Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

BÁO CÁO KHOA HỌC CHUYÊN ĐỀ SỞ HŨU CHUNG HỢP NHẤT TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.71 KB, 18 trang )

BÁO CÁO KHOA HỌC CHUYÊN ĐỀ SỞ HŨU CHUNG HỢP NHẤT TRONG QUAN
HỆ HÔN NHÂN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000 VÀ CÁC VĂN
BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
PHẦN MỞ ĐẦU
Điều 95 luật HNGĐ 2000 quy định :
Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu
cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh
của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì,
phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập;
…………………………………………�� �……………..
Như vậy. theo quy định của luật “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia
đôi”, đây là vấn đề luật quy định rõ ràng và dễ hiểu. Nhưng : thế nào là tài sản chung của
vợ chồng? Để trả lời câu hỏi này cần nghiên cứu kỹ điều 27 luật HNGĐ 2000 và các văn
bản hướng dẫn liên quan
Trước khi nghiên cứu các quy phạm pháp luật cụ thể, cần lưu ý các quy định sau đây :
Với tính nghiêm ngặt trong việc sử dụng từ ngữ của kỹ thuật lập pháp, khi nghiên cứu điều
luật, buộc phải tuân thủ các quy tắc sau :
1- Bảo đảm tính nguyên văn của điều luật: không được thêm câu, từ, dấu phân cách vào
điều luật.
2- Tuân thủ quy tắc văn phạm : hiểu điều luật theo đúng quy tắc văn phạm của ngôn ngữ
viết.
3- Xem xét tính hệ thống : cách giải thích về điều luật phải bảo đảm không mâu thuẫn với
điều nào nằm trong bất cứ bộ luật nào của hệ thống luật Việt Nam.
4- quy tắc lịch sử : đôi khi, để hiểu được điều luật, cần phải hiểu sự phát triển của ngành
luật, bộ luật qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
5- Tuân thủ quy tắc giá trị pháp lý : hiến pháp có giá trị pháp lý cao hơn luật, luật cao hơn


nghị định, nghị quyết…….khi sử dụng quy phạm có giá trị pháp lý thấp giải thích, áp dụng
quy phạm có giá trị pháp lý cao hơn thì không được vận dụng sai lệch ý nghĩa, mục đích
của quy phạm được giải thích, áp dụng.
Ngoài ra, cần bảo đảm quy tắc mang tính nguyên lý khi áp dụng pháp luật để xử lý tình
huống cụ thể là : nhà nước bảo đảm tính hợp lý của điều luật
I - CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH LUẬT HNGĐ
2000
Khảo sát điều 27 luật Hôn nhân gia đình năm 2000:
Trích dẫn:
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là
tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ
chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ – Đây là quy phạm pháp luật quy định về nội dung của tài
sản chung của vợ chồng
tài sản chung của vợ chồng là một thuật ngữ để chỉ định những tài sản có nguồn như sau:
01- tài sản do vợ, chồng tạo ra: dùng tiền lương, tiền thưởng trong thời kỳ hôn nhân để
mua ( khoản 3, NQ 01/1988 của HĐTP TAND Tối cao )
02- thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh : tích luỹ lao động trong thời kỳ
hôn nhân

03- và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân : theo hướng
dẫn tại điểm 3a NQ 02/2000 của HĐTP TAND Tối cao, đó là những tài sản được xác lập
sở hữu từ điều 247 đến điều 252 của bộ luật dân sự năm 1995 (bao gồm: tiền thưởng, tiền
trúng thưởng xổ số, đào cổ vật, nhặt của rơi, quản lý gia súc, gia cầm thất lạc..) đặc trưng
pháp lý của những tài sản này là : không do tư nhân trực tiếp quản lý trước khi xác lập sở
hữu và không có yếu tố đền bù khi xác lập sở hữu.
04- tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung: chủ sở hữu cho,
tặng chung cả vợ và chồng, phụ thuộc ý chí của chủ sở hũu
05- và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung: phải có sự xác định
bằng công chứng (đây là vấn đề đã được dự thảo thông tư liên tịch sắp ban hành đề cập )
06- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng: để hiểu rõ quy định này, cần tham khảo Nghị định 70/2001CP của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành luật HN&GĐ năm 2000, trường hợp này được phân ra như sau:
* điều 24,25 Nghị định 70/2001 quy định: quyền sử dụng đất do nhà nước cấp, giao, cho
thuê sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng dù chỉ ghi tên một người trên giấy
chứng nhận QSD đất.
* điều 26 Nghị định 70/2001 quy định: QSD đất do chuyển đổi, chuyển nhượng được luật
xếp chung một loại với QSD đất do thừa kế ( từ vợ chồng sử dụng trong điều 26 không có
dấu ( , ) phân cách, áp dụng quy tắc 2- quy tắc văn phạm phải hiểu rằng : QSD đất do
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế để gọi là “tài sản chung của vợ chồng” thì giấy chứng
nhận QSD đất phải ghi tên của cả vợ và chồng.)
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là
tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận:
Căn cứ pháp luật là thoả thuận có công chứng.
Và hình thức sở hữu: Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất
Ý nghĩa khoản 1 điều 27 luật HNGĐ 2000 :
Trong đời sống thực tiễn, sau khi kết hôn có thể xuất hiện nhiều loại tài sản với những
nguồn gốc rất phong phú, các nhà lập pháp Việt Nam chỉ định rằng: chỉ có 06 nguồn tài
sản được quy định tại khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ thuộc sở hữu chung hợp nhất trong
quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Khi sử dụng từ “ tài sản chung của vợ chồng “, khái niệm gắn liền với sự kiện đó là “tài
sản có nguồn được quy định tại khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ “
Khoản 2 điều 27 luật HN&GĐ – Đây là quy phạm pháp luật quy định về hình thức của tài
sản chung của vợ chồng
Trích dẫn khoản 2 điều 27:
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ
chồng
Tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng: được nêu trong khoản 2 điều 27 chính là những
tài sản có nguồn tạo lập được quy định tại khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ năm 2000.
Trên cơ sở khoản 1, có thể diễn đạt lại khoản 2 như sau :
2. Trong trường hợp tài sản có nguồn tạo lập được quy định tại khoản 1 điều 27 mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi
tên của cả vợ chồng.
Như vậy:
- Giấy chứng nhận QSH chỉ ghi tên vợ hoặc chồng : hiển nhiên không thể là chung
Khoản 2 điều 27 luật HNGĐ 2000 được xây dựng trên phương thức quy phạm hoá những
quy tắc ứng xử thông thường trong xã hội mà mọi người đều biết và có nghĩa vụ tuân thủ.
Trong trường hợp dùng tiền riêng để mua tài sản, việc chủ tài sản đứng tên một mình cũng
là việc hết sức bình thường, đây là quy tắc xử sự hiển nhiên trong đời sống xã hội.
Trên nền tảng nghiên cứu thực tiễn, nhà lập pháp đã bổ sung khoản 2 điều 27 luật HNGĐ
với ý nghĩa như trên, điều này không áp dụng đối với loại QSD đất do nhà nước cấp, giao,
cho thuê theo quy định tại điều 24, 25 nghị định 70/2001 CP ( trường hợp này, chủ sở hữu
chính là nhà nước, và nhà nước đã thể hiện (*ý chí*) quyền định đoạt tài sản của mình tại
điều 24, 25 NĐ 70/2001CP: cho chung cả hai vợ chồng nếu cấp, giao, cho thuê sau khi kết
hôn )
Loại tài sản được quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 27 luật HNGĐ 2000 đồng thời điều
chỉnh mang đặc điểm sau :
Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất trong quan hệ hôn nhân và có giấy chứng nhận QSH
thì phải thoả đồng thời 3 điều kiện về thời điểm phát sinh, nội dung và hình thức như sau:

Thời điểm : phát sinh sau khi đăng ký kết hôn
Nội dung : nguồn tạo lập thuộc ít nhất một trong sáu nguồn quy định tại khoản 1 điều 27
luật HNGĐ 2000
Hình thức : giấy chứng nhận QSH ghi tên cả vợ và chồng
Ghi chú : ở từ “ phát sinh” được sử dụng thay thế từ “ tạo lập” vì “ tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân” có ý nghĩa chính xác là : dùng tích lũy lao động kể từ thời điểm đăng ký kết hôn
trở về sau” để mua ( đã được hướng dẫn tại khoản 3 NQ 01/1988 của HĐTP TAND tối cao
) – Để thoả ý nghĩa “ tạo lập trong thời kỳ hôn nhân”, nguồn sử dụng mua tài sản phải
thuộc một trong sáu nguồn quy định tại khoản 1 điều 27 luật HNGĐ 2000, vấn đề được
nêu rõ tại phần nội dung. Phải hiểu một cách đúng đắn rằng: mua tài sản chỉ là công đoạn
cuối cùng của quá trình tạo lập, đó là thời điểm kết thúc quá trình tạo lập.
VD : xét khái niệm hình vuông như sau để thấy rõ 3 điều kiện đồng thời thỏa mãn:
Hình vuông là :
- một tứ giác ( 1 )
- có hai cạnh liền kề bằng nhau ( 2 )
- có ít nhất một góc vuông ( 3 )
thiếu 1 trong 3 điều kiện trên , chúng ta không có hình vuông
Như vậy:
Khi nói đến tài sản chung của vợ chồng có giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu, phải
đồng thời thỏa mãn cả 3 điều kiện về thời điểm tạo lập, nội dung và hình thức.
Khoản 1 và khoản 2 điều 27 luật HNGĐ 2000 là cặp quy phạm pháp luật có mối quan hệ
biện chứng và không thể tách rời, thể hiện đường lối xử lý của nhà lập pháp đối với loại tài
sản có nguồn gốc và giấy chứng nhận QSH
Khoản 3 điều 27 luật HN&GĐ năm 2000 - Đây chính là “trường hợp khác” của tài sản
chung của vợ chồng
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung
Phạm vi điều chỉnh của khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000:
Để xác định phạm vi điều chỉnh của khoản 3 điều 27, cần xem xét từng từ ngừ mà nhà lập
pháp đã sử dụng:

Tài sản:
Được định nghĩa tại bộ luật dân sự 1995 cũng như bộ luật dân sự 2005 bao gồm : vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Chứng cứ:
Là những “tư liệu khách quan, phản ánh trung thực bản chất sự việc, diễn tiến sự việc”
Tài sản không có chứng cứ:
Bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá” không có “tư liệu khách quan, phản ánh trung thực bản
chất quyền sở hữu”
Những tài sản không có chứng cứ về quyền sở hữu trước hết phải là những tài sản không
có giấy chứng nhận QSH, thông thường đó là những “ vật” giá trị không lớn, có thể kể ra
như : tivi, tủ lạnh, giường, bàn ghế…..nói chung là những dạng trang thiết bị trong nhà.
Không thể cho rằng tài sản đã có giấy chứng nhận ( dù chỉ ghi tên một người ) là loại tài
sản không có chứng cứ.
Có thể thấy như sau:
TÀI SẢN CẦN XEM XÉT :
• Trường hợp có giấy chứng nhận, xảy ra các tình huống:
a- Ghi tên vợ và chồng
b- Ghi tên vợ hoặc chồng
• Trường hợp không có giấy chứng nhận, sẽ có các tình huống:
a- Có chứng cứ
b- Không có chứng cứ
Như vậy, không có chứng cứ chỉ xảy ra đối với những trường hợp tài sản không có giấy
chứng nhận QSH.
“Không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng của mỗi bên” chỉ có nghĩa đơn giản là :
“không có gì cho thấy rằng đó là tài sản riêng”
Khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000b chỉ điều chỉnh những tài sản không có chứng cứ thể
hiện đó là tài sản riêng của mỗi bên, điều kiện tiên quyết của “không có chứng cứ” phải
thỏa mãn điều kiện “ không có giấy chứng nhận” vì giấy chứng nhận hiển nhiên là một
chứng cứ có giá trị pháp lý hữu hiệu.
Do thói quen suy nghĩ về tài sản chỉ có nhà, đất và xe cộ nên đã dẫn đến sai lầm trong tư

duy khi nghiên cứu khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000
Ý nghĩa : khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000
- Thể hiện tính nhân đạo của luật pháp : dù những tài sản đó có thật sự do tiền riêng của
một bên mua, nhưng khi ly hôn, cũng không nên toan tính những thứ quá lặt vặt làm cạn
tình, những thứ không đáng kể thì cho nhau cũng được, dù sao cũng nên giữ một điều gì đó
tốt đẹp khi chia tay nhau.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Toà án khi tiến hành xem xét giải quyết, vì việc truy
cứu nguồn gốc của những tài sản không có giấy chứng nhận QSH một cách đúng đắn mất
rất nhiều thời gian mà thường là kết quả không cao, hiệu quả xã hội kém, do đó, nhà lập
pháp đã đưa ra một giải pháp hợp lý là những tài sản có giá trị không đáng kể ( thường
không có chứng cứ rõ ràng) thì chia đôi,
Khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000 chính là trường hợp khác của sở hũu chung hợp nhất
trong quan hệ hôn nhân
Khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000 thể hiện đường lối xử lý của nhà lập pháp đối với loại
tài sản không có giấy chứng nhận QSH không có chứng cứ nguồn gốc, thông thường, đây
chỉ là những tài sản có giá trị nhỏ
Qua nghiên cứu ý nghĩa các quy phạm pháp luật về chế định sở hũu chung hợp nhất trong
quan hệ hôn nhân, có thể xây dựng mô hình TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO
QUY ĐỊNH LUẬT HNGĐ 2000 & PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA KHOẢN 3 ĐIỀU 27
LUẬT HNGĐ 2000
ĐIỀU KIỆN – HOÀN CẢNH TẠO RA SỰ XUẤT HIỆN TƯ TƯỞNG TÀI SẢN CÓ
ĐƯỢC TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG & SỰ
SAI LẦM CỦA TƯ TỬỞNG NÀY SO VỚI QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
Trên cơ sở những nguyên lý cơ bản đã nêu, có thể thấy phát biểu : “Có được sau khi kết
hôn là tài sản chung” , sẽ gặp sai phạm sau :
01- Vi phạm quy tắc nguyên văn của điều luật: đây là điều không được điều 27 luật HNGĐ
2000 ghi nhận
02- Nếu giải thích từ có được với nghĩa : phát sinh sau thời điểm đăng ký kết hôn, so sánh
với các điều kiện đồng thời thoả mãn của sở hũu chung hợp nhất trong quan hệ hôn nhân,
chúng ta nhận ra cách giải thích này chỉ mới thoả dấu hiệu về thời điểm, còn thiếu 02 dấu

hiệu về nội dung (nguồn ) và hình thức
03- Nếu giải thích từ có được với nghĩa “ phát sinh bất chấp điều kiện sau khi kết hôn”,
chúng ta sẽ có “ tài sản chung của vợ chồng” là một tập hợp nguồn vô hạn, không xác định,
điều này mâu thuẫn với khoản 1 điều 27, quy định sở hũu chung hợp nhất trong quan hệ
hôn nhân chỉ gồm 06 nguồn xác định
Cũng như đoạn từ “ quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được” sử dụng tại phần cuối khoản
1 điều 27, để hiểu rõ, cần nghiên cứu các quy phạm pháp luật hướng dẫn liên quan là điều

×