TÓM LƯỢC
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đã chủ trương thực hiện
chính sách phát triển kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Đồng thời mở rộng đầu tư trên nhiều lĩnh vực kinh tế, vì có đầu tư mới có phát triển.
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại nhiều loại hình đầu tư, trong đó, hình thức đầu tư theo hợp
đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư linh hoạt và hiệu quả,
được pháp luật đầu tư của hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Tuy nhiên, bất kỳ
hình thức đầu tư nào bên cạnh những ưu thế nổi trội cũng tiềm ẩn trong nó những điểm
hạn chế nhất định. Khi lựa chọn hình thức đầu tư, các nhà đầu tư cần phải tìm hiểu thật
kỹ những ưu thế cũng như hạn chế của từng hình thức đầu tư để lựa chọn hình thức đầu
tư phù hợp nhất đối với từng dự án đầu tư nhằm đảm bảo dự án đầu tư thu về được lợi
nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất. Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là hình thức
đầu tư ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam vì nó được đánh giá là dễ tiến hành, thích
hợp với các dự án cần triển khai nhanh mà thời hạn đầu tư ngắn.
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của quý thầy cô, gia đình và bạn bè để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp với đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh - Thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp
Việt Nam”.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn:
- Ban giám hiệu Nhà trường, Khoa Kinh tế- Luật, các thầy cô giáo bộ môn Luật
chuyên nghành, trường Đại học Thương Mại đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành bài
khóa luận này.
- Cô giáo hướng dẫn- ThS. Nguyễn Thị Nguyệt đã tận tâm hướng dẫn em và giúp
em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này em đã rất cố
gắng nhưng do kiến thức, kinh nghiệm của em còn hạn chế do vậy khó tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp từ quý thầy giáo, cô giáo để bài
khóa luận được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc thầy cô Khoa Kinh tế - Luật và cô Nguyễn Thị Nguyệt
dồi dào sức khỏe, giữ vững niềm tin tiếp tục sự nghiệp nghề giáo cao đẹp để dìu dắt cho
thế hệ mai sau.
Trân trọng!
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Kiều Thị Hương Nhài
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt Từ viết tắt Ýnghĩa
1 BCC Hợp đồng hợp tác kinh doanh
2 BOT Hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao
3 BTO Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – vận hành
4 BT Hợp đồng xây dựng - chuyển giao
5 LĐT Luật đầu tư
6 DAĐT Dự án đầu tư
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực.
Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước có nhiều khởi sắc, được nhân dân
và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đảng xác định: Nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay là: thúc đẩy sự chuyển dịch của cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) để đạt mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 và ngày càng hội nhập sâu vào nền
kinh tế khu vực và thế giới; tăng cường thu hút vốn của các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng ấn tượng cho nền kinh tế. Đặc biệt Nhà
nước giành đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực kinh doanh bất động sản, lĩnh vực cung cấp
dịch vụ viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí và các khoáng sản quý hiếm để trong
một thời gian ngắn khắc phục được tình trạng thiếu vốn như hiện nay. Đây là một định
hướng đúng nhưng để thực hiện được chủ trương này cần một lượng vốn lớn, vốn từ ngân
sách Nhà nước không đáp ứng được mà phải huy động sức mạnh của mọi tổ chức, cá
nhân, mọi thành phần kinh tế đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài.
Những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã mang lại
cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được
một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động
các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập cạnh tranh các doanh nghiệp đang từng bước hoàn
thiện mình để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay, ở nước ta hình thức đầu tư theo hợp
đồng BCC đang ngày càng được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên lựa chọn khi
tiến hành hoạt động đầu tư của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất
động sản tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, lĩnh vực cung cấp
dịch vụ viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí và các khoáng sản quý hiếm… Tuy nhiên,
tùy từng dự án đầu tư cụ thể, các nhà đầu tư cần phải tìm hiểu cả ưu điểm cũng như hạn
chế của từng hình thức đầu tư để lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp nhất nhằm hạn
chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ một dự án đầu tư nào. Mà rủi
ro thường xảy đến do sự thiếu hiểu biết về mặt pháp luật là chủ yếu, khi ký kết một hợp
đồng hợp tác kinh doanh nhưng không hiểu rõ hình thức đúng, thủ tục trình tự phải làm
thế nào, đáp ứng điều kiện ra sao thì hiển nhiên ký kết nhưng hợp đồng sẽ không có giá trị
dẫn đến sự khó khăn và tạo ra rủi ro. Vì thế bài nghiên cứu pháp luật về đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh sẽ đi sâu vào tìm hiểu thực trạng, cũng như những
điểm mạnh, điểm yếu của hình thức đầu tư này để có thể giúp doanh nghiệp ngày càng
phát triển hơn trên thị trường Việt Nam nói riêng và quốc tế nói chung. Để tìm hiểu thêm
về vấn đề này, em xin mạnh dạn chọn đề tài “ Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh – Thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam” để làm đề tài cho bài
khóa luận tốt nghiệp này.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đến nay, đã có một số công trình khoa học đề cập đến hợp đồng hợp tác kinh:
Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Đỗ Nhất Hoàng về “ Sự hình thành và phát triển
của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam”. Luận án này nghiên cứu
sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài, đánh giá thực trạng và dự
báo xu hướng phát triển. Ở đây chỉ rõ đầu tư nước ngoài và pháp luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, do đó luận án nghiên cứu với quy mô tổng thể về phát luật đầu tư nước
ngoài, chưa đi vào cụ thể. Đối với hình thức đầu tư theo BCC luận án mới chỉ nói về vấn
đề chủ thể cùng với các hình thức BOT, BTO, BT và các biện pháp bảo đảm đầu tư,
khuyến khích đầu tư. Đây là nền tảng để nghiên cứu sâu hơn về hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Đỗ Khắc Định về “ Hoàn thiện pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư Việt Nam”. Nội
dung nghiên cứu mà luận án đề cập là rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều chuyên
ngành như Lý luận Nhà nước và pháp luật, Luật Kinh tế Đối với một số nội dung cụ thể
có liên quan khác, luận án chỉ đề cập ở một mức độ nhất định, trong mối quan hệ cần thiết
nhằm tạo lập cơ sở lý luận có tính hệ thống cho việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận án đã nói đến hiệp định thương mại Việt – Mỹ có sự ký kết với nhau và Mỹ cam kết
dành cho các nhà đầu tư Việt Nam sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với nước thứ ba
về đầu tư. Luận án cũng chỉ mới nhắc đến vấn đề đầu tư theo hợp đồng BCC dưới góc độ
chủ thể, hình thức quy định theo luật mà đề cập nhiều.
TS. Nguyễn Thị Dung, Một số nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng
hợp tác kinh doanh, Tạp chí Luật học số 11/2008: Hợp đồng BCC là hình thức đầu tư
được quy định trong pháp luật của nhiều nước, gọi tắt là hợp doanh. Bài báo cáo này nói
về một số nội dung mới trong pháp luật hiện hành về hợp đồng BCC. Đó là quy định về
chủ thể của hợp đồng, quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng pháp luật về đầu tư
BCC, quy định về quyền đầu tư và các yếu tố tác động, quy định về thủ tục đầu tư. Sau đó
đưa ra một số vướng mắc trong điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng BCC, từ
đó kiến nghị hướng giải quyết.
Nhóm 10 lớp CDTD13TH và giảng viên Th.S Nguyễn Thị Ngọc Bình, Bài tiểu luận
pháp luật về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh: nói khái quát về hợp đồng là một
trong những phương tiện hữu hiệu để thực hiện giao lưu dân sự trong đời sống xã hội.
Hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận và có hiệu lực ràng buộc các bên khi tham gia quan hệ
hợp đồng. Tiếp theo bài tiểu luận đi sâu phân tích về đặc điểm của hợp đồng trong kinh
doanh như chủ thể, hình thức, các yếu tố cấu thành hợp đồng, đề nghị giao kết, có hiệu
lực,… Sau đó so sánh với hợp đồng hợp tác kinh doanh có theo đúng quy trình của hợp
đồng trong kinh doanh, những điểm giống và điểm khác giữa hợp đồng khái quát và hợp
đồng riêng biệt theo lĩnh vực.
Nguyễn Thị Tuyết Vân (2013), Pháp luật về kinh tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà
Nội: Luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ
chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau. Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ kinh tế
vừa mang yếu tố tài sản vừa mang yếu tố tổ chức kế hoạch. Trong đó bao gồm các lĩnh
vực thương mại, đầu tư và các hợp đồng kinh tế là không thể thiếu, cũng với đó là hợp
đồng đầu tư chịu sự điều chỉnh của luật kinh tế nói chung.
Các luận án này đã đề cập một số vấn đề của hợp đồng hợp tác kinh doanh nhưng
còn chưa chuyên sâu. Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập trên trước hết làm
cho các nhà đầu tư nước ngoài hiểu rõ hơn về pháp luật đầu tư trước tiếp nước ngoài tại
Việt Nam. Đồng thời thể hiên đúng bản chất của hợp đồng hợp tác kinh, trên cơ sở đó xây
dựng được hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng hợp tác kinh doanh ở
Việt Nam.
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ cập đến một số vấn đề của hợp
đồng hợp tác kinh doanh mang tính chất bao quát, chung chung mà chưa chuyên sâu đến
từng vấn đề. Do vậy bài khóa luận này nghiên cứu đi sâu vào một số vấn đề hợp đồng hợp
tác kinh doanh.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Phân tích đặc điểm của hợp đồng BCC và so sánh với các hợp đồng BTO, BOT, BT.
Nghiên cứu về nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh và một số quyền cơ bản
của các bên trong hợp đồng.
Đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh trên thực tế.
Đề ra một số kiến nghị một số hướng hoàn thiện trong các quy định của pháp luật
đầu tư Việt Nam theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh trong pháp luật Việt Nam hiện hành và tìm
hiểu, phân tích đưa ra một số vụ việc cụ thể trong thực tế liên quan đến hợp đồng hợp tác
kinh doanh.
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài: tiếp cận nghiên cứu các vấn đề có tính chất lý
luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng hợp tác kinh doanh. Từ đó làm cho nhà đầu tư
nước ngoài hiểu rõ hơn về pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Để thực
hiện được mục tiêu trên bài khóa luận cần làm rõ khái niệm, bản chất của hợp đồng hợp
tác kinh doanh và một số vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về hợp
đồng BCC ở Việt Nam. Sau đó chỉ ra những bất cập trong việc đưa ra những quy định của
pháp luật về hợp đồng BCC vào thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện hơn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài không nhằm giải quyết tất cả những vấn đề pháp luật liên quan
đến hợp đồng hợp tác kinh doanh mà chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản:
bản chất của hợp đồng BCC, thủ tục giao kết hợp đồng, quan hệ giữa các bên trong quá
trình thực hiện hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và vấn đề giải quyết tranh
chấp.
Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định về hợp đồng hợp tác
kinh doanh trong Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư mới 2015, Nghị định 108/2006/NĐ-CP
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư và một phần trong
Hiệp định thương mại Việt Mỹ. Nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, bài khóa luận nghiên cứu đề
tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử để tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực tế áp dụng. Bên cạnh
đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
hợp đồng hợp tác kinh doanh tại các doanh nghiệp.
Phương pháp thống kê để thấy được số lượng hợp đồng hợp tác kinh doanh trên
thực tế. Từ đó, dựa vào số liệu thống kê được đánh giá tầm quan trọng của hoạt động hợp
tác trên thị trường kinh doanh.
Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh
doanh trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau liên quan. So sánh quy định giữa
Luật đầu tư với Luật doanh nghiệp, giữa Luật đầu tư cũ và Luật đầu tư mới được sửa đổi
bổ sung.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận tốt
nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG HỢP
TÁC KINH DOANH
1.1. Khái quát chung về đầu tư theo hợp đồng BCC
Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là hình thức đầu tư ngày càng trở nên phổ biến
ở Việt Nam vì nó được đánh giá là dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần triển khai
nhanh mà thời hạn đầu tư ngắn. Có thể hiểu hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới nhiều góc
độ khác nhau:
Dưới góc độ pháp lý hợp đồng hợp tác kinh doanh được hiểu là sự thỏa thuận bằng
văn bản giữa hai hay nhiều bên cùng nhau tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh
doanh chung và phân chia kết quả kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới. Theo
Khoản 16 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 (LĐT 2005) quy định: “Hợp đồng hợp tác kinh
doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư
nhằm hợp tác.
Với tư cách là một hình thức đầu tư nước ngoài: Hợp đồng BCC là một hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà các bên liên kết với nhau thực hiện một hoặc một số hoạt
động kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới và kết quả kinh doanh được phân
chia cho các bên tham gia hợp đồng. Đây là hình thức đầu tư được quy định trong pháp
luật của nhiều quốc gia. Mục đích của hợp đồng BCC là tạo nên sự hợp tác giữa các nhà
đầu tư trong kinh doanh, các bên cùng nhau thực hiện hoạt động góp vốn, quản lý kinh
doanh, chịu rủi ro, hưởng lợi nhuận. Tuy nhiên, không thành lập pháp nhân mới, mà cơ sở
hợp tác chỉ là hợp đồng. Chính vì vậy, trong toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng này,
các bên vẫn giữ nguyên tư các pháp lý của mình, nhân danh chính bản thân mình để thực
hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng.
Khái quát lại có thể hiểu như sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự thỏa thuận
giữa các nhà đầu tư, theo đó, các bên cùng góp vốn, cùng quản lý kinh doanh, cùng phân
chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro trong quá trình đầu tư kinh doanh mà không thành lập
một pháp nhân mới. Hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức
đầu tư trực tiếp và được ký kết giữa các nhà đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Pháp luật về hợp đồng hợp BCC là hệ thống những quy phạm liên quan đến hợp
đồng hợp tác kinh doanh mang tính bắt buộc khi các bên thực hiện giao kết, những quy
định về hình thức, chủ thể, nội dung,
Từ những cách hiểu về hợp đồng BCC như trên, có thể nhận thấy những điểm đặc
trưng để phân biệt hợp đồng BCC với các dạng hợp đồng đầu tư khác, cụ thể:
Thứ nhất về cơ sở pháp lý, hoạt động đầu tư được thiết lập trên cơ sở hợp đồng ký
kết giữa các nhà đầu tư nhưng không thành lập pháp nhân mới, quyền và nghĩa vụ các bên
chỉ ràng buộc với nhau bới hợp đồng mà không có sự ràng buộc mặt về tổ chức như ở các
hình thức đầu tư thành lập pháp nhân mới. So với các hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
thì hoạt động đầu tư được thiết lập giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư,
buộc các nhà đầu tư phải thành lập phát nhân để tạo sự ràng buộc khi hợp tác với cơ quan
nhà nước.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng là các nhà đầu tư bao gồm cả đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể trong từng hợp đồng không giới hạn, tùy thuộc vào
quy mô dự án và nhu cầu, khả năng mong muốn của các nhà đầu tư. Đối với các hợp đồng
đầu tư trực tiếp khác như BOT thì chủ thể bắt buộc một bên phải là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở Việt Nam, còn một bên là nhà đầu tư.
Thứ ba, hình thức của hợp đồng: không bắt buộc bằng lập thành văn bản. Tuy nhiên
trong trường hợp dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư thì
hợp đồng BCC phải bằng văn bản.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng: là những thỏa thuận hợp tác kinh doanh bao gồm
các thỏa thuận cùng góp vốn kinh doanh, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro.
Thứ năm, phương thức thực hiện hợp đồng: nhà đầu tư không phải thành lập pháp
nhân, không có bộ máy tổ chức, quản lý doanh nghiệp chung mà thực hiện dự án thong
qua các thỏa thuận đã ký.
Thứ sáu, lợi ích nhà đầu tư được hưởng: hình thức đầu tư dễ tiến hành, dự án triển
khai nhanh và thời hạn đầu tư ngắn, sớm thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh do
không mất thời gian thực hiện thủ tục thành lập pháp nhận và đầu tư xây dựng cơ sở sản
xuất mới.
Hiện nay, ở nước ta hình thức đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC đang ngày càng
được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên lựa chọn khi tiến hành hoạt động đầu tư
của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản, do những ưu điểm
nổi trội của nó mà các hình thức đầu tư khác không có.
Thứ nhất, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm
rất nhiều thời gian, công sức cũng như tài chính trong việc thành lập pháp nhân mới cũng
như chi phí vận hành doanh nghiệp sau khi nó được thành lập, khi dự án đầu tư kết thúc,
các nhà đầu tư cũng không phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp. Vì vậy, hình thức
này luôn được chọn lựa. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư, khi các nhà đầu tư đã lựa chọn
hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC thì ngay khi dự án hoàn thành, các bên có thể ngay
lập tức bán phần của mình như thỏa thuận phân chia mà không phụ thuộc vào các đối tác
còn lại.
Thứ hai, với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những thiếu sót,
yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ như đối với những thị
trường đầu tư còn mới mẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ dễ dàng tiếp cận thông qua những
đối tác trong nước am hiểu thị trường. Còn các nhà đầu tư trong nước thì có thể được các
đối tác nước ngoài hỗ trợ về vốn, nhân lực, công nghệ hiện đại.
Thứ ba, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý
độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu tư
sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự án đầu tư.
Nếu như đối với các hình thức đầu tư phải thành lập một pháp nhân mới, các nhà đầu tư
căn cứ trên phần vốn mà mỗi bên bỏ ra để lựa chọn một hoặc một nhóm người đứng đầu,
lãnh đạo công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có nguồn vốn ít sẽ có ít cơ hội được nắm
quản lý, không chủ động trong việc cũng như với số vốn mà họ đã bỏ ra, họ giống như
một chủ nợ hơn là một nhà đầu tư. Nhưng đối với hình thức đầu tư này, với cơ chế đàm
phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư có thể
linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng do
không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có
quan hệ đầu tư với nhau. Do đó, hình thức đầu tư này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu
cầu và sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau.
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của mình, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC
cũng tồn tại những điểm hạn chế mà khi lựa chọn hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư
không thể không tính đến để đảm bảo cho hoạt động đầu tư của mình thu được lợi nhuận
cao nhất và ít rắc rối nhất sau này.
Thứ nhất, việc không thành lập pháp nhân mới như phân tích ở trên là một trong
những ưu điểm nổi bật nhưng nó cũng chính là mặt hạn chế của hình thức đầu tư này.
Chính vì không thành lập một doanh nghiệp mới, do đó dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn khi
thực hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng chính vì không
có một doanh nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu tư, do đó, sẽ không có con
dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận lựa chọn một trong con dấu
của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư. Việc không phải thành
lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư không nghiên cứu kỹ, lựa
chọn sai hình thức đầu tư thì nó lại trở thành một hạn chế rất lớn, gây ra nhiều rủi ro mà
các nhà đầu tư không lường trước được. Ngoài ra, nếu thành lập một pháp nhân mới thì
quyền quản lý pháp nhân mới đó sẽ được phân chia theo tỷ lệ số vốn góp do các nhà đầu
tư bỏ ra. Nhưng vì không có doanh nghiệp mới ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư
sẽ được chia đều cho tất cả các nhà đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ ra ít
vốn hơn nhưng lại không công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn.
Thứ hai, pháp luật chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên và bên
thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng
BCC. Đây cũng là một hạn chế cần phải chú ý tới nếu các bên lựa chọn hình thức đầu tư
này.
Như vậy, có thể thấy hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC hiện nay trở nên phổ biến
do tính chất linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, tùy từng dự án đầu tư cụ thể, các nhà đầu tư
cần phải tìm hiểu cả ưu điểm cũng như hạn chế của từng hình thức đầu tư để lựa chọn
được hình thức đầu tư phù hợp nhất nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy
ra đối với bất kỳ một dự án đầu tư nào.
1.2. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng BCC
1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hợp đồng BCC
Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh về bản chất của hợp đồng
BCC, thủ tục giao kết hợp đồng, quan hệ giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng
và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và vấn đề giải quyết tranh chấp.
Đối với các nước khác thì có những khái niệm về pháp luật hợp đồng hợp tác kinh
doanh riêng. Theo học thuyết pháp lý của Hoa Kỳ, theo quy định tại luật Hoa Kỳ thì một
nhà đầu tư (cá nhân, pháp nhân) khi đầu tư trực tiếp có thể lựa chọn một trong các hình
thức kinh doanh sau:
1. Độc lập kinh doanh, tự bỏ vốn, tự quản lý hoạt động kinh doanh, tự thuê lao động
và tự chịu trách nhiệm cá nhân. Đây chính là hình thức công ty tư nhân, công ty chi
nhánh.
2. Liên kết với người khác bằng cách góp vốn chung, góp sức, cùng thuê lao động,
cùng chịu trách nhiệm.
Theo án lệ Hoa Kỳ, Cuốn Black’s law dictionary định nghĩa thì Joint Venture (Công
ty liên doanh) là một hình thức kinh doanh được thực hiện bởi hai hoặc nhiều người thực
hiện một dự án chung được xác định, là quan hệ pháp lý giữa hai hay nhiều người trong
một số hoạt động kinh doanh cụ thể, liên kết tìm kiếm lợi nhuận mà không thành lập bất
kỳ một Partnership (Công ty). Các Toà án Hoa kỳ đều xác định Joint Venture và
Partnership là hai liên kết kinh doanh tương tự nhau. Các qui định điều chỉnh Partnership
được áp dụng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến Joint Venture, chỉ có khác một
điểm là bên tham gia Partnership có quyền đại diện đương nhiên cho Partnership, còn bên
tham gia Joint Venture không có quyền đại diện đương nhiên choJoint Venture. Có thể
nhận thấy Joint Venturetheo luật Hoa kỳ có nét giống với hợp doanh của Việt Nam: đều
là liên kết kinh doanh không thành lập pháp nhân.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh bao gồm
các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định và
nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định,
thông tư và chỉ thị của các Bộ…
Xét trên phương diện nội dung, pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh bao hàm
các vấn đề như phạm vi áp dụng (được thể hiện qua các quy định về chủ thể hợp đồng và
đối tượng hợp đồng), căn cứ sự ràng buộc ghi trong hợp đồng từ đó xử lý vi phạm và giải
quyết tranh chấp về hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Ngày nay, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở
thành xu hướng toàn cầu thì việc hình thành, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan
đến đầu tư trực tiếp theo hợp đồng BCC. Do đó, nội hàm của khái niệm hợp đồng hợp tác
kinh doanh không chỉ quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả quy định
trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến hợp tác kinh doanh như Hiệp định Việt
Mỹ.
Pháp luật của các nước qui định về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn
chung là phong phú hơn pháp luật của nước ta. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện ở chỗ
nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động của cơ sở sản xuất kinh
doanh. Tại nhiều nước, nhà đầu tư có thể đầu tư trực tiếp theo hai hình thức chủ yếu là
độc lập kinh doanh và liên kết kinh doanh. Liên kết kinh doanh rất đa dạng và nhiều cấp
độ.
Văn bản quy phạm pháp luật quốc gia:
Quy phạm pháp luật về hợp đồng BCC được thể hiện trong văn bản pháp luật là
Luật đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ- CP là chủ yếu. Trong các văn bản quy phạm
pháp luật đều tập chung quy định các vấn đề cơ bản: xác định chủ thể của hợp đồng, xác
định hình thức hợp đồng, xác định thủ tục của hợp đồng, xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng, xác định hành vi vi phạm hợp đồng và chế tài đối với hành vi đó.
Văn bản quy phạm pháp luật quốc tế:
Để xúc tiến và thực hiện các hoạt động thương mại với bên ngoài thì mỗi quốc gia
phải chấp nhận ràng buộc với “luật chơi” chung trong thương mại quốc tế, trong đó đặc
biệt là theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
1.2.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh
Quy phạm về chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh: Theo LĐT 2005, chủ thể
hợp đồng hợp tác kinh doanh là các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài., số lượng chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đã không còn bị giới
hạn, có thể bao gồm hai hay nhiều nhà đầu tư có quan hệ hợp tác kinh doanh với nhau
(song phương hoặc đa phương).
Mỗi loại hợp đồng kinh doanh lại quy định chủ thể của hợp đồng có nét đặc trưng
riêng để có sự khác biệt nhận biết với từng loại hợp đồng trong thương mại. Ở đây, chủ
thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh có những đặc trưng riêng như các nhà đầu tư bao
gồm trong nước và nước ngoài, còn đối với hợp đồng BOT, BTO, BT thì chủ thể lại có
quy định khác đối với từng hạng mục đầu tư chủ thể là các nhà đầu tư trong nước.
Do đặc trưng của hợp đồng hợp tác kinh doanh nội dung với các mối quan hệ mở
rộng, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho hoạt động trong nước nhiều hơn,
mà với loại hình hợp đồng này thì các bên không bị giới hạn về số lượng, quyền lợi với
nghĩa vụ của các bên được hiểu một cách rõ ràng, ít sự ràng buộc.
Tuy nhiên để trở thành chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh thì cần phải đáp
ứng một số điều kiện của pháp luật Việt Nam, như đáp ứng về giấy đăng ký kinh doanh,
làm thủ tục đăng ký đầu tư, thủ tục thẩm tra… tùy thuộc vào từng hạng mục đầu tư dự án
(Điều 3; Điều 13 LĐT 2005)
Quy phạm về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Khi đã xác định
được chủ thể của hợp hợp đồng hợp tác kinh doanh thì tiếp theo cần phải biết đến hình
thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) phải
được thành lập bằng văn bản và do người đại diện có thẩm quyền ký tất vào từng trang và
ký đầy đủ vào cuối trang ( nếu có nhà đầu tư nước ngoài ) được quy định tại Điều 55-
Nghị định 108/2006/ NĐ- CP.
Nếu hợp đồng được ký kết giữa 1 bên là nhà đầu tư Việt Nam với 1 bên là nhà đầu
tư nước ngoài thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư.
Để việc thực hiện hợp đồng hượp tác kinh doanh một cách dễ dàng thì cần phải có
sự nhận biết về hình thức đúng theo quy định và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Tránh đi sự nhầm lẫn mà dẫn đến hợp đồng không có hiệu lực, dẫn đến việc hợp tác kinh
doanh bị trì trệ hoặc tránh việc phát sinh mâu thuẫn giải quyết khó khăn hơn.
Tiếp đến là quy phạm về thủ tục khi thực hiện hợp đồng, nếu không theo đúng trình
tự thủ tục thì hợp đồng được ký kết nhưng không có sự đầy đủ về mặt pháp lý do pháp
luật đã quy định dẫn đến thực thi dự án sẽ tạo ra lỗ hổng vi phạm lớn. Được quy định tại
Nghị đinh 108/2006/NĐ- CP.
Không phụ thuộc vào nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư mà phụ thuộc vào nguồn
gốc vốn, quy mô vốn đầu tư và lĩnh vực đầu tư, được phân thành 3 nhóm:
Nhóm dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư: là các dự án trong nước
có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
Nhóm DAĐT phải làm thủ tục đăng ký đầu tư: dự án đầu tư trong nước có quy mô
vốn từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ, dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn dưới 300 tỷ và
không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, không thuộc dự án đầu tư do Chính
phủ cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Nhóm phải làm thủ tục thẩm tra đầu tư: dự án đầu tư trong nước, dự án có vốn đầu
tư nước ngoài có quy mô vốn lớn hơn 300 tỷ và thuộc danh mục dự án đầu tư có điều
kiện.
Khi được quy định dự án nào phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, dự án nào không, dự
án nào phải làm thủ tục thẩm tra tưởng chừng có sự rườm rà nhưng không phải, bản chất
của việc phân nhóm thủ tục này để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý chặt chẽ
mọi dự án đầu tư hơn với từng quy mô vốn và lĩnh vực đầu tư. ( Điều 42- 47 - Nghị định
108/2006/ NĐ- CP).
Quy phạm về nội dung, không thể thiếu trong hợp đồng hợp tác kinh doanh đó chính
là nội dung quan hệ đầu tư:
Nội dung quan hệ đầu tư theo hợp đồng BCC bao gồm những thỏa thuận thể hiện
tính “hợp tác kinh doanh”, bao gồm các thỏa thuận bỏ vốn để cùng tham gia hoạt động
kinh doanh, phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro. Có thể nói đây chính là điểm đặc thù
của hợp đồng BCC so với các hợp đồng khác trong thương mại (ở các hợp đồng khác,
thời điểm chuyển giao rủi ro được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở
xác định rõ lợi nhuận hay rủi ro thuộc về một trong các bên của hợp đồng).
Do một bản hợp đồng được ký kết thì cần phải hiểu do nội dung được ký kết là nội
dung về vấn đề nào, có những điều khoản nào mà các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan
để thực hiện. Chính vì vậy, nội dụng của các loại hợp đồng có sự khác nhau chứ không
đồng nhất về mọi vấn đề được đưa ra, như hợp đồng BOT nội dung quy định về quyền và
nghĩa vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam và nhà đầu tư liên quan đến ba
việc xây dựng, kinh doanh và chuyển giao công trình cho nhà nước Việt Nam.
Quy phạm về tranh chấp: tranh chấp là điều không muốn khi hợp tác kinh doanh
nhưng cũng không thể tránh khỏi, chính vì vậy cần có những biện pháp đưa ra để giải
quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Tranh chấp diễn ra có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau tạo nên, như do tranh
chấp trong nội bộ, tranh chấp giữa các nhóm hợp tác kinh doanh với nhau, về vấn đề
quyền lợi và rủi ro giữa các bên trong khi thực hiện hợp đồng. Những tranh chấp đó xảy
ra cần có biện pháp giải quyết kịp thời để tiếp tục hợp tác hoặc có thể xử lý một cách
công bằng cho các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Tranh chấp được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án.
Tùy theo mức độ tranh chấp xáy ra mà phù hợp với từng cách thức giải quyết.( Điều 14-
Luật đầu tư 2014).
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về đầu tư theo
hợp đồng BCC
Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh trải qua các giai đoạn khác nhau có sự
thay đổi các quy định cho phù hợp với từng thời kỳ.
Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm
1987:
Thể chế hoá đường lối của Đảng, ngày 18/4/1977, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP
ngày 18/4/1977 (sau đây gọi là Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977). Đây là văn bản
pháp lý đầu tiên của nước ta về đầu tư nước ngoài qui định các nguyên tắc cơ bản về đầu
tư nước ngoài, lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư và nhiều vấn đề khác trong đó có hình thức
hợp tác sản xuất chia sản phẩm. Tuy vậy Điều lệ lại dành rất ít qui định về hình thức này,
hậu quả là trong suốt mười năm tồn tại không có một hợp đồng hợp tác sản xuất chia sản
phẩm nào được ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với đối tác Việt Nam.
Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh trong giai đoạn từ năm 1987 đến năm
1996:
Ngày 31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo
cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời,
Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 139-HĐBT ngày 5-9-1988 qui định chi tiết
thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, so với Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm
1977 thì Luật đầu tư nước ngoài đã có nhiều tiến bộ hơn về kỹ thuật lập pháp và tính
tương thích của nội luật với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đối với hình thức hợp đồng
hợp tác kinh doanh, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quan tâm hơn so với Điều lệ về
Đầu tư nước ngoài năm 1977. Tuy nhiên so với các hình thức đầu tư khác thì hợp đồng
hợp tác kinh doanh vẫn bị xem nhẹ chỉ tập trung hướng dẫn xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và coi nhẹ hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Sau đó, ngày 30/ 6/1990, tại kỳ họp Quốc hội khoá VIII đã thông qua luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và ngày 6/12/1991 Hội đồng
bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 28- HĐBT qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Nội dung của các văn bản này có những qui định cụ thể sau:
Thứ nhất hợp đồng hợp tác kinh doanh vừa có hình thức song phương và đa phương.
Thứ hai về nội dung của hợp đồng, các văn bản này qui định những nội dung quan
trọng nhất của hợp đồng. Ngoài ra, Nghị định số 28- HĐBT năm 1991 còn đưa vấn đề
chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, theo qui định thì một bên
muốn chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của mình thì phải thoả mãn các điều kiện đã có.
Sau đó đến ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1992), tuy nhiên những qui định điều
chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh không có gì thay đổi ngoại trừ việc cho phép doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Ngày 12/11/1996 Quốc hội thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sau đó
Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 18-12-1987 của Chính phủ qui định chi tiết
thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tiếp đó Chính phủ lại ban hành Nghị định
số 24/2000/NĐ- CP ngày 19/3/2003 qui định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Để phù hợp với tình hình mới Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2003/NĐ-
CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/NĐ- CP ngày 31/7/2000 quy
định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên các qui định về hợp
đồng hợp tác kinh doanh không có nhiều thay đổi. Chỉ có hai thay đổi sau:
- Các bên được thành lập ban điều phối;
- Bên nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành ở Việt Nam
Từ năm 2005 đến nay:
Luật Đầu tư 2005, lần đầu tiên hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC được quy định
một cách hoàn chỉnh nhất, và được cụ thể hóa tại Nghị định của Chính phủ số
108/2006/NĐ- CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của LĐT. Theo đó, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là quan hệ đầu tư được thiết lập
trên cơ sở hợp đồng. Các nhà đầu tư tuy góp vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh, song
không thành lập bất kỳ một tổ chức kinh tế mới nào.Mọi quyền và nghĩa vụ của các bên
được quy định và thực hiện thông qua thỏa thuận.
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014, có hiệu lực
kể từ 01/7/2015. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có
10 chương, 213 điều, tăng 41 điều. Chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà nước với
22 điều là chương mới hoàn toàn. Điều 10 quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp xã hội cũng mới hoàn toàn. Luật Doanh nghiệp năm 2014 vừa tiếp tục kế
thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ
những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận
lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Quy định điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh
2.1.1. Về bản chất hợp đồng
Hợp đồng hợp tác kinh doanh lần đầu tiên được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam năm 1987. Tuy nhiên, pháp luật lúc đó quy định chỉ có hai bên chủ thể, bao
gồm một bên nước ngoài và một bên Việt Nam được ký kết và thực hiện hợp đồng này.
Quy định của pháp luật về hợp đồng BCC tiếp tục được hoàn thiện tại Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Từ năm 1996, hình thức này
đã bắt đầu được ghi nhận trong các hoạt động hợp tác đa phương. Và đến LĐT 2005, lần
đầu tiên hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC được quy định một cách hoàn chỉnh nhất,
và được cụ thể hóa tại Nghị định của Chính phủ số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LĐT.
Hợp đồng BCC là sự liên kết kinh doanh của hai hoặc nhiều bên. Liên kết trong kinh
doanh là việc một hoặc nhiều người (bao gồm các cá nhân hoặc tổ chức) kết hợp lại với
nhau để thực hiện một mục đích nào đó trong kinh doanh như liên kết độc quyền, liên kết
giữa các chủ thể kinh doanh để khai thác thị trường…Tuy nhiên không phải sự liên kết
nào trong kinh doanh cũng là liên kết kinh doanh, ví dụ các công ty taxi Hà Nội trước sự
đe doạ của việc phá giá của một công ty taxi từ thành phố Hồ Chí Minh xâm nhập thị
trường Hà Nội đã liên kết với nhau để giảm cước phí vận chuyển. Liên kết kinh doanh
phải thoả mãn điều kiện sau: Các bên cùng liên kết để thực hiện một hoặc một số hành vi
kinh doanh chung; các bên cùng đóng góp vốn hoặc công sức để tiến hành kinh doanh
chung; các bên cùng chia sẻ lợi nhuận và chịu lỗ.
Theo đó, hợp đồng hợp tác kinh doanh là liên kết kinh doanh có tính đối nhân, tính
đối nhân được thể hiện: Việc đóng góp vốn bằng tài sản không phải là điều kiện bắt buộc
để hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên cần lưu ý là hiện nay do pháp luật qui định không rõ
ràng cho nên điều khẳng định này chỉ mang tính lý thuyết. Pháp luật qui định rất cụ thể
việc góp vốn bằng tài sản vào công ty liên doanh là điều kiện bắt buộc để hình thành công
ty liên doanh. Song lại không có một điều luật nào bắt buộc các bên phải góp vốn khi
thành lập hợp doanh. Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 và
Nghị định 27/2003/NĐ- CP qui định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
qui định nội dung của hợp đồng phải gồm điều khoản về“ đóng góp của các bên hợp
doanh” nhưng lại không xác định rõ là đóng góp tài sản hay công sức. Nhưng các qui định
hiện hành lại định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đưa vốn bằng tài sản vào Việt
Nam để tiến hành đầu tư. Có trường hợp trong hợp đồng tác kinh doanh giữa công ty
Thông tin Điện tư hàng hải Việt Nam, công ty TNHH Thương mại Bình Minh và
Universal Telecom Service thì công ty Thông tin Điện tử hàng hải không góp vốn mà
đóng góp công sức là thực hiện việc điều hành toàn bộ mạng dự án. Còn hai công ty còn
lại có góp vốn và công sức mà các bên có quyền ngang nhau trong hoạt động quản lý và
điều hành hoạt động kinh doanh của thực thể kinh doanh được hình thành từ hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
Để phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp liên doanh cần chú ý
vào đặc điểm: Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập so với các bên liên
doanh còn thực thể được tạo ra bởi hợp đồng hợp tác kinh doanh không hoàn toàn độc lập
với các bên hợp doanh. Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh ( các bên hợp
doanh ) còn được gọi là nhóm hợp tác kinh doanh với nghĩa chỉ thực thể được tạo bởi sự
hợp doanh của các bên. Nhóm hợp tác kinh doanh tuy không có tư cách pháp nhân nhưng
lại được thực hiện hoạt động kinh doanh như một doanh nghiệp. Điều này được thể hiện ở
những điểm sau:
Nhóm hợp tác kinh doanh có thẩm quyền kinh doanh do giấy phép đầu tư cấp cho
hợp đồng hợp tác kinh doanh, ví dụ công ty A, công ty B ký hợp đồng hợp tác kinh doanh
kinh doanh trong lĩnh vực chế biến thực phẩm. Nhóm hợp tác kinh doanh hình thành bởi
A, B có thẩm quyền chế biến thực phẩm chứ không phải là riêng A hay B. Trong các giao
dịch liên quan đến thẩm quyền kinh doanh của cả nhóm thì A hoặc B thực hiện giao dịch
trên cơ sở đại diện của cả nhóm.
Nhóm hợp tác kinh doanh có quyền thuê tổ chức quản lý, mở chi nhánh, văn phòng
đại diện, bị áp dụng thủ tục thanh lý như một doanh nghiệp, có quyền tuyển dụng lao
động, có thể bị kiện, có quyền khởi kiện ( Điều 29- 30, 37- 44, 83 Nghị định số
24/2000/NĐ- CP, Nghị định 27/2003/NĐ- CP và Điều 24 Luật đầu tư nước ngoài năm
1996).
Nhóm hợp tác kinh doanh không phải là đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
và các loại thuế khác mà mỗi bên hợp doanh độc lập chịu trách nhiệm nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp cho nhà nước theo quy định của pháp luật áp dụng cho từng bên. Đây chính
là lợi thế của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh so với hình thức doanh nghiệp liên
doanh.
Theo đó, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là quan hệ đầu tư được thiết lập trên
cơ sở hợp đồng. Các nhà đầu tư tuy góp vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh, song
không thành lập bất kỳ một tổ chức kinh tế mới nào. Mọi quyền và nghĩa vụ của các bên
được quy định và thực hiện thông qua thỏa thuận.
Và tại LĐT 2005 đã quy định rõ các đối tượng được coi là nhà đầu tư tại Khoản 4
điều 3. Theo đó: “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp;
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã;
c) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi luật này có
hiệu lực;
d) Hộ kinh doanh, cá nhân;
đ) Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước
ngoài thường trú ở Việt Nam;
e) Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.”
Như vậy, có thể thấy, chủ thể của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh đã được mở rộng hơn so với quy định của pháp luật về đầu tư trước đây. Mọi tổ
chức, cá nhân là nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, thuộc sở hữu Nhà nước hay tư
nhân, chỉ cần thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam đều có thể
trở thành chủ thể của hình thức đầu tư này.
Đối với cá nhân (có đăng ký kinh doanh hoặc chưa có đăng ký kinh doanh) có thể
trở thành chủ thể của các quan hệ đầu tư do LĐT điều chỉnh;
Đối với nhà đầu tư nước ngoài: mọi dự án đầu tư đều thuộc diện phải làm thủ tục
đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư và giấy chứng nhận đầu tư đồng
thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Đối với nhà đầu tư trong nước: Những dự án đầu tư (kể cả hợp doanh) có quy mô
nhỏ dưới 15 tỷ đồng và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì không
thuộc diện phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. Những dự án thuộc diện phải làm thủ tục đầu
tư, yêu cầu về hồ sơ và các nội dung cần thẩm tra trong quy định hiện hành không đặt ra
vấn đề điều kiện về đăng ký kinh doanh của chủ thể.
Cho thấy, chủ thể của hợp đồng BCC không nhất thiết phải là tổ chức, cá nhân kinh
doanh.
Với nhà đầu tư trong nước thì pháp luật không quá can thiệp, được tự do thỏa thuận
và trong hợp đồng tồn tại 3 nội dung là bỏ vốn, phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro.
Với nhà đầu tư trong nước hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài thì hợp đồng phải
nhiều nội dung hơn về quyền lợi, trách nhiệm, phân chia kết quả kinh doanh… Ngoài ra