1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp,
lâm nghiệp, là một bộ phận không thể tách rời lãnh thổ quốc gia, gắn liền với
chủ quyền quốc gia, là nơi trên đó, con người xây dựng nhà cửa, các công
trình kiến trúc…; là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa; là nơi phân bổ các
vùng kinh tế, các khu dân cư; là thành quả cách mạng của cả dân tộc; là cơ sở
để phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi trường, duy trì sự sống của con người
và sinh vật. C.Mác đã khái quát vai trò kinh tế của đất đai: "Đất là mẹ, sức lao
động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất" [24, tr. 189].
Đất đai có vai trò quan trọng như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm vấn đề đất đai, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. Chánh
cương vắn tắt của Đảng năm 1930 đã chỉ rõ: "Thâu tóm hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày". Ngay sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh, đạo luật
để quản lý đất đai. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chưa hoàn
thành, ngày 04/12/1953, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành
Luật Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ sự bóc lột của đế quốc, phong kiến do
chiếm hữu đất đai mang lại. Cũng từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ trương, đường lối, chính
sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp với sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Một trong các biện pháp hữu hiệu được Nhà nước chú trọng để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai đó là xử lý các vi phạm
hành chính về đất đai. Các văn bản quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm
hành chính về đất đai là Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng
2
Chính phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh; Pháp lệnh Xử phạt vi phạm
hành chính ngày 30/11/1989 của Hội đồng Nhà nước; Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính ngày 06/7/1995 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định
04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Nghị
định 182/2004/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm
thực tiễn thi hành Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ phù
hợp với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002, có tính đến các
yêu cầu mới về đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật đất đai trong điều
kiện nước ta mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Các văn bản trên đã góp phần lập lại trật tự trong quản lý, sử
dụng đất đai, hạn chế những tiêu cực nảy sinh.
Tuy nhiên, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặc dù
Nhà nước có nhiều văn bản để quản lý và xử lý vi phạm về đất đai, nhưng do
đất đai trở thành hàng hóa mà giá trị của nó ngày càng tăng với tốc độ rất cao,
lợi nhuận thu được từ việc mua bán đất đai không có mặt hàng và nghề kinh
doanh nào sánh nổi. Vì vậy, những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trục lợi
từ đất diễn ra ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Những hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm
nhưng diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giờ, không những gây khó khăn
cho quản lý nhà nước về đất đai, mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp,
mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân dân và xã hội; nhiều khi chuyển hóa thành
vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm chí trở thành vấn đề chính trị. Về mặt
thực tiễn, do chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ nên xử lý không kiên
quyết, thiếu nghiêm minh dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm
ngày càng tràn lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về vi phạm
hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai góp phần lập
3
lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước về
đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như thực tiễn đặt ra.
Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc lưu vực sông Hồng, là tỉnh thuần
nông, diện tích đất tự nhiên 154.542,0396 ha, dân số 1.845.000 người [6, tr. 3].
Nhiều thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, người dân Thái Bình
đã lao động cần cù, "một nắng, hai sương", sử dụng đất có hiệu quả, ít có vi
phạm pháp luật đất đai; đã lập nên những kỳ tích với "Bài ca 5 tấn", rồi 10
tấn, 12 tấn thóc/ha… Nhưng rồi, tháng 5/1997, Thái Bình đã xảy ra khiếu
kiện đông người, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; một trong
những nguyên nhân đó là do "... cấp đất, bán đất trái thẩm quyền một cách
phổ biến; chính quyền ở nhiều cơ sở đã lạm dụng việc xử phạt hành chính
một cách tùy tiện, trái quy định, quá sức chịu đựng của dân, gây bất bình
trong dân" [47, tr. 7]. Sau sự kiện trên, các cấp, các ngành trong tỉnh đã rút
kinh nghiệm; đề ra các chủ trương, giải pháp sửa chữa, khắc phục những khuyết
điểm, thiếu sót, chấn chỉnh công tác quản lý, xử phạt vi phạm hành chính về
đất đai, vì vậy các vi phạm pháp luật về đất đai ngày càng giảm. Những năm
gần đây, Thái Bình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụ; xây dựng nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập
trung; với phong trào "xây dựng cánh đồng đạt giá trị sản xuất 50 triệu
đồng/ha/năm và hộ gia đình có thu nhập đạt 50 triệu đồng/ha/năm" [53, tr. 1].
Với quyết tâm trên, Thái Bình từ tỉnh có thu ngân sách trên địa bàn đạt 235 tỷ
đồng năm 2001, đã vinh dự được vào câu lạc bộ tỉnh có thu ngân sách trên địa
bàn đạt 1.000 tỷ đồng năm 2004. Nhưng bên cạnh đó:
Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở cấp xã, cấp huyện
trong tỉnh còn bị buông lỏng; còn tình trạng cấp đất, giao đất sai thẩm
quyền. Một số địa phương lợi dụng chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi đã chuyển đổi không đúng mục đích theo quy định
của tỉnh. Một số doanh nghiệp trong cụm công nghiệp của huyện
4
Đông Hưng còn vi phạm nghiêm trọng Luật Đất đai. Việc xử lý các
vi phạm trên chưa kịp thời, gây bức xúc trong nhân dân [76, tr. 8].
Chính vì vậy, làm thế nào để hạn chế các vi phạm hành chính về đất đai,
bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính về đất đai, đặc
biệt là với Thái Bình, một tỉnh "đất chật, người đông" thì càng trở thành những
yêu cầu bức xúc. Là giảng viên giảng dạy môn Quản lý Nhà nước - Luật tại
Trường Chính trị Thái Bình, qua thực tiễn giảng dạy, qua tìm hiểu thực tế vi
phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình và xuất phát từ những yêu cầu bức
xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi lựa chọn đề tài "Vi phạm hành chính
về đất đai ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp khắc phục" để nghiên cứu,
nhằm góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ở
Thái Bình trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Nội dung vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy
cảm; nhưng do nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực
tiễn của vấn đề này, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau như: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân
Hoan - Nguyễn Trí Hòa (1993), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Hỏi đáp về
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga
(1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành
chính của Phạm Dũng - Hoàng Sao (1998), Nxb Pháp lý, Hà Nội; Chế tài
hành chính - Lý luận và thực tiễn của tiến sĩ Vũ Thư (2000), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Luật học
của Bùi Minh Thanh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vi
phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan và giải pháp xử lý, Luận
văn thạc sĩ Luật học của Lê Nguyễn Nam Ninh (2004), Học viện Hành chính
5
Quốc gia, Hà Nội... Hoặc một số công trình có đề cập nội dung rất nhỏ liên
quan đến vi phạm pháp luật nói chung như: Chính sách đất đai của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Tôn Gia Huyên (trong cuốn Bình
luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2002); Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam của Phạm Hữu Nghị, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, 8/2002; Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất
đai trong giai đoạn hiện nay của tiến sĩ Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý
nhà nước, 4/2001; Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai qua thực
tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Mạnh Hùng
(2003), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội…
Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ đề cập đến vi phạm pháp luật,
vi phạm hành chính nói chung; hoặc vi phạm pháp luật ở lĩnh vực cụ thể là
hải quan; hoặc ở một phạm vi rộng hơn, trong đó có nội dung nhỏ đề cập đến
vi phạm pháp luật nói chung về đất đai…; mà chưa đề cập đến vi phạm hành
chính về đất đai, đặc biệt cụ thể là ở tỉnh Thái Bình. Chính vì vậy, đề tài "Vi
phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp khắc
phục" được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề vi phạm hành chính
về đất đai ở một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng, chống vi phạm hành chính
về đất đai ở Thái Bình hiện nay.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, phân tích lý luận chung về vi phạm pháp luật và vi
phạm hành chính.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về vi phạm hành
chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
6
- Phân tích thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính về đất đai ở Thái Bình.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm hành
chính về đất đai ở Thái Bình trong thời gian tới.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ tháng 7/1995 (thời gian Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính năm 1995 có hiệu lực thi hành) đến hết năm 2004.
- Về nội dung và không gian: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu một vấn
đề cụ thể là vi phạm hành chính về đất đai tại Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời dựa trên quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật nói chung, về quản lý nhà nước đối
với đất đai, trong đó có xử lý vi phạm hành chính về đất đai nói riêng.
+ Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lênin;
kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê...
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
+ Luận văn là công trình đầu tiên dưới góc độ chuyên ngành Lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai ở Thái Bình. Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và các quy
định của pháp luật về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai, phân tích đánh giá thực trạng vi phạm hành chính về đất đai,
từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường phòng, chống vi
7
phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình góp phần tăng cường quản lý nhà
nước về đất đai ở Thái Bình cũng như trên phạm vi cả nước.
Ngoài những đóng góp chung nêu trên luận văn còn có những đóng
góp mới cụ thể sau đây:
- Luận văn góp phần nghiên cứu khái niệm, đặc điểm vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai.
- Phân tích tình hình diễn biến phức tạp và khẳng định yêu cầu bức
xúc của việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phù hợp với thực tiễn của Thái
Bình mang tính kiến nghị để các nhà quản lý cũng như những người trực tiếp
thi hành xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình nghiên
cứu vận dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
8
Chơng 1
CƠ Sở Lý Luận Và quy định của pháp luật
Về VI Phạm Hành Chính, xử lý vi phạm hành chính
TRONG Lĩnh Vực Đất ĐAI
1.1. Khái niệm và đặc điểm vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật
a) Khái niệm vi phạm pháp luật và cấu thành vi phạm pháp luật
+ Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn của hành
vi con ngời. Hành vi là những phản ứng, cách ứng xử đợc biểu hiện ra bên
ngoài của con ngời trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Mỗi hành
vi đều đợc hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể, mà chủ
thể ý thức đợc và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con ngời
không thể coi là hành vi, nếu con ngời hoạt động trong trạng thái vô thức.
Trong hoạt động của mỗi ngời thờng có rất nhiều hành vi khác nhau
đợc thể hiện bằng những phơng thức khác nhau trong quá trình sản xuất,
trao đổi, sinh hoạt hàng ngày trong cuộc sống. Song tùy theo tính chất, đặc
điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi con ngời mà xã hội đặt ra những
tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào
của con ngời đợc pháp luật quy định, điều chỉnh thì đợc gọi là hành vi
pháp luật. Hành vi pháp luật gắn liền với các quy định của pháp luật, những
hành vi không đợc pháp luật quy định, điều chỉnh thì không phải là hành vi
pháp luật.
Hành vi pháp luật rất đa dạng nên có thể phân chia chúng dựa theo
nhiều tiêu chí khác nhau.
9
- Căn cứ vào phơng thức biểu đạt ra bên ngoài có thể chia hành vi
pháp luật thành hành vi hành động và hành vi không hành động.
Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những
thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao
thông trên đờng phố...
Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng
cách không tiến hành những thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi không tố
giác ngời phạm tội, hành vi không cứu giúp ngời đang trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng...
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp luật thành
hành vi của cá nhân và hành vi (hoạt động) của tổ chức...
- Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp luật có thể
chia hành vi pháp luật thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp.
Hành vi hợp pháp là những hành vi đợc thực hiện phù hợp với yêu
cầu, đòi hỏi của pháp luật.
Hành vi không hợp pháp là hành vi đợc thực hiện trái với những quy
định của pháp luật nh không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những
việc mà pháp luật cấm, hành động vợt quá phạm vi cho phép của pháp luật...
Hành vi không hợp pháp đợc phân thành hành vi vi phạm pháp luật
và những hành vi trái pháp luật nhng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái
pháp luật, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Vậy
muốn xác định hành vi vi phạm pháp luật thì phải dựa vào các dấu hiệu cơ
bản sau:
Thứ nhất, là hành vi nguy hiểm cho xã hội: Nh ta đã biết các quy
định của pháp luật đợc đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con ngời. C. Mác
đã nhấn mạnh:
10
Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối
với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tợng của nó. Những
hành vi của tôi - đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm với
pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn
tại, quyền hiện thực, và nh vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực
của pháp luật hiện hành [25, tr. 19].
Cho nên vi phạm pháp luật trớc hết là hành vi của con ngời hoặc là
hoạt động của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội... nguy hiểm hoặc có
khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu
hiệu hành vi là không thể thiếu đợc, nói cách khác, không có hành vi nguy
hiểm của con ngời thì không có vi phạm pháp luật.
Thứ hai, là hành vi trái pháp luật: Đó là hành vi xâm hại tới các quan
hệ xã hội đợc pháp luật xác lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật không những
phải có dấu hiệu là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn phải có dấu hiệu trái
pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội đợc pháp luật xác lập và bảo vệ.
Thứ ba, có lỗi của chủ thể: Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là biểu hiện
bên ngoài của hành vi, để xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ
quan của hành vi, nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với
hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật đợc thực hiện
do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực hiện hành vi đó
không cố ý và cũng không vô ý hoặc không thể nhận thức đợc, từ đó không
lựa chọn đợc cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể thực hiện
hành vi đó không bị coi là có lỗi và hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp
luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể buộc phải thực hiện khi
không có sự lựa chọn khác cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật.
Thứ t, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý: Năng lực trách
nhiệm pháp lý là khả năng tự mình chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp
11
luật trớc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Vì vậy, chủ thể của vi phạm pháp
luật phải là những ngời đã đạt tới một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh
tâm thần và các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử sự. Do
đó, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những ngời đã
đạt đợc một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí.
Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại
các quan hệ xã hội đợc pháp luật bảo vệ.
+ Cấu thành vi phạm pháp luật
Là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật đợc cấu thành bởi mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: Là những biểu hiện ra bên
ngoài của vi phạm pháp luật, bao gồm: Hành vi trái pháp luật; hậu quả do
hành vi trái pháp luật gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội.
Ngoài những yếu tố trên trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật
còn có các yếu tố khác nh thời gian, địa điểm, phơng tiện và công cụ vi phạm...
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Là những biểu hiện tâm lý bên
trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó bao gồm những yếu tố nh:
Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể
đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Khoa học
pháp lý chia lỗi ra thành hai loại lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực
tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
Động cơ vi phạm: Động cơ đợc hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thờng khi thực hiện hành vi vi
12
phạm pháp luật chủ thể thờng đợc thúc đẩy bởi một động cơ nào đó. Động
cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, hay đê hèn...
Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình, chủ thể mong muốn đạt đợc khi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt đợc
trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt
đợc. Chẳng hạn, H chỉ muốn làm K đau (mục đích gây thơng tích) nhng
kết quả thực tế K chết (cái chết của K nằm ngoài mong muốn của H).
- Chủ thể vi phạm pháp luật: Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá
nhân hoặc tổ chức có năng lực chủ thể, nghĩa là theo quy định của pháp luật
thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi trái pháp luật của mình.
- Khách thể vi phạm pháp luật: Là những quan hệ xã hội đợc pháp
luật bảo vệ, nhng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã
hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất
và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật.
b) Phân loại vi phạm pháp luật
Hiện tợng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, nên có thể
phân chia vi phạm pháp luật theo nhiều tiêu chí khác nhau.
+ Theo loại quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bị xâm hại, thì vi phạm
pháp luật phân thành vi phạm pháp luật về tài chính, vi phạm pháp luật về lao
động, vi phạm pháp luật về đất đai, vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp
luật dân sự...
+ Theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì vi phạm pháp
luật phân thành vi phạm pháp luật là tội phạm và vi phạm hành chính.
+ Theo tính chất vi phạm và trách nhiệm pháp lý, thì vi phạm pháp luật
phân thành vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành
chính, vi phạm kỷ luật Nhà nớc.
13
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): Là hành vi nguy hiểm cho xã
hội đợc quy định trong Bộ luật Hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật XHCN (khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự) [33, tr. 19].
- Vi phạm dân sự: Là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới
những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân...
- Vi phạm kỷ luật nhà nớc: Là những hành vi có lỗi, trái với những quy
chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trờng học..., nói
cách khác, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ đợc đề
ra trong cơ quan, xí nghiệp, trờng học đó... Cần chú ý là chủ thể vi phạm kỷ
luật có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức, học sinh, sinh
viên...) có quan hệ ràng buộc với cơ quan, xí nghiệp, trờng học... nào đó.
- Vi phạm hành chính: Nói khái quát là hành vi nguy hiểm cho xã hội,
trái pháp luật, do tổ chức, cá nhân thực hiện nhng cha đến mức là tội phạm
hình sự. Vấn đề này là cơ sở lý luận của vấn đề mà luận văn nghiên cứu, sẽ
đợc trình bày trong phần 1.1.2 dới đây.
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách
nhiệm đối với ngời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính
a) Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so
với tội phạm hình sự nhng vi phạm hành chính là những hành vi gây thiệt hại
14
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nớc, của tập thể, của cá nhân
cũng nh lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu nh không
đợc ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và
chống vi phạm hành chính luôn là vấn đề đợc xã hội ta quan tâm. Từ trớc
đến nay Nhà nớc ta đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật quy định về vi
phạm hành chính và các biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này, trong đó
phải kể đến Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều
lệ Xử phạt vi cảnh và hàng loạt các nghị định khác quy định cụ thể về vi phạm
hành chính và việc xử lý các vi phạm hành chính đó trên các lĩnh vực khác
nhau của quản lý hành chính nhà nớc.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi
phạm này, đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội
phạm, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để xử lý cũng nh đấu tranh phòng, chống
một cách có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đa ra
một khái niệm chính thức.
Về phơng diện lý luận cũng nh thực tiễn, khái niệm vi phạm hành
chính phải phản ánh đầy đủ những dấu hiệu đặc trng của loại vi phạm này,
trong đó thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của chúng, đồng thời cũng
phải thể hiện đợc sự khác biệt giữa loại vi phạm này với tội phạm về mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên đợc nêu ra trong Pháp
lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã
ghi rõ: "Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nớc mà không phải là tội
phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính".
Tại khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi
phạm hành chính cũng đợc định nghĩa một cách gián tiếp:
15
Xử phạt vi phạm hành chính đợc áp dụng đối với cá nhân,
cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nớc mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính [86, tr. 6].
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, song quan niệm về vi phạm hành
chính trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những
dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung
đã đợc nêu ra trong hai văn bản pháp luật nêu trên, có thể đa ra khái niệm
về vi phạm hành chính nh sau:
Vi phạm hành chính là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức vi
phạm các quy định của pháp luật mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
b) Đặc điểm của vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không
cần xác định các dấu hiệu pháp lý của chúng. Các dấu hiệu pháp lý này đợc
thể hiện ở bốn yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
+ Dấu hiệu trong mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là
hành vi vi phạm hành chính. Nh vậy, khi xem xét để đi đến kết luận rằng hành
vi của cá nhân hay tổ chức có phải là vi phạm hành chính hay không thì ta phải
có những căn cứ pháp lý xác định hành vi đó phải đợc pháp luật quy định là
hành vi vi phạm hành chính và hành vi đó phải bị xử phạt bằng các biện pháp xử
phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng "nguyên tắc suy đoán" hoặc "áp
dụng tơng tự pháp luật" trong việc xác định vi phạm hành chính đối với các tổ
chức và cá nhân.
16
Đối với một số loại vi phạm hành chính thì dấu hiệu trong mặt khách
quan của nó còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Những yếu tố
khác, có thể là:
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm;
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm;
- Công cụ, phơng tiện vi phạm;
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
+ Dấu hiệu trong mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu
hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi, thể
hiện dới dạng lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Cụ thể, ngời thực hiện hành vi này phải
trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nhng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức đợc điều đó hoặc
nhận thức đợc nhng vẫn cố tình thực hiện vi phạm. Còn nếu chủ thể thực
hiện hành vi đó khi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi thì chúng ta kết luận rằng không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm
hành chính, thì trong một số vi phạm hành chính cụ thể, pháp luật còn xác
định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc. Vì thế, khi xử phạt cá nhân, tổ
chức về vi phạm hành chính này cần xác định rõ hành vi của họ có thỏa mãn
đầy đủ dấu hiệu mục đích hay không, ngoài việc xem xét các dấu hiệu khác.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính,
thì dấu hiệu lỗi trong vi phạm hành chính của tổ chức là vấn đề còn có nhiều ý
kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý của cá nhân trong
khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với
tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức,
chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật và hành vi đó theo quy
17
định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
là đủ điều kiện để xử phạt hành chính. Cũng có quan điểm cho rằng, cần phải
xác định lỗi của tổ chức khi vi phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để
tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo
quan điểm này, lỗi của tổ chức đợc xác định bằng lỗi của các thành viên
trong tổ chức đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đợc tổ chức đó giao cho.
Tuy nhiên, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hiện hành chỉ quy định chung
rằng: "Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây
ra" (điểm b, khoản 1, Điều 6 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính) [86, tr. 10]
và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời,
tổ chức phải có trách nhiệm xác định lỗi của ngời thuộc tổ chức mình trực
tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ đợc giao để truy
cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thờng thiệt hại theo quy định của pháp luật.
+ Dấu hiệu về chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân
có năng lực chủ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm
hành chính là ngời không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ độ tuổi
do pháp luật quy định, cụ thể là:
- Ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi có thể là chủ thể của vi phạm
hành chính với lỗi cố ý. Nh vậy, khi xác định ngời ở độ tuổi này có vi phạm
hành chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ.
- Ngời từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính
trong mọi trờng hợp.
- Tổ chức có thể là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm các cơ quan
nhà nớc, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lợng vũ
trang nhân dân.
18
- Cá nhân, tổ chức nớc ngoài cũng có thể là chủ thể vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trờng hợp điều ớc quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác (khoản 1 Điều 6 Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính) [86, tr. 10].
+ Dấu hiệu về khách thể
Vi phạm hành chính cũng nh mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm
hại đến các quan hệ xã hội đợc pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để xác
định vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý
hành chính nhà nớc, hay vi phạm hành chính là hành vi trái với các quy định
của pháp luật về quản lý nhà nớc nh quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc
về an ninh trật tự, an toàn xã hội... đợc quy định trong các văn bản pháp luật
của các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
a) Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm hành chính đã trình
bày ở phần 1.1 ta có thể đa ra khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai nh sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi trái pháp luật
đất đai, đợc thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền sở hữu
đất đai của Nhà nớc, quyền và lợi ích của ngời sử dụng đất cũng nh các
quy định của pháp luật về chế độ sử dụng các loại đất, mà không phải là tội
phạm, và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
b) Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
19
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là một dạng của vi phạm
hành chính, vì vậy đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai cũng
đợc thể hiện ở bốn yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách
thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
+ Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là
những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm hành chính về đất đai, nó gồm có
những yếu tố sau:
- Hành vi trái pháp luật đất đai. Để xác định có hành vi trái pháp luật
đất đai thì ta phải căn cứ vào những quy định của pháp luật về đất đai, về
đờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc liên quan đến việc quản lý, sử
dụng đất đai để xem xét về một hành vi cụ thể.
Nếu một chủ thể thực hiện những việc mà pháp luật đất đai nghiêm
cấm hoặc không làm những việc mà pháp luật đất đai yêu cầu thì ngời đó là
ngời có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Vì vậy, hành vi trái pháp luật đất
đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những quy định của
pháp luật đất đai. Hành vi không bị coi là trái pháp luật đất đai khi nó có liên
quan đến việc thực hiện một mệnh lệnh khẩn cấp của cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền hoặc những sự kiện xảy ra ngoài ý chí và khả năng của ngời sử
dụng đất (tình thế cấp thiết hay sự kiện bất ngờ).
- Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật đất đai gây
ra. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật đất đai thể hiện ở chỗ
nó xâm hại quyền sở hữu của Nhà nớc đối với đất đai hoặc xâm hại đến
quyền lợi của ngời sử dụng đất. Cụ thể:
Sự xâm phạm quyền sở hữu của Nhà nớc đối với đất đai thờng thể
hiện trong việc định đoạt một cách bất hợp pháp số phận pháp lý của đất đai
nh không tuân theo những thủ tục cấp đất do pháp luật quy định, giao đất
không đúng thẩm quyền, không đúng đối tợng, mua, bán, chuyển nhợng
quyền sử dụng đất trái phép dới nhiều hình thức nh núp dới danh nghĩa
20
thanh lý tài sản, thanh lý nhà cửa hoặc thu tiền bán đất trên danh nghĩa đền bù
nhng sử dụng số tiền đó không đúng mục đích, hoặc tự tiện chuyển giao đất
cho ngời thừa kế, hoặc sử dụng đất không đúng mục đích đợc giao, tự ý
thay đổi mục đích sử dụng đất khi cha có sự đồng ý của cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền...
Xâm phạm quyền lợi của ngời sử dụng đất nh mợn tạm đất sử dụng
trong một thời gian nhất định khi hết thời hạn không trả lại chủ cũ mà chiếm
luôn để sử dụng, hoặc tự tiện chuyển dịch ranh giới ra ngoài phần đất đợc
giao, hoặc lấy quá mức đất mà Nhà nớc giao cho mình...
Mức độ hậu quả của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
đợc xác định theo nguyên tắc quy đổi giá trị quyền sử dụng đối với diện tích
đất bị vi phạm thành tiền theo giá đất do ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ơng nơi có đất đó quy định.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính về đất đai
với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội thể hiện sự thiệt hại cho xã hội là do
chính hành vi vi phạm hành chính về đất đai gây ra. Song không phải mọi vi
phạm hành chính về đất đai đều bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả và quan hệ
nhân quả mà nhiều vi phạm hành chính về đất đai chỉ cần dấu hiệu "cấu thành
hình thức" là đủ căn cứ để xử phạt hành chính.
Ngoài ra, khi nghiên cứu mặt khách quan của vi phạm hành chính về
đất đai trong một số trờng hợp cần xem xét thêm một số dấu hiệu khác nh
thời gian, địa điểm, công cụ, phơng tiện thực hiện hành vi vi phạm.
+ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính về đất đai là những biểu hiện
tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm, gồm lỗi, động cơ và mục đích.
- Lỗi là trạng thái tâm lý, là ý chí chủ quan của con ngời đối với hành
vi vi phạm và hậu quả do hành vi đó gây ra đợc thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý. Vì vậy phải xét yếu tố lỗi chính xác để xác định đợc hình thức xử lý
phù hợp với hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
21
Hành vi vi phạm hành chính về đất đai có thể thực hiện bằng hành
động nh lấn, chiếm đất đai, phá vỡ mặt bằng đất canh tác, sử dụng đất không
đúng mục đích... hoặc không hành động nh không sử dụng đất, không cải
tạo, bồi bổ đất, không ngăn chặn sự xói mòn đất đai.
- Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính về đất đai
Mục đích của vi phạm hành chính là cái "đích" trong ý thức của ngời
vi phạm đợc đặt ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm hành
chính về đất đai chỉ có ở trong một số hành vi vi phạm hành chính về đất đai nhất
định và đợc thực hiện với lỗi cố ý ví dụ " hành vi tẩy, xoá, sửa chữa giấy tờ,
chứng từ trong việc sử dụng đất" (khoản 1 Điều 21 Nghị định 182/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai).
Động cơ vi phạm hành chính đợc hiểu là động lực bên trong thúc đẩy
ngời thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những hành vi vi phạm hành
chính về đất đai với lỗi cố ý thì động cơ, mục đích rõ rệt còn các vi phạm hành
chính về đất đai khác thì động cơ, mục đích không rõ nét. Trong các trờng hợp
này vi phạm hành chính về đất đai chủ yếu do thiếu thận trọng, vô tình hay coi
nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại ở
những trờng hợp này là không đáng kể. Do đó, động cơ, mục đích trong vi
phạm hành chính về đất đai cũng nh vi phạm hành chính nói chung không coi là
dấu hiệu bắt buộc.
Hành vi trái pháp luật là sự thực hiện trên thực tế của ngời vi phạm
còn lỗi thể hiện mục đích cần đạt đợc của hành vi đó. Việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai khác với việc truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật khác là trong đa số các
trờng hợp chỉ cần hai dấu hiệu là có hành vi trái pháp luật đất đai và có lỗi là
đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý mà không cần phải có đầy đủ cả
các yếu tố khác nh có thiệt hại thực tế sảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa
22
hành vi và hậu quả bởi vì Luật Đất đai điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát
sinh trực tiếp từ quá trình sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai. Mà đất đai thuộc
quyền sở hữu toàn dân do Nhà nớc đại diện chủ sở hữu, do đó mọi hành vi
xâm phạm tới quyền sở hữu đều là hành vi vi phạm pháp luật.
+ Khách thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội đợc pháp
luật bảo vệ nhng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Vậy khách thể của
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là những quan hệ trong quản lý, sử
dụng đất đai bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại.
+ Chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Vi phạm hành chính về đất đai là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội đợc pháp luật đất đai bảo
vệ. Do vậy, chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai là những cá nhân, tổ
chức có năng lực chủ thể. Những hành vi này đều xâm hại đến các quan hệ
pháp luật đất đai đang đợc duy trì, làm ảnh hởng đến hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nớc. Song do tính chất và mức độ xâm hại của hành vi cha đến
mức nguy hiểm cho xã hội để trở thành tội phạm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
1.2.3. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì hành
vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm:
a) Các hành vi vi phạm trong sử dụng đất đai
- Sử dụng đất không đúng mục đích;
- Lấn, chiếm đất;
- Hủy hoại đất;
23
- Gây cản trở cho việc sử dụng đất của ngời khác;
- Chuyển đổi, chuyển nhợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho
quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về
đất đai;
- Tự chuyển đổi, chuyển nhợng, tặng cho đối với đất không đủ điều
kiện chuyển quyền sử dụng đất;
- Cố ý đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục
đích sử dụng đất;
- Chậm thực hiện bồi thờng;
- Chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không đợc cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho phép;
- Cố ý gây cản trở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất;
- Không thực hiện đúng thời hạn trả lại đất theo quyết định thu hồi đất
của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền;
- Tự tiện di chuyển, làm sai lệch mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất,
mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình;
- Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
b) Các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất đai
- Hành vi vi phạm trong hành nghề t vấn về giá đất mà không đợc cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền cho phép;
- Hành vi vi phạm trong hành nghề t vấn về lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất mà không đủ điều kiện đăng ký hoạt động hành nghề;
- Hành vi vi phạm trong hành nghề dịch vụ về thông tin đất đai, dịch
vụ đo đạc và bản đồ địa chính.
24
1.3. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai
1.3.1. Đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính khác.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai để quyết định xử phạt vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác (trong trờng hợp cần
thiết, theo quy định của pháp luật) đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính
về đất đai.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có các
đặc điểm sau đây:
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đợc áp dụng đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về đất đai theo quy định của pháp
luật. Nói cách khác, vi phạm hành chính về đất đai là cơ sở để tiến hành hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ quy định hành vi
vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ
chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cơ sở pháp lý quan
trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đợc tiến hành bởi
các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính và Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đã xác định
25
cụ thể chủ thể có thẩm quyền, hình thức, mức xử phạt mà họ đợc phép áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về đất đai.
- Xử phạt vi phạm hành chính về đất đai đợc tiến hành theo những
nguyên tắc, trình tự, thủ tục đợc quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính và Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về đất đai thể
hiện ở quyết định xử phạt, trong đó ghi nhận các hình thức, mức xử phạt áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Việc quyết định áp dụng hình thức xử
phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nớc đối với tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính về đất đai, qua đó giáo dục cho mọi ngời ý thức
tuân thủ pháp luật đất đai nói riêng và pháp luật nói chung.
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, thì ngoài việc
áp dụng các hình thức xử phạt ra còn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
khác bao gồm giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo dỡng; đa
vào cơ sở giáo dục; đa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. Tuy nhiên,
theo Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì không áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính khác với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Nh
vậy, khi nói đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai chỉ gồm xử phạt
hành chính, mà không có các biện pháp xử lý hành chính khác. Theo Điều 6
của Nghị định trên thì các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai phạt là cảnh cáo, phạt tiền; tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng
để vi phạm hành chính; buộc khôi phục lại tình trạng của đất trớc khi vi phạm.
1.3.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phải đảm bảo các
nguyên tắc sau: