Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.7 KB, 111 trang )


1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Mua bán phụ nữ, trẻ em là một vấn nạn có tính toàn cầu và đang có xu
hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam không
phải là ngoại lệ. Mặc dù hiện tượng mua bán phụ nữ, trẻ em mới xuất hiện ở
Việt Nam khoảng hơn mười năm trở lại đây, song tính đa dạng, phức tạp cũng
như hậu quả mà loại hành vi này gây ra cho các nạn nhân, gia đình nạn nhân
và toàn xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em xâm
hại đến các quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp
Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong mười năm qua có hàng chục nghìn
phụ nữ, trẻ em bị mua bán ra nước ngoài. Cuộc đấu tranh phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định, đã xử
lý hình sự hàng trăm vụ với hàng nghìn đối tượng phạm tội. Tuy nhiên, tình
hình mua bán phụ nữ, trẻ em hiện nay có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn
năm trước và diễn biến rất phức tạp. Loại tội phạm này không chỉ xảy ra ở
các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, mà đã xuất hiện ở hầu
hết các tỉnh và thành phố trong cả nước. Tính chất và thủ đoạn hoạt động của
loại hành vi này ngày càng tinh vi, xảo quyệt và đang có xu hướng xuyên
quốc gia.
Hành vi phạm tội mua bán phụ nữ, trẻ em diễn ra rất đa dạng có thể là
thông qua các loại hình dịch vụ như: môi giới kết hôn; cho, nhận con nuôi,
xuất khẩu lao động, du lịch; hoặc cưỡng bức, bắt cóc...
Nhận thức sâu sắc về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mua
bán phụ nữ, trẻ em cũng như những diễn biến phức tạp của loại hành vi này,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy

2


phạm pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc phòng, chống mua bán
phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay hệ
thống văn bản đó đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chế hiệu quả
của công tác phòng, chống loại hành vi này. Để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói chung, tội phạm mua bán phụ nữ và
trẻ em nói riêng, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là cần phải tổng kết thực tiễn,
tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này; qua đó đề xuất các giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em trong
tình hình hiện nay. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề: "Hoàn
thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện
nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em được một số nhà lý luận
và cán bộ hoạt động thực tiễn quan tâm, nên cho đến nay đã có một số công
trình nghiên cứu, trong đó phải kể đến các công trình sau:
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: "Chương trình hành động về phòng
chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002)", Nhà xuất bản
Phụ nữ, Hà Nội, 1999;
- Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2002;
- Bộ Tư pháp: "Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam
trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán
người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004;
- Đỗ Thị Thơm: "Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2003;

3
- Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên

giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công
an nhân dân, số 7, 2003;
- Phạm văn Hùng: "Quán triệt chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010", Tạp chí Công an nhân
dân, số 10, 2004;
- Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới
Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ
Công an, 2004...
Bên cạnh đó, còn có một số luận văn cao học luật và các bài nghiên
cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Công an nhân dân, Cảnh sát nhân
dân, Kiểm sát...đề cập đến phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ trẻ em.
Các công trình, bài viết nêu trên bước đầu đã khái quát tình hình mua
bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam, đồng thời đề cập đến cơ sở pháp luật về công
tác phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, qua đó nêu ra những bất
cập, thiếu sót và đề xuất các giải pháp hoàn thiện những văn bản pháp luật
này. Do cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công
trình đó mới dừng lại ở các góc độ nhất định và vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng như pháp luật phòng,
chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Phạm vi nghiên cứu: Mua bán phụ nữ, trẻ em là vấn đề rất phức tạp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: y tế, giáo dục, lao động,
phúc lợi xã hội và tư pháp. Việc phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em có liên

4
quan đến đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực pháp luật
khác nhau. Do đó, trong khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi chủ

yếu tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến
công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em và từ đó nêu ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoàn
thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em góp phần cung cấp
cơ sở lý luận, thực tiễn để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này và nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống, tiến đến đẩy lùi loại tệ nạn này.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật
về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ
em ở Việt Nam.
- Tổng kết lý luận và đánh giá thực tiễn, dự báo tình hình, luận văn đề
xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán
phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em; đồng thời, trong quá

5
trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các phương pháp
nghiên cứu, cụ thể như: phân tích, tổng hợp, tư vấn, thống kê, so sánh, đối chiếu
luật, tổng kết thực tiễn...

6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và tương
đối toàn diện về hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em,
nên kết quả nghiên cứu của luận văn có những nội dung được coi là mới, có
đóng góp cho khoa học chuyên ngành, cụ thể là:
- Xây dựng khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em theo pháp luật Việt
Nam và theo tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 và các nghị định thư bổ sung công ước.
- Xác định các tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em.
- Phân tích, đánh giá có hệ thống pháp luật thực định liên quan trực
tiếp đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
- Đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật phòng,
chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Với kết quả nghiên cứu như đã nêu ở trên nên luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về
chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật ở các cơ sở đào tạo về
pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM VÀ
PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1.1.1 . Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em và các yếu tố cấu thành

hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em
Mua bán người nói chung trong đó có mua bán phụ nữ, trẻ em là một
hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài người bước vào giai đoạn
phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Ban đầu mua bán người là
việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau đó là các cuộc trao đổi phụ
nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế... giữa các quốc gia thời phong kiến. Cho đến
nay tệ nạn mua bán người mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ em vẫn tồn tại
và còn có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, với
các mục đích phi nhân đạo như: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn
trái ý muốn, lấy đi một bộ phận của cơ thể...
Mặc dù vậy, cho đến nay trong khoa học, cũng như trong thực tiễn
vẫn chưa có sự thống nhất khái niệm về buôn bán người.
Theo Công ước của Liên hợp quốc năm 1949 thì: "buôn bán người" là
hành vi mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm.Như vậy "buôn bán người"
không bao gồm hành vi mua bán đàn ông và trẻ em.
- Báo cáo đặc biệt của Liên hợp quốc về bạo hành ngược đãi phụ nữ
có nêu: Mua bán người là hành vi tuyển dụng, vận chuyển, mua bán, chuyển
giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực, bắt

7
cóc, lừa dối, ép buộc hoặc lạm dụng quyền lực vì mục đích bóc lột, cưỡng bức
lao động (kể cả lao động để trừ nợ) hay bắt kẻ hầu hạ.
- Vào năm 1962, Tổ chức quốc tế về nhân quyền (IHRLG), tổ chức
đấu tranh chống mua bán phụ nữ (STV) và liên minh toàn cầu chống mua bán
phụ nữ và một số tổ chức khác đã thống nhất đưa ra một định nghĩa về mua
bán người như sau: Tất cả mọi hành động và mưu toan hành động có liên
quan đến việc tuyển dụng, vận chuyển trong phạm vi quốc gia và xuyên biên
giới, mua bán, chuyển giao, tiếp nhận che giấu con người bằng cách lừa dối,
ép buộc (kể cả sử dụng, hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lạm dụng thẩm quyền)

hoặc bắt buộc trừ nợ vì mục đích xếp đặt hoặc lưu giữ người đó, cho dù trả
tiền hay không, trong việc phục vụ (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản), trong
lao động bắt buộc hoặc lao động trừ nợ, hoặc trong các điều kiện tương tự
như nô lệ, trong một cộng đồng, khác cộng đồng mà người đó đã sống tại thời
điểm trước khi bị lừa gạt, ép buộc hay gán nợ.
- Năm 1972, Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) và Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF) đưa ra khái niệm sau: Buôn bán người là hành vi tuyển dụng,
chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa dùng vũ lực, bắt
cóc, lừa dối, ép buộc, kể cả lạm dụng thẩm quyền, hay trừ nợ vì mục đích bố
trí hay bắt buộc người đó dù có được trả tiền hay không vào tình trạng lao
động cưỡng bức hoặc phải làm công việc tương tự như nô lệ trong một cộng
đồng khác mà người đó đã sống.
- Năm 1958, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm: Buôn
bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp
cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc những hình thức khác như
ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng
dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự
đồng ý của một người mà người đó đang cóc quyền kiểm soát một người
khác, nhằm mục đích bóc lột.Việc bóc lột bao gồm tối thiểu: bóc lột làm nghề

8
mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ
bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như nô lệ, khổ sai hay
cắt đi những bộ phận cơ thể.
- Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng phạt việc buôn bán
người đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (sau đây gọi tắt là Nghị định thư về buôn bán
người) bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm xuyên quốc gia năm
2000 đã đưa ra định nghĩa về "buôn bán người" được cộng đồng quốc tế thừa
nhận (117 nước ký, trong đó 46 nước phê chuẩn): Buôn bán người là hoạt
động tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người,

bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, ép buộc bắt cóc, lừa gạt, lừa dối, lạm
dụng quyền lực hoặc vị thế không được bảo vệ, hoặc trả tiền, hoặc lợi nhuận
cho người có quyền kiểm soát đối với nạn nhân, nhằm mục đích bóc lột, bao
gồm bóc lột thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cưỡng
bức, nô lệ hoặc hành vi tương tự như nô lệ và bị lấy đi các cơ quan nội tạng.
Sự đồng ý của nạn nhân không liên quan gì tới các yếu tố cấu thành
đối với loại tội phạm này khi phương tiện đạt được là bất hợp pháp, nạn nhân
vẫn được luật hình sự bảo vệ (Điều 3b Nghị định thư và Điều 10b Công ước).
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm "buôn bán người" ít được đề cập
do trên thực tế chưa thấy có vụ việc nào về buôn bán đàn ông. Pháp luật Việt
Nam chỉ quy định hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em. Dưới góc độ luật hình sự,
chúng ta có thể thấy tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em được quy định tại Điều 119
và Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên hai điều luật này không đưa
ra định nghĩa về các hành vi này. Cho đến nay, mới có một văn bản đề cập
đến định nghĩa về mua bán trẻ em, đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày
29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985.
Theo Nghị quyết này thì: "Mua bán trẻ em" được hiểu là "việc mua hoặc bán
trẻ em vì mục đích tự lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính

9
người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm
cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em. Tương tự như vậy khái niệm "mua bán
phụ nữ", được hiểu là việc mua hoặc bán phụ nữ vì mục đích tự lợi.
Như vậy, "mua bán phụ nữ, trẻ em" theo pháp luật Việt Nam được
hiểu chung là việc chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người hoặc một nhóm
người, sang một người hoặc một nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích
vật chất khác.
Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật
ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ em", cũng được một số văn bản qui phạm pháp luật

sử dụng, đó là: khoản 2 Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui
định: "Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán
phụ nữ..." [36]; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số
điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài: "Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết
hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ..." (Điều 21),
"Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em..." (Điều 35) [18]; khoản 2 Điều 24
Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: "Người nào môi giới mại dâm,
chứa mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em
để phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [49].
Như vậy, tổng hợp các quan niệm của pháp luật quốc tế về buôn bán
người nói chung, cũng như các qui phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng
chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin nêu khái
niệm mua bán phụ nữ, trẻ em như sau: mua bán phụ nữ, trẻ em là hành vi của
một người hoặc một nhóm người vì tư lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng
vũ lực hoặc dùng vũ lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và giao
nhận phụ nữ, trẻ em cho một người hoặc một nhóm người khác để được nhận
tiền hoặc lợi ích vật chất khác.

10
1.1.1.2. Các đặc điểm của hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em
Như chúng ta đã biết, hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được
biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất
định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của
chủ thể ý thức được và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con người
trong trạng thái vô thức không thể coi là hành vi. Hành vi phải được biểu đạt ra
bên ngoài bằng những phương thức khác nhau (hành động hoặc không hành
động), nghĩa là nó phải thể hiện trong thế giới khách quan thông qua những
thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể, mà các chủ thể khác có

thể nhận biết được điều đó. Do hành vi của các chủ thể được bộc lộ ra thế giới
khách quan nên nó mang tính xã hội (có ý nghĩa về mặt xã hội, có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến xã hội). Vì vậy, cần phải có sự giám sát và
điều chỉnh từ phía xã hội đối với hành vi của con người. Tùy theo tính chất đặc
điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi con người mà xã hội đặt ra những
tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào của
con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được xem là hành vi pháp
luật. Hành vi pháp luật nào được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của
pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp luật yêu cầu như thực hiện
quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không được làm những gì mà pháp luật
cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép) là hành vi hợp pháp. Hành
vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những
việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vượt
quá phạm vi cho phép của pháp luật là hành vi không hợp pháp (trái pháp luật)
[45, tr. 491). Theo phân tích trên, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" được hiểu
là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của những người
có đủ năng lực (năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán
phụ nữ, trẻ em". Như vậy, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" là hành vi bất hợp
pháp (vi phạm các điều 119, 120 Bộ luật hình sự năm 1999) và các yếu tố cấu

11
thành hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" sẽ bao gồm: một là, chủ thể thực hiện
hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" phải là người có đủ năng lực pháp luật và
năng lực hành vi; hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua
những thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi
"mua bán phụ nữ, trẻ em", mà các chủ thể khác có thể nhận biết được điều đó.
Từ phân tích nêu trên, nếu so sánh các biểu hiện hành vi mua bán phụ
nữ, trẻ em (được pháp luật xác định) theo các quy định của pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam cho thấy:
- Với Nghị định thư về buôn bán người thì hoạt động mua bán phụ nữ,

trẻ em sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao,
che giấu hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột.
- Theo những quy định của pháp luật Việt Nam thì hoạt động mua bán
phụ nữ, trẻ em chỉ là hành vi chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người (nhóm
người) sang một người (nhóm người) khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật
chất khác.
1.1.2. Khái niệm, vai trò của pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và
những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác nhau trong xã hội có giai
cấp. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính
tự nhiên phi giai cấp của con người như "pháp luật tự nhiên" quan niệm. Bên
cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Pháp luật là do nhà nước,
đại diện chính thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó
pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác nhau
trong xã hội. Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui

12
phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kẻ cả bằng biện pháp cưỡng
chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi
cho giai cấp thống trị [32, tr. 139-141].
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Ở Việt
Nam, vai trò của pháp luật đã được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992
là: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa" [31]. Như vậy, vai trò của pháp luật được thể hiện trên
các mặt cơ bản sau:

Một là, pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền
lực nhà nước: một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước
không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của
mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, khi
chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù
hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà
nước thì sẽ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng
chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ cồng kềnh
và kém hiệu quả. Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong
việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán
bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp
luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm... của đội ngũ viên
chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.
Hai là, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội:
nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức
năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội. Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng
nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan
trọng nhất. Pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của

13
Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô
rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền
lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ
quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân. Trong tổ chức và quản lý kinh
tế, pháp luật càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối
quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định
chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định chế độ tài chính, tiền
tệ, giá... toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích
cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát

triển đúng hướng của nền kinh tế mang lại hiệu quả thiết thực. Quá trình quản
lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.
Ba là, pháp luật góp phần tạo dựng quan hệ mới: bên cạnh chức năng
phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của
các quan hệ xã hội. Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình
huống (sự kiện) cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên ở những thời
điểm cụ thể trong xã hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù
hợp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường diễn ra với những
thay đổi thường xuyên. Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học,
người ta có thể dự kiến những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống
(sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Từ đó pháp luật
được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế
những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử nghiệm...
Bốn là, pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối
quan hệ bang giao giữa các quốc gia: pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn
định và trật tự xã hội cho một quốc gia. sự ổn định của mỗi quốc gia là điều
kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng quan hệ với các nước
khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ quốc tế giữa các

14
nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa
diện (nhiều mặt) cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các quan hệ đó là pháp
luật (pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia). Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ
thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới, đó là việc xây
dựng các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa người (tổ chức) trong nước với người (tổ chức) nước ngoài. Như
vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã
hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai
trò của pháp luật, phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn
diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong

nước, đồng thời phù hợp với những xu hướng phát triển chung của tình hình
quốc tế và khu vực [45, tr. 78-79].
Với những nhận thức như nêu trên, có thể đưa khái niệm và vai trò
của pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam như sau:
Pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam là một bộ
phận của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như
vậy, pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em vừa phản ánh ý nghĩa và
vai trò của pháp luật nói chung, vừa phản ánh ý nghĩa và vai trò của lĩnh vực
pháp luật cụ thể (phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em). Có thể nói, pháp luật
phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc phòng chống mua bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam. Từ đó có thể thấy vai trò của pháp luật phòng, chống
mua bán phụ nữ, trẻ em ở các khía cạnh sau:
- Là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước trên
lĩnh vực phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em;

15
- Là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, tạo cơ sở pháp lý thuận
lợi cho việc phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em;
- Là tạo môi trường ổn định cho việc hợp tác quốc tế về phòng chống
mua bán phụ nữ, trẻ em.
Qua phân tích các quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến
mua bán phụ nữ, trẻ em cho thấy, đây là lĩnh vực pháp luật mới được hình
thành, có quá trình phát triển từ chưa hoàn thiện đến từng bước được hoàn
thiện. Một đặc điểm đặc trưng nữa là, pháp luật về mua bán phụ nữ, trẻ em
gồm nhiều quy phạm thuộc nhiều ngành luật khác nhau như: luật hình sự, luật
dân sự, luật hành chính và các ngành luật khác... Các quy phạm này còn tản

mạn, thiếu hệ thống. Do đặc thù phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cần
phải có sự hợp tác quốc tế, nên pháp luật về mua bán phụ nữ, trẻ em có một
bộ phận là các quy định có liên quan đến pháp luật nước ngoài, luật quốc tế
và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong phòng chống mua
bán phụ nữ, trẻ em. Nhận thức các đặc điểm nêu trên có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định nhu cầu, nội dung, hình thức pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG,
CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật phòng, chồng mua bán phụ
nữ, trẻ em
Trong Từ điển tiếng Việt tính từ hoàn thiện có nghĩa là tốt và đầy đủ
đến mức không cần phải làm gì thêm nữa; còn động từ hoàn thiện có nghĩa là
làm cho hoàn thiện [46, tr. 450]. Như vậy, hoàn thiện pháp luật phòng, chống
mua bán phụ nữ, trẻ em được hiểu là công việc loại bỏ, sửa đổi, bổ sung, xây
dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm tạo ra hệ thống các qui
phạm pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và

16
hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với những xu hướng phát triển
chung của tình hình quốc tế và khu vực, để việc phòng chống mua bán phụ
nữ, trẻ em đạt hiệu quả tối ưu; theo đó là những nội dung sau:
+ Loại bỏ các văn bản quy phạm pháp luật, những chế định luật, đã
lạc hậu, bất cập, không còn phù hợp đối với việc phòng chống mua bán phụ
nữ, trẻ em.
+ Sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật, những chế
định luật điều luật đã lạc hậu, bất cập cho phù hợp với thực tế.
+ Xây dựng mới các văn bản qui phạm pháp luật: đối với những vấn
đề mới phát sinh trong xã hội (quan hệ xã hội mới), nhưng chưa có văn bản
quy phạm pháp luật nào điều chỉnh thì cần phải xây dựng ngay những văn

bản, chế định, điều luật mới để điều chỉnh.
1.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em
Pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em là một bộ phận hợp
thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Do vậy, tiêu chí hoàn thiện pháp luật
phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em được xây dựng trên cơ sở tiêu chí hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và đánh giá khái quát hệ thống pháp luật
hiện hành về phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam.
1.2.2.1. Tiêu chí hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
Có nhiều tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống
pháp luật trong đó có bốn tiêu chí cơ bản là:
- Tiêu chí về tính toàn diện: tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể
hiện mức độ hoàn thiện của một văn bản qui phạm pháp luật hoặc của cả hệ
thống pháp luật. Tiêu chí này có ý nghĩa trong việc "định lượng" một văn bản
qui phạm pháp luật cũng như cả hệ thống pháp luật. Do đó, nó có ý nghĩa rất

17
quan trọng, vì chỉ trên cơ sở "định lượng" mới có thể tiếp tục nghiên cứu để
"định tính" trong xây dựng pháp luật nói chung.
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật được thể hiện ở hai cấp độ:
+ Ở cấp độ chung đối với hệ thống pháp luật, đòi hỏi hệ thống pháp
luật phải có đủ các ngành luật theo cơ cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống
nhất trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật tương ứng.
+ Ở cấp độ cụ thể đối với mỗi ngànhh luật, mỗi văn bản qui phạm
pháp luật phải có đủ các chế định pháp luật, các qui phạm pháp luật.
- Tiêu chí về tính đồng bộ: tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của
pháp luật. Một hệ thống pháp luật sẽ là chưa hoàn thiện khi các bộ phận của
hệ thống đó có sự trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn. Tính đồng bộ của hệ
thống pháp luật cũng thể hiện ở hai cấp độ:
+ Ở cấp độ chung, đó là sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau. Để

đạt tới mục tiêu này, cần giải quyết hai vấn đề lớn: một là, phải xác định rõ
ranh giới giữa các ngành luật; hai là, phải tao ra một hệ thống qui phạm pháp
luật cơ bản (thể hiện trong các văn bản luật) để tạo cơ sở củng cố tính thống
nhất của toàn hệ thống pháp luật.
+ Ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất, không mâu
thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định luật
và giữa các qui phạm pháp luật với nhau. Để tạo ra tính đồng bộ trong mỗi
ngành luật, phải giải quyết triệt để, đúng đắn mối quan hệ giữa ngành luật-chế
định pháp luật-qui phạm pháp luật. Điều đó đòi hỏi một mặt phải có quan
điểm tổng quát để có thể xác định tính chất chung của mỗi ngành luật, cơ cấu
các chế định, mặt khác phải có quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác các tình
huống và hoàn cảnh cụ thể, từ đó đề ra các qui phạm phù hợp.
- Tiêu chí về tính phù hợp: tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể
hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát

18
triển kinh tế xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát
triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát
triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều mặt như là:
phù hợp với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy
phạm xã hội khác.
Tiêu chí hệ thống pháp luật phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật
pháp lý cao; kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba
điểm quan trọng đó là:
+ Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra
để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật;
+ Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu
của pháp luật;
+ Cách biểu đạt ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc,
chính xác và một nghĩa [39, tr. 408-409].

Mặc dù cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có một đạo luật
riêng về phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em. Nhưng, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành đã có các qui định về bảo vệ phụ nữ, trẻ em theo
các nội dung sau:
- Các qui định mang tính phòng ngừa nhằm ngăn chặn nhưng nguyên
nhân, điều kiện và hoàn cảnh dẫn đến các hành vi mua, bán phụ nữ, trẻ em.
- Các qui định mang tính trừng phạt, răn đe được áp dụng đối với các
hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc mua, bán phụ nữ, trẻ em,
đó là các chế tài hành chính và chế tài hình sự được áp dụng đối với các vi
phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, các qui định hiện hành nêu trên đã bộc lộ ra những bất cập,
thiếu sót, nên đã hạn chế hiệu quả của công tác phòng, chống mua, bán phụ
nữ, trẻ em.

19
1.2.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em
Xác định của tiêu chí để hoàn thiện pháp luật trong từng lĩnh vực xã
hội nói chung, trong lĩnh vực phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng
có ý nghĩa rất quan trọng để xác định phương hướng chung các nhiệm vụ
cụ thể để hoàn thiện pháp luật. Là một lĩnh vực pháp luật mới hình thành
và phát triển ở nước ta nên việc xác định được các tiêu chí để hoàn thiện
pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng gặp không ít khó khăn.
Tuy nhiên, vận dụng lý luận chung về nhà nước và pháp luật, phân tích hệ
thống pháp luật Việt Nam, dự kiến các nội dung cần điều chỉnh của các quan
hệ xã hội trong phòng, chống mua bán, phụ nữ, trẻ em, chúng tôi cho rằng
hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em theo những tiêu
chí như sau:
Thứ nhất, tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp: Điều 146 Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 qui định: "Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp" [31]. Như vậy, pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, cũng
như các lĩnh vực pháp luật khác, khi hoàn thiện đều phải tuân thủ nguyên tắc
pháp chế - nguyên tắc tạo nên sự phù hợp trong hệ thống pháp luật. Cụ thể là
phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp.
Thứ hai, tiêu chí về tính đầy đủ, đồng bộ: phòng, chống mua bán phụ
nữ, trẻ em là một vấn đề phức tạp, nó liên quan đến nhiều ngành luật, nhiều
lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do vậy, hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em phải đảm bảo tính đầy đủ và đồng bộ, bởi vì chỉ khi có đầy
đủ các qui phạm pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em (tính toàn
diện) và các qui phạm pháp luật này không có sự trùng lặp, chồng chéo hay
mâu thuẫn (tính thống nhất) trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội

20
phát sinh trong công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, thì công tác
này mới phát huy hiệu quả.
Thứ ba, tiêu chí về tính khả thi và hiệu quả: pháp luật nói chung cũng
như pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng, với những thuộc
tính của mình đã trở thành một công cụ quản lý xã hội không thể thay thế trong
thời đại hiện nay và cũng không có một công cụ quản lý nào có thể so sánh với
pháp luật về tính hiệu quả trong quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, để tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật thì một trong
những yêu cầu quan trọng là phải nâng cao hiệu quả của pháp luật, phát huy tới
mức cao nhất vai trò và những giá trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp
luật có hiệu quả phải là pháp luật phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước, phải góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đưa
lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy hiệu quả trong pháp luật
phải bao hàm tất cả những gì phản ánh khả năng tác động tốt nhất, nhiều nhất
của pháp luật lên các quan hệ xã hội, phản ánh sự hiện thực hóa những giá trị

của pháp luật mà nhà làm luật dự tính khi ban hành pháp luật [45, tr. 513].
1.3. YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN
PHỤ NỮ, TRẺ EM
1.3.1. Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em
để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng
1.3.1.1. Quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói
riêng là những quyền hiến định
Ngay từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các quyền cơ
bản của con người nói chung trong đó có quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được
bản hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) ghi nhận như một lời khẳng định
về một nền dân chủ thực sự được thiết lập lần đầu tiên tại Đông Nam Á. Điều 9
Hiến pháp năm 1946 qui định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi

21
phương diện"; Điều 14 Hiến pháp năm 1946 qui định: "Những người công dân
già cả hoặc người tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được
chăm sóc về mặt giáo dưỡng". Cùng với sự phát triển của đất nước, quyền phụ
nữ và trẻ em ngày càng được ghi nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn tại các
bản hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 qui định:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình
đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng
lương ngang với nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công
nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn
hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và
của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn
trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình [31].
Điều 63 Hiến pháp năm 1980 qui định:
Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm

lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề
nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong
xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện
của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới làm việc như nhau thì tiền lương
ngang nhau. phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn
hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức hoặc hưởng phụ
cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã. Nhà nước và xã hội chăm lo
phát triển nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và
những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ
nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi [31].
Điều 65 Hiến pháp năm 1980 qui định: "Nhà nước và xã hội chú
trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc

22
đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của
trẻ em được bảo đảm". Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định:
Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi
hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau.
Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức
nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau
khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo qui định của pháp
luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ
mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội;
chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và cá cơ sở
phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện
phát triển cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh nghỉ
ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ [31].
Điều 65 Hiến pháp năm 1992 qui định: "Trẻ em được gia đình, nhà nước

và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục". Cụ thể hóa các qui định của hiến pháp
về quyền phụ nữ và trẻ em, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành một lần nữa
đã khẳng định quyền phụ nữ và trẻ em được đảm bảo trên các mặt của đời sống
xã hội như: Bộ luật hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Bộ
luật lao động năm 2002; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp
lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm2004; Bộ luật lao động năm 2005...và nhiều văn bản pháp luật khác.
Như vậy, quyền phụ nữ, trẻ em là quyền con người, được ghi nhận
trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước ta qua các thời kỳ. Các quyền
này được ghi nhận về bản chất là quyền hiến định và có nội dung ngày càng
được hoàn thiện. Quyền phụ nữ, trẻ em không chỉ được quy định trong Hiến
pháp, mà Nhà nước ta còn cụ thể hóa các quyền này trong hệ thống văn bản

23
quy phạm pháp luật. Theo đó, đã tạo thành một hệ thống văn bản về quyền
của phụ nữ và trẻ em.
1.3.1.2. Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em
để bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em
Chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn đó là, trong khi quyền con
người nói chung, cũng như quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được hiến pháp và
nhiều văn bản pháp luật khác ghi nhận và bảo vệ, thì lại có một bộ phận phụ nữ
và trẻ em - những nạn nhân của hành vi mua bán người, đã và đang bị chà đạp lên
phẩm giá, bị tước bỏ quyền được sống hạnh phúc và bình yên. Có thể nói rằng,
mua bán phụ nữ, trẻ em là một tệ nạn và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, tốc độ đô thị hóa nhanh, cũng như quá trình hội nhập kinh tế thế giới đã
làm cho tệ nạn này có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại. Để ngăn chặn, tiến tới
loại bỏ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách, văn bản qui phạm pháp luật. Tuy nhiên, trước
những diễn biến hết sức phức tạp của tệ nạn này, hệ thống văn bản qui phạm
pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chế hiệu quả

của công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật
phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em là để nâng cao hiệu quả của công tác phòng,
chống mua bán phụ nữ, trẻ em để bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em.
1.3.2. Hoàn thiện pháp luật ở nước ta đòi hỏi phải hoàn thiện các
lĩnh vực pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ,
trẻ em nói riêng
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những
tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được
đổi mới, nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp
lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... nguyên tắc pháp

24
quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế, công
tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ
đó đã góp phần thể chế hóa đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội của đất nước. Nhưng, nhìn chung hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm
đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và
chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh
còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ
chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được
quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật còn hạn chế, thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.
Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được
một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến
lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu
lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành

pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, ngày 24 tháng 5 năm 2005 Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết
số 48-NQ/TW đã đề ra mục tiêu: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi
mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực
của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững

25
mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự, do dân chủ của công dân, góp phần
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Như vậy, pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em sẽ là một
trong những lĩmh vực pháp luật tất yếu cần phải được hoàn thiện khi đặt trong
tổng thể chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo tinh thần của Nghị quyết số
48-NQ/TW của Bộ Chính trị.
1.3.3. Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống mua bán phụ nữ,
trẻ em đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này
Mua bán người nói chung trong đó có mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng
đã không còn là vấn đề của riêng bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đã vượt qua
biên giới mỗi quốc gia và trở thành vấn nạn mang tính toàn cầu. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề hợp tác quốc tế trong việc ngăn chặn và loại bỏ tệ nạn
mua bán phụ nữ, trẻ em, Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên của nhiều
điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em như: Công

ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (phê chuẩn
17/02/1982), Công ước về quyền trẻ em (phê chuẩn 28/09/1990), Nghị định thư
không bắt buộc bổ sung cho công ước về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (phê chuẩn 20/12/2001), Nghị
định thư không bắt buộc bổ sung cho công ước về quyền trẻ em về sự tham gia
của trẻ em trong xung đột vũ trang (phê chuẩn 20/12/2001), Công ước số 182 về
cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất (phê chuẩn 19/12/2000), Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia (ký 13/12/2000). Như đã nêu, mua bán phụ nữ và trẻ
em đã và đang là vấn nạn toàn cầu, các quốc gia trong đó có Việt Nam phải hợp
tác quốc tế để đấu tranh phòng, chống tệ nạn này. Tuy nhiên, so sánh các quy
phạm của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã tham gia (đã phê chuẩn),
cho thấy còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, so sánh, đối chiếu để xác định

×