đạo của Đảng có những điểm tích cực gì,
còn tồn tại những hạn chế gì, phương hướng khắc phục ra sao…chính là những vấn
đề đang cần được quan tâm.
B. NỘI DUNG.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Khái niệm.
a. Đảng (đảng phái chính trị, chính đảng)
Đảng (đảng phái chính trị, chính đảng) là một tổ chức chính trị tự nguyện
với mục tiêu được một quyền lực chính trị nhất định trong chính quyền, thường là
bằng cách tham gia các chiến dịch bầu cử. Các đảng thường có một hệ tư tưởng hay
một đường lối nhất định, nhưng cũng có thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi
ích riêng rẽ. Các đảng thường có mục tiêu thực hiện một nhiệm vụ, lý tưởng của một
tầng lớp, giai cấp, quốc gia để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hay quốc gia
đó.
b.Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
- Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị,
chính trị-xã hội được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh
đạo thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện
triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị (HTCT) của nước ta gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Ngoài ra, trong hệ thống chính trị của nước ta còn có các tổ
chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ
sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân.
- Đặc trưng của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:
Một là ,các tổ chức trong HTCT ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Hai là ,HTCT ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng là một tổ chức trong HTCT nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ chức trong
HTCT. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở nước ta thực hiện.
Bốn là ,hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
2. Nền tảng chính trị-tư tưởng về vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội không phải là một thực tế lịch sử ngẫu nhiên
mà là một thực tế lịch sử có tính quy luật. Bởi vì:
Thứ nhất, ĐCSVN là lực lượng xã hội tiên tiến nhất được vũ trang bằng
những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, ĐCSVN có thể vạch ra
chiến lược, chính sách phát triển xã hội phù hợp với quy luật, có sức thuyết phục,
động viên lớn đồng thời có khả năng biến các chiến lược, các chủ trương, chính sách
của mình thành hiện thực.
Thứ hai, bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường của mình, ĐCSVN chiếm
được lòng tin của đại đa số quần chúng nhân dân. Chính lòng tin này đã làm cho vai
trò lãnh đạo của Đảng không mang dấu ấn của sự áp đặt đối với quần chúng.
Thứ ba, là một chính đảng kiên trì đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng, chống
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ, thực dân mới, ĐCSVN đã tạo được uy tín
quốc tế lớn cũng như tình đoàn kết và sự giúp đỡ từ phía phong trào cộng sản vvà
công nhân quốc tế. Điều này cũng có tác dụng lớn đối với việc khẳng định vai trò
lãnh đạo của ĐCSVN đối với hệ thống chính trị trong nước.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1. Cơ sở pháp lý về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trải qua quá trình đấu tranh đầy khó khăn trong lịch sử dân tộc, ĐCSVN không
ngừng lớn mạnh, đồng thời, cơ sở pháp lý về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong
hệ thống chính trị cũng đã được khẳng định rõ nét hơn. Nếu như trong Hiến pháp
năm 1946 vị trí, vai trò của Đảng chưa được ghi nhận, trong Hiến pháp 1959 được
đưa vào lời nói đầu, thì đến Hiến pháp 1980, vị trí, vai trò của Đảng đã được ghi
nhận bằng một điều luật (Điều 4). Kế thừa điều đó, Hiến pháp 1992 của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa cũng quy định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4). Sự ghi nhận này mang một
ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện vị trí của Đảng trong đạo luật cơ bản của Nhà nước,
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta.
2. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp
luật hiện hành.
a. Phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng là một bộ phận của HTCT nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ
HTCT. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua những phương thức chủ
yếu sau:
Thứ nhất, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan
điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ
chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối mà mình vạch ra.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận,
thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ
máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của
Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào
các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính
trị - xã hội.
b. Phương pháp lãnh đạo của Đảng.
Trong HTCT, phương thức lãnh đạo của Đảng là đề ra cương lĩnh, chiến lược,
đường lối lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những quan điểm, những
nguyên tắc, những tư tưởng chỉ đạo để Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống
chính trị vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của từng tổ chức…Tuy nhiên,
khác với Nhà nước, Đảng là một tổ chức chính trị, phương pháp lãnh đạo của Đảng
không phải là phương pháp hành chính hay cưỡng chế. Phương pháp lãnh đạo của
Đảng là bằng thuyết phục, bằng công tác tư tưởng, công tác tổ chức, bằng vai trò
gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng, bằng phát huy vai trò làm chủ của quần
chúng. Đảng không bao biện, làm thay, lạm quyền, nhưng cũng không buông lỏng
sự lãnh đạo của mình. Đảng không quyết những vấn đề thuộc chức năng của NN và
các tổ chức khác. Đảng tôn trọng tính độc lập của các tổ chức đó.
c. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước trong hệ thống chính trị.
Trong HTCT nước ta, Nhà nước Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và thực
hiện đường lối chính trị của Đảng. Nhưng trước hết phải khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật của chủ nghĩa xã hội, được ghi
nhận trong Hiến pháp và pháp luật của NN. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và
đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với NN thể
hiện qua một số phương diện sau:
+ Đảng đề ra đường lối chính sách để NN thể chế hoá thành pháp luật, làm cơ sở
pháp lí cho tổ chức và hoạt động của bộ máy NN và quản lí xã hội.
+ Đảng lãnh đạo xã hội thông qua NN bằng hệ thống pháp luật do NN ban hành.
+ Đảng luôn lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để giới thiệu với NN
bố trí sắp xếp vào các vị trí, chức vụ trong bộ máy NN. Ở nước ta, trong bộ máy NN
các vị trí quan trọng đều do đảng viên của ĐCS nắm vị trí lãnh đạo.
+ Bên cạnh sự hoạt động của các cơ quan hành chính NN luôn luôn có các tổ
chức của ĐCS hoạt động song song để lãnh đạo việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy NN một cách thường xuyên.
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong HTCT, được
quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong HTCT, trong đời sống xã hội và
được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị -
xã hội trong HTCT. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành
hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đồng thời NN kiểm nghiệm tính đúng đắn, sự phù hợp của
những đường lối, chính sách của Đảng. Thông qua sự thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng, NN tổ chức và đảm bảo việc thực hiện pháp luật ấy trong đời sống
xã hội.
NN đảm bảo, bảo vệ cho ĐCS tổ chức, hoạt động và phát triển, phát huy vai trò
lãnh đạo của mình. Đảm bảo nguồn tài chính, vật chất cần thiết không chỉ cho sự
hoạt động của NN mà còn cho cả HTCT, trong đó có ĐCS. Ngoài ra NN còn thực
hiện việc thanh tra giám sát việc tuân theo pháp luật của các đảng viên và các tổ
chức đảng, kiểm soát sự hoạt động của Đảng trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp
luật.
Như vậy sự lãnh đạo của ĐCS đối với NN là rất lớn, nhưng sự lãnh đạo này là
sự lãnh đạo chính trị, tức là vạch ra đường lối, chính sách để NN thể chế hoá thành
pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ấy, chứ Đảng không làm thay vai trò của
NN. Sự hoạt động của NN trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp là nhằm thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng trong thực tế cuộc sống, đem lại ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
d. Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị.
Mặt trận tổ quốc là một bộ phận quan trọng không thể thiếu cấu thành cấu thành hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Điều 9 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền
thống đoàn kết toàn dân, tằng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động
có hiệu quả.”
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ
chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận đã không ngừng lớn mạnh, đã có những đóng
góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng với Đảng, Nhà nước hợp thành
những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị nước ta. Trong mối quan hệ giữa Đảng
và Mặt trận thì điểm đáng chú ý nhất là Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh
đạo.
Là một tổ chức thành viên trong Mặt trận, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng, có
nghĩa vụ như các thành viên khác, đồng thời Đảng vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không phải là sự áp đặt mà là đòi hỏi khách
quan từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, từ tổ chức và hoạt động của mặt trận.
Đây là một tất yếu, xét cả về phương diện thực tiễn lịch sử lẫn phương diện pháp lý.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo tốt công tác mặt trận cũng chính
là lãnh đạo tốt đối với toàn xã hội và làm cho Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân
dân.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò lãnh
đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của tầng lớp nhân dân.
Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra
và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận
đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng.