LU
ẬN V
ĂN:
Vi ph
ạm
hành chính v
ề
đ
ất
đai
ở
Thái B
ình
-
th
ực trạng và giải
pháp kh
ắc phục
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chính không thể
thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, là một bộ phận không
thể tách rời của lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc gia, là nơi trên đó, con người
xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc…; là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa; là nơi
phân bổ các vùng kinh tế, các khu dân cư; là thành quả cách mạng của cả dân tộc; là cơ sở để
phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi trường, duy trì sự sống của con người và sinh vật. C.Mác
đã khái quát vai trò kinh tế của đất đai: "Đất là mẹ, sức lao động là cha, sản sinh ra mọi của
cải vật chất" [4, tr.189].
Đất đai có vai trò quan trọng như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm
vấn đề đất đai, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. Chánh cương vắn tắt của Đảng năm
1930 đã chỉ rõ: "Thâu tóm hết ruộng đất của Đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày". Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã ban hành nhiều Sắc lệnh,
đạo luật để quản lý đất đai. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chưa hoàn thành,
ngày 04/12/1953, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Luật Cải cách ruộng
đất nhằm xóa bỏ sự bóc lột của đế quốc, phong kiến do chiếm hữu đất đai mang lại. Cũng từ
đó, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm, ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ
trương, đường lối, chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Một trong các biện pháp hữu hiệu được Nhà nước ta chú trọng để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai đó là xử lý các vi phạm hành chính về đất đai. Các văn
bản quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm hành chính về đất đai là: Nghị định 143/CP ngày
27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh; Pháp lệnh Xử phạt vi
phạm hành chính ngày 30/11/1989 của Hội đồng Nhà nước; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính ngày 06/7/1995 của ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 04/NĐCP ngày 10/01/1997
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính ngày 02/7/2002 của ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 182/2004/NĐ-
CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Nghị định 182/2004/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn thi
hành Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ, phù hợp với Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính ngày 02/7/2002, có tính đến các yêu cầu mới về đấu tranh, phòng, chống
vi phạm pháp luật đất đai trong điều kiện nước ta mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các văn bản trên đã góp phần lập lại trật tự trong quản lý,
sử dụng đất đai, hạn chế những tiêu cực nảy sinh. Tuy nhiên, trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường, mặc dù Nhà nước có nhiều văn bản quản lý và xử lý vi phạm về
đất đai, nhưng do đất đai trở thành hàng hoá mà giá trị của nó ngày càng tăng vơí tốc độ rất
cao, lợi nhuận thu được từ việc mua bán đất đai không có mặt hàng và nghề kinh doanh nào
sánh nổi. Vì vậy những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trục lợi từ đất diễn ra ngày càng
phổ biến và nghiêm trọng. Những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tuy chưa
đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giờ, không
những gây khó khăn cho quản lý nhà nước về đất đai, xâm phạm “quốc gia, lãnh thổ”, mà
còn là nguyên nhân của những tranh chấp, mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân dân và xã
hội; nhiều khi chuyển hoá thành vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm chí trở thành vấn đề
chính trị. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ nên xử lý không kiên
quyết, thiếu nghiêm minh dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm ngày càng tràn
lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm,
tăng cường quản lý nhà nước về đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như
thực tiễn đặt ra.
Thái Bình là tỉnh ven biển thuộc lưu vực sông Hồng, là tỉnh thuần nông, diện tích đất
tự nhiên 154.542,0396 ha, dân số 1.845.000 người [2, tr.3]. Nhiều thập kỷ, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước, người dân Thái Bình đã lao động cần cù, "một nắng, hai sương", sử
dụng đất có hiệu quả, ít có vi phạm pháp luật đất đai; đã lập nên những kỳ tích với "Bài ca 5
tấn", rồi 10 tấn, 12 tấn thóc/ha… Nhưng rồi, tháng 5/1997, Thái Bình đã xảy ra khiếu kiện
đông người, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; một trong những nguyên nhân
đó là do “ cấp đất, bán đất trái thẩm quyền một cách phổ biến; chính quyền ở nhiều cơ sở
đã lạm dụng việc xử phạt hành chính một cách tùy tiện, trái quy định, quá sức chịu đựng của
dân, gây bất bình trong dân" [51, tr.7]. Sau sự kiện trên, các cấp, các ngành trong tỉnh đã rút
kinh nghiệm; đề ra các chủ trương, giải pháp sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, thiếu
sót; chấn chỉnh công tác quản lý và việc xử phạt các vi phạm hành chính về đất đai; vì vậy
các vi phạm pháp luật về đất đai những năm cuối của thiên niên kỷ 2000 đã giảm nhiều, việc
xử phạt hành chính với những vi phạm này đã tuân theo pháp luật. Những năm đầu thế kỷ
XXI, Thái Bình lại quyết tâm thay đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng công nghiệp, với các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung; với phong trào “xây dựng cánh đồng đạt giá trị
sản xuất 50 triệu đồng/ha/năm và hộ gia đình thu nhập đạt 50 triệu đồng/ha/năm” [57, tr.1].
Với quyết tâm trên, Thái Bình từ tỉnh có thu ngân sách trên địa bàn đạt 235 tỷ đồng năm
2001, đã vinh dự được vào câu lạc bộ tỉnh có thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.000 tỷ đồng
năm 2004. Nhưng bên cạnh đó, "Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở cấp xã, cấp huyện
trong tỉnh còn bị buông lỏng; còn tình trạng cấp đất, giao đất sai thẩm quyền. Một số địa
phương lợi dụng chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển đổi không đúng
mục đích theo quy định của tỉnh. Một số doanh nghiệp trong cụm công nghiệp của huyện
Đông Hưng còn vi phạm nghiêm trọng Luật Đất đai. Việc xử lý các vi phạm trên chưa kịp
thời, gây bức xúc trong nhân dân" [79, tr.8].
Chính vì vậy, làm thế nào để hạn chế các vi phạm hành chính về đất đai, và việc xử lý
vi phạm hành chính về đất đai tuân thủ đúng pháp luật; đặc biệt là với Thái Bình, một tỉnh
thuần nông, thì lại là điều cực kỳ quan trọng. Là giảng viên giảng dạy môn Quản lý Nhà nước
- Luật tại trường Chính trị Thái Bình; qua học tập, nghiên cứu tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh; qua thực tiễn giảng dạy và tìm hiểu thực tế vi phạm hành chính về đất đai
ở Thái Bình, tôi lựa chọn đề tài " Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bỡnh - thực trạng
và giải pháp khắc phục " để nghiên cứu, nhằm góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai ở Thái Bình trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Nội dung vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm; nhưng do
nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này, nên đã
có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan - Nguyễn Trí Hòa (1993), Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh; Hỏi đáp về Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga
(1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của Phạm
Dũng - Hoàng Sao (1998), Nxb Pháp lý; Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn của Tiến
sĩ Vũ Thư (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay (2003), Luận án Tiến sĩ Luật học
của Bùi Minh Thanh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vi phạm pháp luật
hành chính trong lĩnh vực hải quan và giải pháp xử lý, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê
Nguyễn Nam Ninh (2004), Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội … Hoặc một số công
trình có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến vi phạm pháp luật nói chung như: Chính sách
đất đai của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Tôn Gia Huyên (trong cuốn
bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2002); Về
thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam của Phạm Hữu Nghị, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, 8/2002; Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay của Tiến sĩ
Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, 4/2001; Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Mạnh Hùng
(2003), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội…
Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ đề cập đến vi phạm pháp luật, vi phạm hành
chính nói chung; hoặc vi phạm pháp luật ở lĩnh vực cụ thể là hải quan; hoặc ở một phạm vi
rộng hơn, trong đó có nội dung nhỏ đề cập đến vi phạm pháp luật nói chung về đất đai…; mà
chưa đề cập đến vi phạm hành chính về đất đai, đặc biệt cụ thể là ở tỉnh Thái Bình. Chính vì
vậy, đề tài “Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp khắc phục”
được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề cụ thể vi phạm hành chính về đất đai ở
một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu +
Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng, chống vi phạm và xử lý các vi phạm hành
chính về đất đai ở Thái Bình hiện nay.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và phân tích lý luận chung về vi phạm pháp luật và vi phạm hành chính.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Phân tích thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở Thái
Bình.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai ở
Thái Bình trong thời gian tới
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ tháng 7/1995 (thời gian Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995
có hiệu lực thi hành) đến hết năm 2004.
- Về nội dung và không gian: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu một vấn đề cụ thể là vi
phạm hành chính về đất đai tại Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
và pháp luật nói chung, về quản lý nhà nước đối với đất đai, trong đó có xử lý vi phạm hành
chính về đất đai nói riêng.
+ Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lê nin; kết hợp với các
phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
+ Luận văn Thạc sĩ này là công trình đầu tiên dưới góc độ chuyên ngành Lý luận chung
về lịch sử Nhà nước và pháp luật nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở
Thái Bình. Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng vi phạm hành chính về đất
đai, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường phòng, chống vi phạm hành
chính về đất đai ở Thái Bình góp phần tăng cường quản lý nhà nước về đất đai ở Thái Bình
cũng như trên phạm vi cả nước.
+ Về lý luận
Luận văn góp phần nghiên cứu lý luận chung về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình nói riêng.
+ Về thực tiễn
- Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình. -
Đề xuất các quan điểm và giải pháp mang tính kiến nghị cho các nhà quản lý cũng như những
người trực tiếp thi hành xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương với 8 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN Và quy định của pháp luật Về VI PHạM HàNH
CHíNH, xử lý vi phạm hành chính TRONG LĩNH VựC ĐấT ĐAI
1.1. Khái niệm và đặc điểm vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật
a. Khái niệm, cấu thành vi phạm pháp luật
+ Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, là các quy tắc hành vi, hay còn gọi là
tiêu chuẩn của hành vi con người. Hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện
ra bên ngoài của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Mỗi hành vi đều
được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể, mà chủ thể ý thức được và
chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con người không thể coi là hành vi, nếu con
người hành động trong trạng thái vô thức.
Trong hoạt động của mỗi người thường có rất nhiều hành vi khác nhau được thể hiện
bằng những phương thức khác nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi, sinh hoạt hàng ngày
trong cuộc sống. Song tuỳ theo tính chất, đặc điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi
con người mà xã hội đặt ra những tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau.
Những hành vi nào của con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được gọi là hành
vi pháp luật. Hành vi pháp luật gắn liền với các quy định của pháp luật, những hành vi không
được pháp luật quy định, điều chỉnh thì không phải là hành vi pháp luật.
Hành vi pháp luật rất đa dạng nên có thể phân chia chúng dựa theo nhiều tiêu chí khác
nhau.
- Căn cứ vào phương thức biểu đạt ra bên ngoài hiện thực khách quan có thể chia
hành vi pháp luật thành hành vi hành động và hành vi không hành động.
Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất định.
Chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao thông trên đường phố
Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến
hành những thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi không tố giác người phạm tội, hành vi
không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp luật thành hành vi của
cá nhân và hành vi (hoạt động) của tổ chức
- Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp luật có thể chia hành
vi pháp luật thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp.
Hành vi hợp pháp là những hành vi được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của
pháp luật.
Hành vi không hợp pháp là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp
luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm,
hành động vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật
Hành vi không hợp pháp được phân chia thành hành vi vi phạm pháp luật và những hành
vi trái pháp luật nhưng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi
và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Vậy muốn xác định hành vi vi phạm
pháp luật thì phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau :
- Thứ nhất, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Như ta đã biết các quy định của
pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người. C.Mác đã nhấn mạnh "Ngoài
hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là
đối tượng của nó. Những hành vi của tôi - đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm
với pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực,
và như vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành" [5, tr.19]. Cho nên vi
phạm pháp luật trước hết là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi xác
định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là không thể thiếu được, nói cách khác, không
có hành vi nguy hiểm của con người thì không có vi phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu
hiện bằng hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều
chỉnh những suy nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con người nếu như những đặc
tính đó không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, tình cảm, những
đặc tính cá nhân khác của con người và cả sự biến cho dù có nguy hiểm cho xã hội cũng
không bị coi là vi phạm pháp luật.
- Thứ hai, trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập
và bảo vệ. Vi phạm pháp luật không những phải là hành vi nguy hiểm của các chủ thể pháp
luật, mà hành vi đó còn phải trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật
xác lập và bảo vệ. Vì vậy, những hành vi trái với quy định của các tổ chức xã hội, trái với
quy tắc tập quán hoặc đạo đức mà không trái pháp luật thì không bị coi là hành vi vi phạm
pháp luật. Nói một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập và bảo
vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, tính trái
pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coi là vi phạm pháp luật.
- Thứ ba, có lỗi của chủ thể. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên
ngoài của hành vi, để xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi,
nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đó. Lỗi là yếu tố
chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành
vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực
hiện hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý thực hiện hoặc không thể nhận thức được, từ
đó không lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể thực hiện hành vi
đó không bị coi là có lỗi và hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật. Kể cả những hành
vi trái pháp luật mà chủ thể buộc phải thực hiện khi không có sự lựa chọn khác cũng có thể
không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách
quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Vì
vậy có thể khẳng định là tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật,
nhưng ngược lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật.
Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
- Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực trách nhiệm pháp
lý là khả năng tự mình chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật trước cơ quan nhà nước
có thẩm quyền của chủ thể. Vì vậy chủ thể của vi phạm pháp luật phải là những người đã đạt
tới một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh tâm thần và các bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử
sự. Vì vậy, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những người đã đạt được
một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau
thì pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Đối với những người,
do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình tại thời
điểm thực hiện hành vi thì cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó.
Như vậy, những hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện chúng các chủ thể không có hoặc
chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm
pháp luật.
Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
+ Cấu thành vi phạm pháp luật
Là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể.
- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Là những biểu hiện ra bên ngoài của
vi phạm pháp luật, gồm những yếu tố sau:
Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được cấu thành bởi
hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp luật của cá
nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức thì không có vi phạm pháp luật.
Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật gây ra. Hành vi trái pháp
luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính nguy hiểm của
hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về
vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái
pháp luật được xác định thông qua mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây thiệt hại cho xã
hội mà hành vi đó gây ra.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội thể hiện
ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác,
sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái
pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội
không phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.
Ngoài ra trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố khác như thời
gian, địa điểm, phương tiện và công cụ vi phạm
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những
biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:
Một là: Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với
hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của
chủ thể đối với xã hội. Lỗi phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể. Khoa
học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc
cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn
điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng có ý thức
để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc
nếu sảy ra thì có thể ngăn chặn được.
Lỗi vô ý vì cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy trước hoặc cần phải nhận
thấy trước hậu quả đó.
Hai là: Động cơ vi phạm. Động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chủ thể
thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù,
hay đê hèn
Ba là: Mục đích vi phạm. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình,
chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm của
chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải
khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà
chủ thể vi phạm mong muốn đạt được. Chẳng hạn, H chỉ muốn làm K đau (mục đích gây
thương tích) nhưng kết quả thực tế K chết (cái chết của K nằm ngoài mong muốn của H).
- Chủ thể vi phạm pháp luật. Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc
tổ chức có năng lực chủ thể, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi trái pháp luật của mình.
- Khách thể vi phạm pháp luật. Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ
xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan
trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm
pháp luật.
Những vấn đề về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của vi phạm
pháp luật sẽ được làm rõ khi xem xét từng loại vi phạm pháp luật cụ thể. Vì vậy, ở đây chỉ
nêu những vấn đề chung nhất của cấu thành vi phạm pháp luật.
b. Phân loại vi phạm pháp luật
Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng. Có thể phân chia vi phạm pháp
luật theo nhiều tiêu chí khác nhau :
- Theo loại quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bị xâm hại, thì vi phạm pháp luật
phân thành vi phạm pháp luật về tài chính, vi phạm pháp luật về lao động, vi phạm pháp luật
về đất đai, vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự vv
- Theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì vi phạm pháp luật phân
thành vi phạm pháp luật là tội phạm và vi phạm hành chính.
- Theo tính chất vi phạm và trách nhiệm pháp lý, thì vi phạm pháp luật phân
thành vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ
luật nhà nước.
+ Vi phạm pháp luật hình sự (Tội phạm): Là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (Khoản 1 điều 8 Bộ luật Hình sự) [37, tr.19].
+ Vi phạm hành chính: Là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
+ Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những quan hệ tài
sản, quan hệ nhân thân
+ Vi phạm kỷ luật Nhà nước: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc
xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học , nói cách khác, là không
thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường
học đó Cần chú ý là chủ thể vi phạm kỷ luật có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân,
công chức, học sinh, sinh viên ) có quan hệ ràng buộc với cơ quan, xí nghiệp, trường học
nào đó.
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính
+ Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống
xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm hình sự nhưng vi
phạm hành chính là những hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước, của tập thể, của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như
không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và chống
vi phạm hành chính luôn là vấn đề được xã hội ta quan tâm. Từ trước đến nay Nhà nước ta
đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp
xử lý đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của
Chính phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh và hàng loạt các nghị định khác quy định cụ thể
về việc xử lý các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà
nước.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này, đặc
biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo cơ sở pháp lý cần
thiết để xử lý cũng như đấu tranh phòng, chống một cách có hiệu quả đối với các vi phạm
hành chính, cần thiết phải đưa ra một định nghĩa chính thức.
Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành chính phải phản
ánh đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của loại vi phạm này, trong đó thể hiện đầy đủ tính
nguy hiểm cho xã hội của chúng, đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác biệt giữa loại vi
phạm này với tội phạm về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh Xử phạt vi
phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã ghi rõ: "Vi phạm hành chính
là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính".
Tại khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi phạm hành
chính cũng được định nghĩa một cách gián tiếp: "Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng
đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý
hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính" [63, tr.6].
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, song quan niệm về vi phạm hành chính trong các
văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những dấu hiệu bản chất của loại vi
phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung đã được nêu ra trong hai văn bản pháp luật nêu
trên, có thể đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức vi phạm các quy
định của pháp luật mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính.
b. Đặc điểm của vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không cần xác định
các dấu hiệu pháp lý của loại vi phạm pháp luật này. Những dấu hiệu này được mô tả trong
các văn bản pháp luật có quy định về vi phạm hành chính, hình thức và biện pháp xử lý đối
với loại vi phạm này. Cũng tương tự như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, các dấu hiệu
pháp lý của vi phạm hành chính thể hiện ở bốn yếu tố mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể.
+ Dấu hiệu trong mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm
hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các
quy tắc quản lý nhà nước và đã bị pháp luật ngăn cấm. Việc bị ngăn cấm thể hiện rõ trong
các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính. Như vậy, khi xem xét để đi đến kết
luận rằng hành vi của cá nhân hay tổ chức có phải là vi phạm hành chính hay không thì ta
phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy định là sẽ
bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng "nguyên tắc
suy đoán" hoặc "áp dụng tương tự pháp luật" trong việc xác định vi phạm hành chính đối với
các tổ chức và cá nhân.
Đối với một số loại vi phạm hành chính thì dấu hiệu trong mặt khách quan của nó
không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp
với những yếu tố khác. Những yếu tố khác, thông thường có thể là:
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm
- Công cụ, phương tiện vi phạm
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Trong nhiều trường hợp, hành vi của
tổ chức, cá nhân bị coi là vi phạm hành chính chỉ khi hành vi đó đã gây ra những thiệt
hại cụ thể trên thực tế.
+ Dấu hiệu trong mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi của chủ
thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi, thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô
ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức
được điều đó hoặc nhận thức được nhưng vẫn cố tình thực hiện vi phạm. Nếu xác định rằng,
chủ thể thực hiện hành vi khi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi thì chúng ta kết luận rằng không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một số
trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số
loại vi phạm hành chính. Vì thế, khi xử phạt cá nhân, tổ chức về vi phạm hành chính này
3.2.2- Nhóm giải pháp đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi kết hợp với giao thông và bố trí lại
dân cư.
Tiếp tục phát triển thuỷ lợi trên quan điểm sử dụng tối ưu, bền vững nguồn tài
nguyên đất và nước, tận dụng có hiệu quả mặt tích cực, hạn chế tối đa mặt tiêu cực của lũ
cho phát triển, giữ vững cân bằng sinh thái về nguồn nước, chất lượng nước và yêu cầu về vệ
sinh môi trường. Tăng dần năng lực nhằm bảo đảm chủ động tưới tiêu cho 180 ngàn ha đất
trồng cây hàng năm gieo trồng tử 2-3 vụ trong năm, kiểm soát lũ tháng 8 bảo vệ ăn chắc vụ
hè thu, kiểm soát lũ cả năm cho trên 25 ngàn ha vườn cây ăn trái và các địa bàn nhân giống
cây; kết hợp với việc xây dựng các cụm, tuyến dân cư trong vùng ngập lũ, đảm bảo nơi ở ổn
định cho dân cư vùng ngập lũ trong mùa lũ.
Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn là nhiệm vụ lớn nhất nặng nề nhất, đối với Đồng
Tháp. Trước hết, phải xây dựng hệ thống giao thông gồm cả đường thủy và đường bộ nối liền
các trung tâm kinh tế của Tỉnh gắn với khu vực và giữa các vùng với nhau và với Campuchia.
Đây là điều kiện tích cực để người nông dân có nhiều cơ hội để rộng thị trường tiêu thụ nông
sản của mình, đưa đến khả năng chuyên môn hóa trong sản xuất. Mở rộng giao thông là biện
pháp mở rộng giao lưu. Để khắc phục tình trạng lạc hậu ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
không có giải pháp nào tốt hơn là mở rộng mạng lưới giao thông.
Đối với đường giao thông quốc lộ và tỉnh lộ thì cần phải vượt lũ để đảm bảo lưu thông
hàng hoá và hành khách xuyên suốt trong mùa nước. Đối với đường nông thôn thì không nên
đặt vấn đề vượt lũ, vì chúng là vật cản, ngăn dòng chảy khi lũ về và lũ rút. Nếu đường nông
thôn cũng vượt lũ sẽ chia cắt nông thôn thành nhiều ô nhỏ chúng sẽ góp vào việc làm tăng lũ
lớn cục bộ trong nội đồng và kéo dài thêm thời gian lũ rút. Nên nghiên cứu, xây dựng những
tuyến đường giao thông sống chung với lũ ở nông thôn. Nghĩa là, tuyến đường giao thông
đó dùng để đi lại trong mùa khô và chịu đựng được trong nước không bị hư hao mỗi khi lũ
về, mùa nước nổi người dân đi lại bằng phương tiện khác (xuồng, ghe…) hoặc xây cầu cạn
vượt lũ… có làm được như vậy chúng ta mới khắc phục được tình trạng giao thông nông thôn
vẫn khó khăn đắp, xây, sửa chữa trước và sau mỗi mùa lũ.
Công trình thuỷ lợi được tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh dần theo Quyết định 99/TTg
của Thủ tướng Chính phủ, theo quy hoạch kiểm soát lũ vùng đồng bằng sông Cửu Long và
dự án kiểm soát lũ tràn biên giới vùng Đồng Tháp Mười. Gồm các công trình chủ yếu: hệ
thống kinh trục, kinh cấp 1,2,3, hệ thống bờ bao, công trình tưới tiêu, thuỷ lợi nội đồng, cụm
tuyến dân cư… phân bổ trên 6 vùng dự án thuỷ lợi chính của tỉnh, có quy mô phù hợp với
nhiệm vụ mục tiêu cụ thể của từng dự án. Chia ra: Vùng phía Bắc tỉnh, 3 dự án: tiểu khu Bắc
Hồng Ngự, vùng giữa Thanh Bình - Tam Nông, vùng Nam Cao Lãnh. Vùng Phía Nam Tỉnh,
3 dự án: khu Bắc Lấp Vò, khu Nam Lấp Vò, khu Châu Thành.
- Các công trình thuỷ lợi được xây dựng trên cơ sở hệ thống hiện trạng đã hình
thành, theo hướng kiên cố hoá dần các công trình có thể xây dựng kiên cố như thuỷ lợi nội
đồng, hệ thống bờ bao, cống; thay thế các đập tạm bằng cống kiên cố, chuyển trạm bơm dầu
thành trạm bơm điện ở những nơi có điều kiện.
Các địa phương hiện nay đang huy động sức dân để cùng với Nhà nước xây dựng
nhiều công trình giao thông, cầu đường nông thôn để giải quyết xe hai, ba bánh đi lại. Đây là
chủ trương đúng hợp lòng dân, nhưng thông thường do khẩu độ và trọng tải nhỏ nên đường
xá không đáp ứng được yêu cầu cơ giới hoá nông nghiệp. Cần nhanh chóng thay đổi cách
nghĩ, cách làm để không phải trong tương lai gần chúng ta lại phải thay đổi hàng loạt cầu,
đường mới phục vụ cho sản xuất và giao thương.
Để hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, Đồng Tháp cần kiến nghị với Trung
ương sớm tiến hành xây dưng các công trình lớn cầu Cao Lãnh qua sông Tiền, cầu Vàm Cống
qua sông Hậu để hạn chế sự chia cắt tỉnh với khu vực, đầu tư hoàn chỉnh và mở rộng các
tuyến đường quốc lộ 80, QL 54, QL 30 qua địa phận Đồng Tháp.
Mặt khác Đồng Tháp cần đầu tư về nguồn vốn, sức người, vật tư kỹ thuật để xây dựng
các công trình thủy lợi đào kênh, mương, nạo vét sông rạch, đắp đê, đắp đập làm cống, làm
thủy nông nội đồng, khai thác nước ngầm, đào giếng … Cần tập trung tăng cường hệ thống
đê bao và nạo vét sông rạch, kết hợp với xây dựng cụm, tuyến dân cư và điện khí hóa nông
thôn. Tỉnh đang thi công 204/205 cụm, tuyến dân cư, dự kiến bố trí 47.667 hộ dân vào ở. Tuy
nhiên, hiện nay chỉ mới điều chuyển được 32.028 hộ. Sở dĩ như vậy bởi các công trình điện,
đường, cấp, thoát nước thi công chậm, chưa đồng bộ gây khó khăn cho việc bố trí dân cư.
Để thực hiện những chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, ngoài ngân sách
Nhà nước đầu tư, thì các địa phương vận dụng quy chế do Chính phủ ban hành tổ chức huy
động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng theo tinh
thần Nghị định số 24/1999 NĐ – CP ngày 16/4/2000. Ngân sách này được sử dụng bổ sung
vào vốn đầu tư cho các mục đích xây dựng mới, nâng cấp sửa chữa các công trình kết cấu hạ
tầng của xã và liên xã.
+ Phát huy hệ thống thông tin:
Vấn đề tìm và giữ thị trường, đăng ký thương hiệu, nâng cao chất lượng hàng hóa có
tầm quan trọng to lớn trong việc tạo ra sự phát triển bền vững cho nông nghiệp, nông thôn.
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, nhiều mặt hàng của Việt Nam chưa thực sự ổn định trên
thị trường nội địa và xuất khẩu, do chỗ chúng ta chưa xem trọng vấn đề tìm, giữ thị trường,
nâng cao chất lượng sản phẩm và đăng ký thương hiệu hàng hóa. Phải tìm và giữ lấy thị
trường là một cơ sở vững chắc cho quá trình sản xuất, điều này người dân không thể tự lo
liệu được. Hiện nay, có một thực tế mâu thuẩn là các doanh nghiệp muốn có những thông tin
về thị trường, nhu cầu, thị hiếu thì họ không tìm đến các cơ quan Nhà nước mà tìm đến các
hãng thương mại nước ngoài thông qua phương tiện internet hoặc trực tiếp tiếp xúc. Phải coi
việc tìm kiếm thị trường là việc của doanh nghiệp, của Nhà nước. Trách nhiệm của Nhà nước
là tạo môi trường, tạo điều kiện thông thoáng cho doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu. Vì
thế, nên có các tổ chức chuyên tiếp thị cho nông dân, cho doanh nghiệp, cung cấp cho họ
những thông tin thiết thực, nhất là thông tin về thị trường, giá cả, ứng dụng công nghệ. Tổ
chức này có thể thuộc mọi thành phần kinh tế nhưng phải có sự tiếp sức của Nhà nước. Cần
phải củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống,
tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường.
3.2.3- Nhóm đào giải pháp tạo nguồn nhân lực lao động có trình độ cao cùng với giải
quyết việc làm cho nông dân, “ xóa đói giảm nghèo” và “chủ động sống chung với lũ”:
- Đổi mới các chính sách xã hội đối với nông dân, xóa đói giảm nghèo và thực
hiện công
bằng xã hội.
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
- Tiếp tục thực hiện các chính sách giúp đỡ hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở…cho
hộ nghèo, người nghèo; đặc biệt Tỉnh cần đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, phát triển các ngành kinh tế, các khu kinh tế tập trung ở
những vùng trọng điểm, lân cận để thu hút người nghèo tham gia vào các dịch vụ có thể. Ưu
tiên người nghèo học nghề, tạo việc làm, chuyển đổi làm các nghề phi nông nghiệp đối với
vùng nông thôn, hỗ trợ trong giáo dục cho con em hộ nghèo, giúp đỡ hộ nghèo về nguồn vốn
vay phát triển kinh tế hộ gia đình, đảm bảo mức vay bình quân 10 triệu đồng/ hộ; hộ trợ về bảo
hiểm y tế; huy động và vận động các nguồn lực tại chỗ, các hội, đoàn thể tham gia công tác
giảm nghèo; tiếp tục các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư hướng dẫn cho hộ
nghèo, người nghèo vùng nông thôn cách làm ăn, khuyến khích hộ nghèo phấn đấu vươn lên
thoát nghèo.
- Tiếp tục nhân rộng dự án mô hình giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn ở nông thôn, tái đầu tư các mô hình dự án ở các xã, đặc biệt nhân rộng mô hình làm
ăn có hiệu quả; tổ chức thanh kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chương trình giảm nghèo,
đảm bảo hiệu quả thiết thực; khảo sát thống kê, đánh giá đúng thực trạng hộ nghèo theo từng
khu vực, địa phương. Tăng cường năng lực quản lý và thực hiện tốt công tác giảm nghèo cho
cán bộ các cấp, các ngành.
- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, cụ thể như chăm sóc,
nuôi dưỡng tại cộng đồng những đối tượng khó khăn, yếu thế, người tàn tật không có khả năng
lao động tạo thu nhập; tổ chức nuôi dưỡng tập trung những người già cô đơn không nơi nương
tựa, trẻ em mồ côi bị bỏ rơi; nhằm giảm bớt các gánh nặng cho gia đình; kịp thời tổ chức cứu
trợ giúp đỡ cho các gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn.
Thực hiện chính sách đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo.
Tăng cường tuyên truyền Luật đất đai 2003, Nghị định 181/2004/NĐ-CP và các văn
bản pháp luật khác về đất đai, cụ thể hóa để phù hợp với điều kiện của tỉnh. Sớm có biện
pháp tháo gỡ những tồn tại, khó khăn về đất đai hiện nay, nhất là vấn đề thời hạn giao quyền
sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân theo Nghị định 64, việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp, nhằm khuyến khích đầu tư, vấn đề thu hút đầu tư và chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp, từng bước tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp, nông thôn.
- Khuyến khích việc đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất trồng cây hàng năm
mà
không phải đất chuyên trồng lúa nước, đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm, đất
rừng sản xuất sang đất nông nghiệp khác để hộ nông dân, các thành phần kinh tế yên tâm đầu
tư phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi đề hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung. Trong trường hợp phải chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất nông nghiệp khác
thì phải sớm quy hoạch.
Người nghèo thường là ít ruộng đất, thiếu việc làm nên để việc quy hoạch và sử dụng
đất có hiệu quả, cần chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo thêm việc làm cho người dân nông thôn
là một trong những giải pháp quan trọng.
Cho vay vốn, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ cho các hộ nghèo.
Cùng với đất đai và tư liệu sản xuất khác, vốn, sức lao động, cần kiệm, kiến thức và ý
chí vượt qua đói nghèo được xem là nguồn lực quan trọng đối với nông dân nói chung và
người nghèo nói riêng.
Trước hết cần giáo dực để người nông dân nghèo hiểu: Nghèo khổ là một nổi
nhục, để tự thân phấn đấu vươn lên. Phải biết dành dụm chắc chiu, thông qua tiết kiệm, tạo
thêm việc làm, thu nhập để vượt qua khó khăn…
Thực tế từ những năm 90, với các hoạt động tự nguyện và phong trào quần chúng ở
một số địa phương đã tổ chức huy động vốn tiết kiệm cho người nghèo vay để sản xuất và
làm dịch vụ. Phương pháp đầu tư bằng chính sách tín dụng cho hộ nghèo là phương pháp có
hiệu quả nhất. Hơn nữa trong cơ chế mới, nguồn vốn trong dân dồi dào, nếu chúng ta có chủ
trương và cơ chế thích hợp sẽ huy động được nguồn vốn cho hộ nghèo vay để sản xuất và
làm dịch vụ.
đích không rõ nét. Trong các trường hợp này vi phạm hành chính về đất đai chủ yếu
do thiếu thận trọng, vô tình hay coi nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi phạm ở mức độ nhỏ và
trên thực tế thiệt hại ở những trường hợp này là không đáng kể. Do đó động cơ, mục đích
trong vi phạm hành chính về đất đai cũng như vi phạm hành chính nói chung không coi là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của mọi vi phạm hành chính về đất đai cũng như trong cấu
thành của mọi vi phạm hành chính.
+ Khách thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nhưng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Vậy khách thể của vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai là những quan hệ trong sử dụng và hoạt động dịch vụ về đất đai bị hành vi vi
phạm hành chính xâm hại.
+ Chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Vi phạm hành chính về đất đai là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện cố ý hoặc vô
ý xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật đất đai bảo vệ. Do vậy chủ thể của vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai là những cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể . Những hành
vi này đều xâm hại đến các quan hệ pháp luật đất đai đang được duy trì, làm ảnh hưởng đến
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Song do tính chất và mức độ xâm hại của hành vi chưa
đến mức nguy hiểm cho xã hội để trở thành tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính.
1.2.3. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Theo quy định tại điều 3 Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai bao gồm:
a. Các hành vi vi phạm trong sử dụng đất đai là :
- Sử dụng đất không đúng mục đích
- Lấn, chiếm đất
- Huỷ hoại đất
- Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác
- Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng
đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục
hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Tự chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho đối với đất không đủ điều kiện chuyển quyền
sử dụng đất .
- Cố ý đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất.
- Chậm thực hiện bồi thường.
- Chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao đất, cho thuê đất cho phép.
- Cố ý gây cản trở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Không thực hiện đúng thời hạn trả lại đất theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Tự tiện di chuyển, làm sai lệch mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới
hành lang an toàn của công trình.
- Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
b. Các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất đai là :
- Hành vi vi phạm trong hành nghề tư vấn về giá đất mà không được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Hành vi vi phạm trong hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất mà không đủ điều kiện đăng ký hoạt động hành nghề.
- Hành vi vi phạm trong hành nghề dịch vụ về thông tin đất đai, dịch vụ đo đạc
và bản đồ địa chính .
1.3. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai .
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hoạt động của các chủ thể có
thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính
quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính
khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân
vi phạm hành chính về đất đai.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có đặc điểm sau đây:
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính về đất đai theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi
phạm hành chính về đất đai là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt hành chính áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đất đai là cơ sở pháp lý
quan trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được tiến hành bởi các chủ
thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị
định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ có quy định về xử phạt vi phạm hành
chính xác định cụ thể chủ thể có thẩm quyền, hình thức, mức xử phạt mà họ được phép áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về đất đai.
- Xử phạt vi phạm hành chính về đất đai được tiến hành theo những nguyên tắc,
trình tự, thủ tục được quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định
182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về đất đai thể hiện ở các
quyết định xử phạt, trong đó ghi nhận các hình thức, mức xử phạt áp dụng đối với tổ chức,
cá nhân vi phạm. Việc quyết định áp dụng hình thức xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm
khắc của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về đất đai, qua đó giáo
dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật đất đai nói riêng và pháp luật nói chung.
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, thì ngoài việc áp dụng các
hình thức xử phạt ra còn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm giáo dục tại
xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa
bệnh; quản chế hành chính. Tuy nhiên, theo Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì không áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính khác với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Như vậy, khi nói đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai chỉ gồm xử phạt hành
chính, mà không có các biện pháp xử lý hành chính khác. Theo điều 6 của Nghị định trên thì
các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cảnh cáo, phạt tiền; tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; buộc khôi phục lại tình trạng của
đất trước khi vi phạm.
1.3.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
a. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời gắn với
trách nhiệm của chính quyền cấp cơ sở, với công tác kiểm tra, thanh tra đất đai. Việc xử phạt
vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của Nghị định 182/2004/ND-CP
và quy định của pháp luật có liên quan.
b. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính quy định trong
Nghị định 182/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/10/2004.
c. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền quy định tại các
Điều 25, 26 và 27 của Nghị định 182/2004/NĐ-CP thực hiện.
d. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì từng người vi phạm đều
bị xử phạt.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm.
e. Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết,
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình.
g. Hình thức xử phạt hành chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ sung,
biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính đối với