Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Nghệ thuật truyện ngan Dạ Ngân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.33 KB, 54 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN VĂN TÂN
NGHỆ THUẬT TRUYỆN CỦA DẠ NGÂN • • • •
Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC Sĩ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM • • •
Ngiròi hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Tôn Thảo Miên
HÀ NỘI, 2013.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đội ngũ các nhà văn nữ chiếm
một vị trí đáng kể, những sáng tác của họ đã đem đến cho nền văn học
1
nước nhà những đổi mới, cách tân trên nhiều phương diện. Nhà văn Dạ
Ngân là một trong số những cây bút được người đọc quan tâm trong thời
gian qua.
Năm 2005, nhà văn Dạ Ngân đã nhận hai giải thưởng, một của Hội nhà văn
Hà Nội và hai là của Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết Gia đình bẻ mọn. Quan
trọng hơn khi tác phẩm được xuất bản thì chính tác giả đã “không ngờ hiệu ứng của
nó lại lớn thế” (1200 cuốn sách đã bán hết trong vòng ba tháng, hiện nay Nhà xuất
bản đã in 1500 cuốn nữa).
Nhiều độc giả “Cảm OTL Dạ Ngân” bởi chị đã cho họ một thân phận, một
cuộc đời để có thể sống, trải nghiệm và suy ngẫm, dù chỉ là qua những trang viết
mà thôi.
Trong thông báo về Giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2004 = 2005
(Báo Văn nghệ số 42 ra ngày 15-10-2005), có đoạn viết: “Dù đôi chỗ có dấu hiệu
phân vân và ngập ngừng giữa yếu tố tự truyện với hư cấu, Gia đình bé mọn là cuốn
tiểu thuyết chắc tay, chứng tỏ độ chín của cây bút nữ được độc giả yêu mến từ đồng
bằng sông Cửu Long, hiện sống và viết tại Hà Nội, trao giải cho tiểu thuyết này,
Hội nhà văn Hà Nội muốn thêm một lần khẳng định sức bền của ngòi bút Dạ
Ngân”.


Vậy “độ chín” và “sức bền” của ngòi bút Dạ Ngân được thể hiện như thế nào
qua các sáng tác của nhà văn? Đó là điều chúng tôi quan tâm trong luận văn này.
1.2. Theo tự thuật về tiểu sử văn học, Dạ Ngân viết văn ngay từ những năm
sau chiến tranh ( Năm 1978, vì nhiều nguyên do nội tâm, tôi thấy mình phải viết.
Còn nhớ, hôm ấy là một buổi trưa, căn hộ tập thể vắng tanh, tôi ngồi trước trang
giấy mà tay kia vẫn nắm dây đưa võng cho con, đó là đứa con thứ hai của cuộc hôn
nhân do chiến tranh thu xếp. Tôi hết sức tin mình - chắc ai cũng phải có niềm tin
thiêng liêng như vậy mới viết được - tin vào sự thũc bách lương thiện của trái tim
2
mình. Tạp chí Văn Nghệ tỉnh in truyện ấy vào số Tết, giờ tôi không dám đọc lại nó
nhưng quả tình, lúc nhìn thấy cái truyện đầu tay của mình trên mặt báo, tôi tưởng
mình vừa uống cả dòng sông rượu, ngây ngất và có thế làm được mọi điều tốt đẹp
trên đời). Nhưng có lẽ, sự nghiệp văn chương của chị chỉ thực sự bắt đầu từ khi làn
gió đổi mới, dân chủ của Đảng thổi bùng lên. Năm 1984, Dạ Ngân viết Con chó và
vụ ly hôn. Nhưng truyện ngắn này đã được cất giữ rất lâu trong tủ để chờ cơ hội.
Giữa năm 1986, Con chó và vụ ly hôn mới được in. Dư luận xôn xao quanh truyện
ngắn này có lẽ vì “lần đầu tiên những truyện khó nói nhất trong quan hệ vợ chồng
lại được một cây bút nữ viết ra một cách thẳng thắn, sòng phang đến thế” (Nguyễn
Hoàng Sơn ). Bản thân Dạ Ngân lúc đó cũng ý thức được rằng ở thời điểm văn xuôi
còn “e dè hay còn mãi trăn trở sau bao cấp” thì chắc chắn chị sẽ là “người đàn bà đi
ngược gió một mình”. Sóng gió qua đi, nhà văn có vinh dự của một người mở
đường. Năm 1987, Tạp chí Văn nghệ quân đội đã trao giải nhì cho truyện ngắn
Trên mải nhà người phụ nữ của Dạ Ngân. Năm 1989, chị tiếp tục gặt hái được
thành công với giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí
Minh cho truyện Thọ vẽ truyền thần. Năm 2004 Miệt vườn xa lắm đoạt giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi Gia đình bé mọn Những sáng tác của chị tuy không
trở thành “hiện tượng” (ngoại trù' tác phấm Gia đình bé mọn), nhưng cũng có sức
hấp dẫn nhất định đối với độc giả.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Nghệ thuật truyện Dạ
Ngân để nghiên cứu với mong muốn trên cơ sở đi sâu tìm hiểu nghệ thuật trong

sáng tác của Dạ Ngân, góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với sự
phát triến của văn xuôi Việt Nam thời kì đối mới nói chung và văn xuôi nữ nói
riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Theo khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên
3
cứu nào thật sự có quy mô và tương đối hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật trong các
sáng tác của Dạ Ngân, dù sự nghiệp của nhà văn đã được thời gian và công chúng
khắng định. Hầu hết, các bài viết hiện có đều mới ở dạng cảm nhận về một tập
truyện ngắn, một tiểu thuyết mới xuất bản, hay một lời giới thiệu sách. Có lẽ vì Dạ
Ngân viết không thật nhiều, lại không thuộc những “hiện tượng lạ vụt đến” tạo nên
những đột biến trong làng văn kiểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị
Hoài Nhưng lặng lẽ mà quyết liệt đầy tự tin, nhà văn của miệt vườn miền Tây này
đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình qua mỗi tác phẩm.
Năm 1986, tập truyện ngắn Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân ra mắt bạn đọc.
Tập truyện gồm 12 truyện ngắn với các mảng đề tài khác nhau ở những thời gian và
không gian khác nhau. Đọc Quãng đời ấm áp, Chu Huy có cảm nhận: “Dù viết về
đề tài nào đi nữa, Dạ Ngân đều hướng người đọc tìm đến cội nguồn trục tiếp hoặc
gián tiếp, từ những tình cảm trong sáng, mãnh liệt, từ những nền tảng tư tưởng
không bao giờ mờ phai của những năm tháng chiến tranh giải phóng đầy hy sinh
gian khổ mà rất đỗi hào hùng”. Ở tác phẩm đầu tay này của Dạ Ngân, Chu Huy
nhận ra những ưu trội của văn phong Dạ Ngân sau này sẽ phát triển thành thế mạnh
riêng của chị: “viết khá sành về tâm lý nhân vật nữ”. Trong nhiều truyện khác, Dạ
Ngân cũng gợi được ấn tượng của người đọc bằng “những phát hiện. Đó là đoạn đối
thoại trong Thi vị cuộc đời khi chủ nhiệm trại lúa giống vặn vẹo và răn đe chiến sĩ
thi đua nông nghiệp Trần Thanh Tâm. Đó là tâm trạng xúc động của Dung trong
Đêm cuối tuần. Hình ảnh miệt giồng phong phú của một tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long với dòng Nước Đục, xóm chài, cầu khỉ, với những con người với cá tính và
ngôn ngữ địa phương làm cho cách viết của Dạ Ngân thêm dễ mến”. Bên cạnh đó,
tác giả Chu Huy cũng nhận ra những hạn chế khó tránh khỏi của “đứa con đầu lòng”

của Dạ Ngân: “còn đều đều, không có truyện thật nổi bật và giọng văn kể chuyện ở
ngôi thứ nhất ở hầu hết mọi chuyện dễ nhàm chán. Dạ Ngân còn thiếu một sự nhuần
nhuyễn, lô-gic trong khi xử lý các tình huống, các kết thúc thường phải dùng đến
4
một số yếu tố ngẫu nhiên, nhưng sự cố ”; đồng thời ông cũng đặt niềm tin: “Con
đường truyện ngắn của chị mới là bước đầu, chị có vốn sống và vật liệu phong phú,
lại tinh tế trong nhận xét, nên người đọc có cơ sở để tin vào những sáng tác tiếp theo
của chị”[67]
Cũng qua những truyện ngắn đầu tay này của Dạ Ngân, nhà phê bình Nguyễn
Văn Lưu đã nhận định: “Trong số những cây bút nữ viết văn xuôi hiện nay, Dạ
Ngân là một tác giả trẻ đang được chú ý đến. Truyện của chị đậm đà tâm tình của
một phụ nữ Nam Bộ giàu tình cảm và suy tư luôn trăn trở về cuộc sống cá nhân và
đồng đội, bạn bè với gia đình, quê hương, với lý tưởng và nghĩa vụ, những khao
khát nồng cháy của trái tim thiếu nữ trước cuộc đời”
Riêng truyện ngắn được giải nhì Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1987 Trên
mải nhà người phụ nữ đã được giới phê bình đánh giá cao bởi một thứ văn xuôi giàu
chất thơ. Nguyễn Trọng Hoàn khẳng định truyện có nhiều đoạn thành công bởi “ở
đó hình ảnh, màu sắc, âm thanh được khai thác một cách triệt để làm trang viết
trở nên thi vị, thực sự có hồn, khiến người đọc có thế tri giác như được bước vào thế
giới sinh động tồn tại dưới dạng vật chất”.
Năm 1990, tập truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn gồm chín truyện ngắn viết từ
năm 1985 đến 1989 ra đời đã khẳng định thêm chỗ đứng của Dạ Ngân giữa làng
văn. Nhà văn Ngô Ngọc Bội, người có công “dọn đường” cho Tướng về him của
Nguyễn Huy Thiệp, Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu và những truyện ngắn
đầu tiên của Phạm Thị Hoài đến được với công chúng trong bài viết về Con chó và
vụ ỉy hôn cho rằng: “Trong những năm 1985 - 1990, một thời văn chương có nhiều
biến động : “Tìm tòi - Trăn trở - Xô bồ thì Dạ Ngân vẫn bình tĩnh đi theo hướng đã
chọn, vốn là một cây bút từng trải, dày dặn vốn sống, biết khai thác sự uyên thâm
của văn chương bác học, biết chắt lọc từ cuộc sống thực của đồng bằng sông Cửu
Long - một cuộc sống đa dạng, một vùng ngôn ngữ đa cảm và giàu hình tượng - văn

5
của Dạ Ngân lắng đọng, vừa ấm áp đôn hậu, vừa dữ dằn cay đắng rất Nam Bộ để rồi
hướng tới cái thiện”. Ông còn nhận ra “cái mạnh nhất, quý nhất của Dạ Ngân là
nghệ thuật khắc hoạ: cách nhìn của góc cạnh. Khai thác tâm lý nhân vật, tình tiết,
chi tiết và sử dụng ngôn ngữ thật tài hoa. Cái đặc thù của chị là khai thác chiều sâu,
truy kích đến cùng. Có thể cũng là tình huống ấy, bối cảnh ấy người khác viết rất
nhạt nhẽo, vô vị. Dạ Ngân đặt đúng chỗ, điểm đúng huyệt, bằng những nét nhỏ tinh
vi, có thể nói là tọc mạch - nét riêng của phụ nữ, làm cho văn của Dạ Ngân chói lên,
người đọc phải sửng sốt ngơ ngác”. Nhà nghiên cứu văn học Mai Hương trong bài
viết “Truyện ngắn của Dạ Ngân ” đã đánh giá cao hướng khai thác, tiếp cận hiện
thực riêng, nét đặc sắc trong thế giới nhân vật và văn phong của Dạ Ngân. Những
thế mạnh này đều được phát huy và thể hiện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn -
cuốn sách tâm huyết và quan trọng của nhà văn.
Cuốn tiếu thuyết gần đây nhất Gia đình bé mọn đã nhận được nhiều ý kiến
phản hồi từ phía độc giả, các nhà văn, nhà phê bình. Nhà văn Nhật Tuấn đã viết vê
Chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt trong Gia đình bé mọn và cho rằng: “Gia đình bẻ
mọn của Dạ Ngân thật ra chang bé mọn chút nào, nó chứa đựng một dung lượng
thông tin nén chặt Khác hẳn chiều hướng lảng tránh hiện thực tạo nên một thứ
văn chương tào lao đầy rẫy trên văn đàn hiện nay, nhà văn Dạ Ngân thực sự đã dũng
cảm rọi đèn vào những góc tối, khuất tất của cuộc sống, làm hiện rõ toàn cảnh bức
tranh xã hội đầy nhức nhối hiện nay”. Nhà văn Hoài Nam trong Bốn lời bình cho
tiểu thuyết Gia đình bé mọn nhận định đây là “cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia đình”,
qua đó “tác giả cho thấy một mẫu hình phụ nữ chủ động chèo lái con thuyền cuộc
đời mình, một kiểu phụ nữ kiên nhẫn tới mức “lì lợm” để sống thật và sống đẹp với
chính nhu cầu tinh thần của mình”. Thống nhất với nhận định của Nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Hoài Nam khẳng định: Gia đình bé mọn còn là tiểu
thuyết có đề tài “rộng hơn đề tài gia đình”. Đó là thân phận con người dưới sức ép
chiến tranh “Chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên đời sống xã hội, lên nhân tính,
6
lên tình yêu của một thời kỳ đăng đẵng ngay cả khi tiêng súng chỉ còn ám ảnh trong

giấc ngủ. Là người từng ở Cứ nhiều năm, sau đó lại kinh qua thời kỳ hậu chiến như
hàng triệu người dân Việt Nam khốn khố, nhà văn Dạ Ngân thấu hiểu điều này, và
có lẽ Gia đỉnh bé mọn chính là kết quả của cả một quá trình mà bà đã suy ngẫm rất
nhiều về chiến tranh và những hệ quả của nó, tất nhiên theo cách riêng của bà”. Tác
giả của Bốn lời bình cho Gia đình bẻ mọn còn khẳng định những phẩm chất làm nên
thế mạnh ngòi bút của Dạ Ngân “sự cấn trọng và tinh tế trong câu chữ, khả năng kết
hợp nhuần nhuyễn giữa “mỹ văn” và ngôn ngữ đời thường của người Nam Bộ, sự
sắc sảo trong phác hoạ nhân vật bằng một vài chi tiết đắt giá, nhanh gọn; và sau
cùng là một cái nhìn cuộc đời - dù với sự phê phán - nhưng vẫn luôn bằng ánh mắt
đôn hậu”.
Cũng về cuốn tiểu thuyết này, dịch giả - nhà nghiên cứu Trần Thiện Đạo tâm
đắc với: “Thuật kể chuyện truyền thống không hoa hoè, không kiểu cách, không cầu
kỳ, có thể bảo là cổ điển đó là bệ phóng nhấc cuốn tiểu thuyết trồi lên, nổi bật”.
Tác giả Lê Tú Anh cho rằng Gia đình bé mọn là một cuốn tự truyện dưới dạng
tiểu thuyết và khẳng định đó là sự tìm kiếm thành công về mặt thể loại của Dạ
Ngân.
Theo Hoàng Thị Quỳnh Nga trong bài Cảm ơn Dạ Ngân nhận xét: “Đe tài về
người đàn bà nổi loạn theo quan niệm đạo đức không có gì mới, cốt truyện cũng khá
đơn giản. Nhung có lẽ điều thành công của Dạ Ngân ở cuốn sách này là khả năng
miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm giác, cảm xúc rất phụ nữ của Tiệp cũng như
tâm trạng dằn vặt đến quặn thắt của một người luôn mặc cảm không sống hết mình
cho con Ngoài những trang viết tinh tế và xúc động về cảm giác và sự giằng xé,
Gia đình bẻ mọn còn hấp dẫn người đọc bởi bức tranh xã hội thời kỳ bao cấp”.
Còn nhà văn Wayne Karlin (sinh năm 1945 tại New York) đã nhận xét: “Tiểu
thuyết Một Gia Đình Bé Mọn ”, cuốn sách lần theo cuộc đời của Lê Thị Mỹ Tiệp,
7
người đàn bà từng có một thời con gái là nữ du kích góp phần vào cuộc chiến tranh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và một xã hội lý tưởng, đến tuổi trưởng thành, lại
đấu tranh cho giải phóng con người và tình yêu cá nhân. Hành trình của cái “gia
đình bé mọn” của Tiệp trùng hợp với hành trình của đất nước nàng từ đoạn chót của

cuộc chiến Việt - Mỹ đến thế kỷ 21, từ ngày đầu cuộc giải phóng và tái thống nhất
đất nước (ít nhất cũng cho bên chiến thắng) đến sự võ’ mộng và suy thoái do những
chính sách hậu chiến có tác dụng khuyến khích tham nhũng, sự làm ăn kém hiệu
quả, tiếp tục lòng hận thù giữa kẻ thua người thắng và cuối cùng là đến tận thời Đổi
Mới, thời kỳ được cho là đất nước đang hướng tới sửa chữa nhiều sai lầm trong quá
khứ - khi thành công khi không nhung luôn luôn phải đối mặt với những phức tạp
mới.
Trong khi câu chuyện của Tiệp xay ra giữa ba thời kỳ này - giải phóng, suy
thoái, và đối mới - và có thế tương ứng cho ba thời kỳ này - giải phóng, suy thoái,
và đổi mới - bản thân Tiệp không bao giờ chỉ là vai trò tượng trưng: Dạ Ngân đã
sáng tạo ra một cá nhân hiện thực đầy đặn, một sự đối lập của kiểu nhân vật thuần
túy mang lý tưởng cách mạng rất có giá trong chiến tranh và sau chiến tranh và
trước thời kỳ đổi mới, trong văn học Việt Nam cũng như trong tư tưởng Khổng giáo
với người phụ nữ tam tòng tứ đức. Tác giả đã làm chúng ta nhận thức được cuộc
đấu tranh là có tính cá nhân như thế nào khi bà xây dựng nhân vật Tiệp là một nhà
văn, và một vài nhân vật khác như vậy nữa - không giống chút nào với những phần
còn lại của cái gia đình quy ước của nàng - những nhân vật mà chân trời và ý nghĩa
của sự lựa chọn đã rộng mở, được phơi bày ra trong văn chương của bà:
“Quả tình, giữa nàng và những người thân là hai thế giới, phía kia không có
Tầng đầu địa ngục, không có Sông Đông êm đềm, không có Người Tình, không có
cả Rôbinxơn và Những người khốn khổ còn nàng thì lúc nào cũng sách vở bút mực,
xê dịch và ham muốn. Những lúc như lúc nay Tiệp thấy công việc viết lách của
8
mình thật dị thường, những suy nghiệm của mình thật phù phiếm, những việc khiến
mình đau khố hoặc khát thèm thật vô bố. Những người đàn bà rất biết tận dụng sự
chi phối ấy chỉ quan tâm đến tôn ti và trật tự, đến công dung và ngôn hạnh cổ
truyền, đến yên ổn và sung túc, ai là cán bộ thì phải làm rạng danh thân tộc bằng
cương vị ngày một cao hon, ai là nông dân thì phải chăm chỉ và giỏi nhang đèn.
Những bài báo của nàng còn có thể hiểu được, thứ văn chương mà nàng lọm cọm
hằng đêm kia thì thật đáng hoài nghi vì nó không có hình thù, không có quyền lợi,

suy ra nó hư vô và không quan trọng.”
Tiệp, luôn là một nhà cách mạng và luôn là một độc giả, từ chối nhìn thế giới
qua cái lăng kính của truyền thống hay ý thức hệ. Chẳng hạn, có một thời kỳ khi
mọi người bị cấm nói điều tốt cho nhũng người Việt Nam từng ở phía bên kia cuộc
chiến, và mặc dầu bản thân nàng cũng từng chiến đấu chống lại họ, nàng vẫn
ngưỡng mộ lòng chung thủy và tính cách mạnh mẽ của người vợ và con gái của một
cựu đại tá Nam Việt Nam không còn nhà ở và nghèo đói đến tận cùng vì đã từng
dính líu đến phía thất trận, hơn cả những con người máy và đạo đức giả cùng cơ
quan. Bằng cách này hay những cách khác, cuốn tiểu thuyết dựng lên hai hoàn cảnh
xã hội - nơi lằn chia cắt đất nước vẫn còn giữ lại một thời gian sau khi chiến tranh
kết thúc năm 1975 - và sự mạnh mẽ của tính cách nhân vật Tiệp.Gia đình nội ngoại
của Tiệp, những người miền Nam bắt nguồn từ vùng châu thổ sông Mekong đều có
truyền thống nho giáo và cách mạng. Sau khi cha nàng chết trong lao tù của chính
quyền Nam Việt Nam trong chiến tranh, nàng và tất cả anh chị em bắt mối với
những người được gọi là Việt Cộng, những du kích của Mặt trận giải phóng miền
Nam đang chiến đấu chống lại chính phủ và người Mỹ, cuộc chiến chính nàng cũng
tham gia từ năm 16 tuổi. Khi gặp Tuyên lần đầu tiên, người đàn ông sau này thành
chồng nàng, anh ta cũng là một chiến sĩ Mặt Trận, thì mối quan hệ của họ càng
khăng khít hơn và thực ra - như sau này nàng kể lại - phải chăng cũng vì chiến tranh
mỗi ngày càng ác liệt:
9
“nàng rụt sâu xuống hơn trong cái công sự với người thanh niên có thể chết
cùng với mình bởi một quả pháo chụp pháo đào hay pháo trộn gì đó. Dàn đồng ca
của súng đạn, đô la và giàu có chừng như bất tận, không mệt mởi, như chúng muốn
băm vằm cái ngã ba và cái cây trâm bầu trên đầu họ ra. Tai Tiệp ù đặc, mắt nàng
long lanh cảm thán vì Tuyên đã nắm được tóc nàng kéo lên đúng lúc và đã ấn nàng
xuống cái công sự như cái lỗ huyệt nay. Nàng cười sàng sặc rồi nàng mếu máo
khóc, bỗng nàng nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào, hàng nút áo bung
ra tự bao giờ, hai trái ngực nàng đang săn lên run rẩy bởi đôi bàn tay ngốn ngấu
trong thứ nước màu sữa đục, lạ quá, cảm giác được mơn trớn mà cũng được dày vò

nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm phủ, lạ quá. Hình như anh ta có hào
hển rằng đã có ý với nàng từ lâu, ngay hồi mới đầu quân về cơ quan, đã chấm nàng
và mơ được cưới nàng làm vợ Không gian bỗng lịm đi, tai họa đã qua thật, nàng
tót lên miệng công sự chống tay lên mép đất ngồi thở. Mùi của đất đai cây cỏ bị huỷ
diệt, mùi môi của người thanh niên vừa khám phá được phân nửa nàng dưới công
sự, mùi của thân xác lần đầu nghe thấy nó cồn từ bên trong ra, cấp rấp, kêu gào sông
sót rôi, phơi bày rôi, tận hưởng đi buông xuôi đi. Tuyên dựng nàng đứng lên: “Giờ
phải đi coi chiếc xuồng rồi kiếm chỗ, tụi nó cho pháo dọn bãi, thế nào hồi nữa cũng
có đố quân nhảy giò!” Thế là có ân tình, có kỷ niệm sống chết và có cả chữ tín trong
sự trao gửi tiết trinh ”
Ở chỗ này Dạ Ngân trở thành một trong số ít nhà văn hiện đại Việt Nam phơi
bày một cách trực tiếp sợi tóc mong manh giữa cái chết và tình dục phát lộ ra trong
thời chiến và cũng có ý ám chỉ sự mù lòa đầy quyến rũ của bản thân chiến tranh.
Người tình đậm đà, đầy dũng cảm chiến trận trở thành tay quan liêu tự mãn, cuồng
tín và một người cha người chồng bàng quan trong những năm hòa bình sau chiến
thắng, “ mẫn cán, cần cù và hoàn toàn đáng thương hại”. Chủ nghĩa lý tưởng nồng
nhiệt xã thân cho đại nghĩa và sự gần kề cái chết đã từng làm họ yêu nhau, làm tình
với nhau lần đầu trong nỗi kích động mạnh mẽ đã không sống sót nổi trước áp lực
1
0
của cuộc sống trong hòa bình và Dạ Ngân dùng cuộc sống tình dục của Tiệp như là
của đánh cược cho nỗi thất vọng đó. Trong khi nhiều nhà văn Việt Nam, từ Nguyễn
Du, tác giả Truyện Kiều và vào thế kỷ 18, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã đi trước
dùng tình dục để thám hiểm tính cách và tập tục xã hội (và ngược lại), chuyện mô tả
tình dục một cách trục tiếp của Tiệp là hiếm hoi, ít nhất cũng trong nhũng tác phẩm
văn học Việt Nam đã được dịch ra tiếng Anh mà chúng ta có dịp đọc. Tiệp đã không
thỏa mãn với Tuyên và cô ấy đi tìm một tình yêu lý tưởng, xúc động và đầy cảm
hứng hơn, tự buộc vào những chuyện rắc rối tệ hại, thậm chí lâm vào những thách
thức còn tồi tệ hơn nhiều khi muốn làm lành với chồng, và cuối cùng thì hai mươi
năm lịch sử truyền kỳ, khi Tiệp và Đính, ông chồng nhà văn xứ Bắc mà nàng đã

yêu, người có hoàn cảnh li hôn phức tạp, nào con cái, công việc, và cảnh tái hôn, cái
vũ trụ nhở gọi là gia đình “bé mọn”, thực ra đó là ánh xạ của cuộc đấu tranh của
chính đất nước. Trong khi phải đối mặt với một Việt Nam sau cảnh hoang tàn chiến
tranh nặng nề, cảm nhận thất vọng của Tiệp khi thấy những chiến sĩ từng đánh giặc
rất hiệu quả, thỉ lại kém cỏi tạo dựng một xã hội mà con người có thể sống được,
cảm nhận ấy lan toả khắp nơi và bi đát. Gia Đình Bẻ Mọn tràn ngập mô tả sinh động
những pha nhỏ nhặt chuyện tham nhũng, đạo đức giả và ăn trên ngồi trốc, sự nghèo
đói tột cùng và cảnh xếp hàng vô tận để có chút hàng hóa và thực phẩm sau chiến
tranh.
Tiệp đấu tranh để được sống với người mình yêu, vật lộn để xác định rõ tình yêu
của mình cũng như khuôn dạng con người nàng cần phải có trong đời, thì nước Việt
Nam của nàng cũng phải đấu tranh để khẳng định bản thân mình và tương lai mà nó
muốn đạt tới như thế. Tiệp phạm sai lầm, học hỏi để lớn lên, bị biến đổi như thế nào
thì đất nước của nàng cũng vậy. Nếu đến thăm thủ đô Việt Nam hôm nay, thăm
đường phố với san sát cửa hàng, những khách sạn và quán cà phê tràn ngập cùng
với những con người kiên nghị và một tinh thần năng động có mặt ở khắp nơi, ai
1
1
còn tưởng tượng được cái nghèo triền miên và cảnh đói khát của những năm bảy
mươi, hon nữa có thể tưởng tượng là những quả bom đã từng được rải xuống chính
những đường phố này trong những năm chiến tranh, vẫn còn đói nghèo và bất cập
cùng tất cả những vấn đề mới mẻ đồng hành một cách căng thắng giữa hiện đại và
truyền thống trong bước ban đầu của toàn cầu hóa. Thế nhưng cũng đã có nhũng
biến đối hầu như kỳ diệu. Cuốn tiếu thuyết đến với chúng ta năm 2005, với Tiệp và
Đính, với đất nước của họ, vẫn còn nhức nhối bao vấn đề chưa có lối thoát, vẫn còn
cuộc vật lộn để tụ’ khẳng định mình, nhưng thời chiến tranh đã đi xa và sự hoang
tàn cũng đã đi theo nó. Cũng như bản thân Hà Nội, đang cuộn lên với những đọt
sóng ngầm của một thời đại mới: rào cản được hạ xuống, ý tưởng dám nghĩ dám
làm được khởi sắc, những ý kiến được nói to, giây trói được cởi bỏ, hy vọng đang ló
dạng

Như vậy, đã có những nhận xét, đánh giá xung quanh sáng tác của Dạ Ngân từ
năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, đa phần các ý kiến mới chỉ dừng lại ở mức độ ấn
tượng, cảm nhận chung hoặc phát hiện, dự đoán thông qua một tập truyện hay một
tiếu thuyết của Dạ Ngân chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống
về toàn bộ sáng tác của nhà văn. Xâu chuỗi các bài viết, các ý kiến về sáng tác của
Dạ Ngân từ trước đến nay, chúng tôi thấy các ý kiến đều thống nhất ở việc khẳng
định:
Đe tài sáng tác chủ yếu của Dạ Ngân chính là đề tài gia đình. Song vấn đề đặt ra
trong tác phẩm của bà thường lớn hơn bản thân đề tài, vượt ra ngoài
phạm vi đề tài như thân phận và hoàn cảnh con người trong chiến tranh, trong thời
hậu chiến
Nhà văn Dạ Ngân có sở trường nắm bắt và miêu tả tâm lý nhân vật. Ngoài ra,
ở chị còn có sự cẩn trọng và tinh tế trong từng câu chữ.
1
2
Chúng tôi xem đây là những gợi ý quý báu của các nhà phê bình và các nhà
văn, để đi sâu khảo sát một cách hệ thống hơn các sáng tác của Dạ Ngân, cũng như
đóng góp của cây bút này với văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích nghiên cún
Thông qua việc khảo sát có hệ thống các sáng tác của Dạ Ngân và trên cơ sở
đi sâu tìm hiếu nghệ thuật thế hiện, luận văn nhằm:
- Góp phần làm sáng tỏ nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện cũng như
để tìm hiểu một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong truyện của Dạ Ngân.
- Khẳng định những nét đặc sắc làm nên gương mặt văn chương Dạ Ngân -
một cây bút văn xuôi nữ tiêu biểu thời kỳ đổi mới, cũng như những đóng góp
của nhà văn với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung, văn
xuôi thời kỳ đổi mới nói riêng.
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cún
4.1 .Đối tượng nghiên cứu
Nhằm có cái nhìn bao quát về nghệ thuật truyện Dạ Ngân, chúng tôi tập trung

nghiên cún các phương diện sau đây:
- Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại và quá trình sáng tác của Dạ Ngân
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện trong truyện của Dạ Ngân
- Một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện của Dạ Ngân
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác của Dạ Ngân
nhưng tập trung chủ yếu vào các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Cụ thể là:
- Tiểu thuyết:
1
3
+ Ngày của một đời
+ Miệt vườn xa lắm
+ Gia đình bé mọn
- Truyện ngắn:
+ Quãng đời ấm áp +
Con chó và vụ ly hôn +
Cõi nhà
+ Dạ Ngân - Truyện ngắn chọn lọc
+ Dạ Ngân, Nguyễn Quang Thân - Hai mươi năm tình yêu và tác phấm (in
chung với Nguyễn Quang Thân).
5. Phương pháp nghiên cửu
Đẻ thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính
sau đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại và quá trình sáng tác của Dạ Ngân
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện trong truyện của Dạ
Ngân

Chưong 3: Một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện của Dạ
Ngân
1
4
NỘIDƯNG
CHƯƠNG
1
VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA DẠ NGÂN.
1.1. Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại.
1.1.1 Bối cảnh xã hộỉ sau đổi mói
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, một kỷ nguyên mới đã
mở ra cho dân tộc. Từ đây, một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc trở thành
động lực, mục tiêu định hướng cho mọi sự phát triển trong đó có sự phát triển của
văn học. Khi cuộc chiến tranh vừa kết thúc, thì sức mãnh liệt về chiến công tạm
lắng xuống và thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ nát,
ngổn ngang, bộn bề, nhức nhối đã xuất hiện, đòi hỏi một sự nhận thức, sự đối mặt
với những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Suốt ba mươi năm tắm mình trong thực
tiễn chiến tranh, dường như nhà văn chưa có điều kỉện, chưa có thì giờ đê nghiên
ngẫm suy tư, đê quan sát hiện thực từ nhiêu phía. Khi chiến tranh đã lùi lại phía
sau, họ mới tìm được một khoảng cách thích họp đế ngắm nghía, nghĩ suy và
nhận diện nó trong tĩnh tổng thể toàn vẹn và tính nhiều mặt của sự kiện. Những gì
trong chiến tranh chưa bộc lộ, chưa được nhận thức, chưa tiện nói ra thì nay đã
phơi bày trước mắt. Trong niềm vui sum họp Bắc Nam, sum họp gia đình, dòng
họ, quê hương có cả những nỗi buồn do hi sinh mất mát. Trong cái được lớn của
đất nước, non sông, có cái mất của mỗi con người, mỗi gia đình Với cái nhìn
đạo đức thế sự, thực tại chiến tranh đã bước đầu được lí giải bổ sung, lý giải theo
tinh thần phân tích sâu sắc. Tuy thái độ thận trọng và những chiêm nghiệm sâu
lắng của các nhà văn trong thời kỳ này có làm cho văn học chững lại, thiếu đi cái
khí thế của thời ra trận nhưng hình như đó lại là khoảng lặng cần thiết sau chiến

tranh để chuẩn bị cho sự ra đời của những tác phẩm chứa đựng những quan điểm
mới, cái nhìn mới về hiện thực. Hoà bình lập lại, những quy luật của đời sống
chiến tranh tỏ ra không còn hiệu lực. Một quy luật khác đã hình thành và chi phối
tiến trình lịch sử. Nhung sự thay đổi đó không diễn ra một cách mau lẹ, chóng
vánh, mà có khi còn kín đáo, âm thầm. Cho nên việc nhận thức nó cũng không
phải là việc một sớm một chiều, không ít những quán tính, những kinh nghiệm đã
trở nên lỗi thời, không phù hợp, thậm chí còn cản trở sự phát triển của xã hội đã
không được nhận thức. Tiêu biểu là việc duy trì cơ chế điều hành xã hội theo kiếu
hành chính, tập trung quan liêu bao cấp, gia đình trị, vấn đề họ tộc kéo dài gần
10 năm. Với cơ chế này lực lượng sản xuất bị kìm hãm nặng nề, kinh tế hàng hoá
chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, cơ sở kỹ thuật hạ tầng
không được xây dựng, những vấn đề chính trị, xã hội hậu chiến không tìm được
hướng giải quyết thoả đáng. Mặt khác, trên lĩnh vực đạo đức tinh thần của xã hội,
những vấn đề nhức nhối do hậu quả của chiến tranh không những không được
giải quyết mà còn bùng lên ở những bình diện khác nhau. “Cái nông thôn hợp tác
xã hoà thuận và yên bình tất cả cho tuyền tuyến ngày nào giờ đã bộc lộ những bê
bối, lủng củng, thậm chí rệu rã trước những cố gắng ràng buộc, trước sự kìm hãm
của những chính sách lỗi thời không còn đáp ứng được đòi hỏi của quy luật vận
động và phát triển. Bên cạnh sự nỗ lực của ý chí, một thực tại khác đã nhen nhóm
và hình thành. Đây chính là mầm mong đầu tiên, là cơ sở để đất nước thức tỉnh tư
duy sau những nỗ lực sai lầm” (Phan Trọng Thưởng - TCVH - số 10- 2003.).
Chưa bao giờ kịch tính của sự phát triển lại thu hút sự quan tâm của toàn xã hội
như thời kỳ này. Nhiều mâu thuẫn tiềm ẩn trong cuộc sống và trong quá trình sản
xuất đã đến lúc chín muồi, đòi phải được bộ lộ và giải quyết. Vấn đề quan hệ của
người nông dân với ruộng đất, hay vấn đề quyền lợi cá nhân, họ tộc Ý thức về
gia đình, dòng họ, quyền hành là những thí dụ. Mới nghe tưởng là vấn đề nhỏ
nhưng thực chất nó là vấn đề trung tâm tác động đến cơ chế quản lý xã hội, đến
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều người nhận xét rằng đây là
thời kỳ của những mâu thuẫn, xung đột không chỉ bề ngoài mà cả bên trong nội
dung của mỗi hiện tượng, mỗi vấn đề. Hơn nữa, đời sống xã hội từ khi chuyển

qua cơ chế thị trường càng trở nên phức tạp và căng thẳng “hằng ngày, hàng giờ
diễn ra cuộc đối chứng giữa hai mặt nhân cách và phi nhân cách, giữa cái hoàn
thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm
hồn mỗi con người - miếng đất nương nấu và gieo mầm nhiều lỗi lầm và tội ác”
(Nguyễn Minh Châu “Bén quê” Nxb Tác phẩm mới - HN 1985 trl44). “Cái nhất
thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm ở giữa cái nhân hậu, cái cực đoan nằm
giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở; cái nhảy cẫng lên lấc láo giữa cái dung dị, thái
độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ “ (Nguyễn Minh
Châu “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh hoạ”. Văn nghệ số ra
ngày 5-12-1987). Đây cũng là vấn đề ý thức, quan niệm của nhiều nhà văn trong
cao trào đổi mới văn học. Ý thức này trở thành tình cảm, hứng thú, thúc giục họ
cầm bút viết thêm những tấn bi kịch của con người, kiếp người, đặc biệt là con
đường đi tìm hạnh phúc cá nhân của những người phụ nữ trong cuộc sống bộn bề
hôm nay.
Người phụ nữ đời nào cũng vậy, là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa.
Nhưng sự phản ánh họ trong văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn thì mỗi
thời mỗi khác. Trong một giai đoạn mà cảm hứng công dân chi phối hoạt động
sáng tác, người phụ nữ trong văn học Cách mạng Việt Nam 1945-1975 ít được
nhìn nhận ở những đặc trung giới tính. Họ thường mang trong mình một phẩm
chất chung xác định giá trị con người là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, thành
tích cống hiến cho tập thể. Họ được ca ngợi là nhũng người “giỏi việc nước đảm
việc nhà”. Trong xu hướng tìm lại con người ở nhũng đặc trưng bản thể và khát
khao trần thế, các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận người phụ nữ nghiêng về
những gì thuộc về thiên tính, thiên chức của họ. Văn học đổi mới không còn
nhiều những phụ nữ sắt đá, kiên cường nữa mà thay vào đó là những con người
yếu đuối, nhẹ dạ cả tin, đa cảm, đa đoan Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta
được gặp gỡ đủ loại phụ nữ trong truyện của các nhà văn nữ. Bằng kinh nghiệm
bản thân, các nhà văn này thoải mái phô bày đời sống của người phụ nữ ở tầng
sâu bản thế. Họ đem đến cho văn học những trải nghiệm mới, những hiểu biết
mới về người phụ nữ. Họ cho ta cảm nhận về người phụ nữ hiện đại, những con

người thật đa sự. Sự bất ốn trong nội tâm của họ là do “bản tính” của họ mà ra
chứ không do ai khác gây ra. Viết văn đòi quyền lợi cho người phụ nữ hoặc phản
ánh tình trạng mất bình quyền nam nữ cũng là mục đích sáng tác của nhiều cây
bút nữ thời nay. Trong văn giói Việt Nam, chúng ta thường nghe câu nói "Văn là
người". Chúng tôi không cho rằng nhà văn sống ngoài đời ra sao thì sống trong
tác phẩm cũng như thế. Văn không phải là tấm gương phản chiếu thành thật con
người tác giả. Tuy nhiên, đế hiếu sâu sắc tác phấm của nhà văn thì một việc nhất
thiết phải làm là tìm hiểu quan niệm của nhà văn về đối tượng thẩm mĩ mà họ
hướng đến. Phải thấy rằng, nhũng nhà văn nữ sau đổi mới trước hết họ cũng là
những người phụ nữ hiện đại. Họ có một nghề nghiệp với những va chạm phức
tạp. Họ có một gia đình với những mối quan hệ bề bộn như nhà văn Võ Thị Hảo,
Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ
Mỗi người có một câu chuyện, mỗi người là một dòng sông, nó chảy từ
nguồn ra tới biển. Dòng sông là thứ chúng ta không thể cắt khúc, rồi xóa đi khúc
này khúc nọ được, nó cần có sự liên tục. Trò chuyện với các nhà văn, lĩnh hội ý
kiến của họ cũng như soi bóng mình xuống dòng sông tư tưởng của họ. Có thể
dòng sông này hiền hòa, êm ả, dòng sông kia nhiều ghềnh thác hoặc ngay trên
môt dòng sông cũng có khúc dịu dàng, có khúc dữ dội nhưng chính những nét
khác biệt đó lại tạo nên sự cuốn hũt mãnh liệt. Quan điểm của các nhà văn nữ có
thể có nhũng điểm tương đồng, cũng có thể khác biệt, điều đó không có gì khó
hiếu. Qua những phát biếu đó, chúng ta hiểu về người phụ nữ hiện đại trong tác
phẩm của họ hơn, nhờ vậy, tác phẩm của họ đến gần với độc giả hơn.
1.1.2 Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Từ năm 1986 đến năm nay, xã hội ta có những biến chuyển sâu sắc trên mọi
phương diện: sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang được đấy
nhanh tốc độ phát triến, việc giao lưu, hội nhập đa phương với thế giới cũng được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong xu thế mở cửa. Lịch sử xã hội luôn
tác động và chi phối đến văn học. Đó là một quy luật. Văn học Việt Nam sau năm
1975 cũng không nằm ngoài quy luật đó. Với một tiền đề xã hội - thẩm mỹ như
thế, sự đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975 là tất yếu. Từ nửa sau thập

kỉ 80 nhờ công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam văn học thực sự có
bước chuyển đổi lớn. Từ năm 1986 văn học bước vào công cuộc “cởi trói” cho
mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến nhũng chuyến biến lớn lao về tư duy
văn học. Chính vì vậy văn học thời kì này đa dạng hơn về giọng điệu, phong phú
hơn về thể loại và cũng gây nhiều tranh cãi hơn. Bước chuyển mình của văn học
được thể hiện ở cả ba thể loại là: thơ, kịch, văn xuôi Ở văn xuôi, thể loại ghi lại
dấu ấn rõ rệt nhất với việc đi sâu phản ánh cái hàng ngày, cái thường nhật, về
ngôn ngữ và phương thức trần thuật có nhiều thủ pháp mới như: tăng cường đối
thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện. Tất cả những điều
đó đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho văn xuôi. Mười năm đầu đối mới văn đàn
đã chứng kiến sự được mùa của văn xuôi. Trong đó có sự đóng góp của các cây
bút nữ. Người ta nói nhiều đến một nền văn học “mang gương mặt nữ”. “Đã hình
thành một tỉ lệ giữa phái yếu và đấng mày râu là 2/3 - một tỉ lệ đáng gờm. Mười
năm sau đó chúng ta có thể kiểm nghiệm sự sung sức và bền bỉ trong sáng tạo
nghệ thuật của đội ngũ những nhà văn nữ. Bên cạnh thế hệ nhà văn đã trưởng
thành trong chiến tranh như: Lê Minh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như
Trang, Lê Minh Khuê , thế hệ nhà văn mới phát lộ tài năng. Đây là đội ngũ nhà
văn đông đảo, trẻ tuổi, sung sức, tự tin và đầy nhiệt huyết. Có thể kể đến những
gương mặt quen thuộc với bạn đọc như: Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y
Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Châu Giang,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Trần Thùy Mai Với nhiệt huyết và sáng tạo
không ngừng họ xứng đáng là đội ngũ kế cận thế hệ đàn chị của mình. Họ đã thể
hiện khả năng sáng tạo của mình bằng các ngôi vị quán quân trong các cuộc thi
viết truyện ngắn, tiểu thuyết do tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Mỗi tác giả có
một cách viết riêng song ẩn dưới những trang viết của họ là niềm yêu thương, sự
trân trọng, sự cảm thông với số phận của những người phụ nữ. Các chị đã thể
hiện được lợi thế của giới tính khi xây dựng một thế giới nhân vật nữ có nội tâm
phong phủ và phức tạp, đào sâu khai thác những bí ẩn trong tâm hồn người phụ
nữ. Các nhà văn nữ có lối viết phá cách và giọng điệu đa dạng. Nguyễn Thị Thu
Huệ chao chát và từng trải nhưng cũng không kém phần dịu dàng, đằm thắm. Võ

Thị Hảo ngọt ngào. Y Ban táo bạo và khắc khoải trong Bức thư gửi mẹ Ấu Cơ,
Ước mơ của chị bán hàng rong, Thiên đường và địa ngục, Làng Cò, Cưới chợ.
Phan Thị Vàng Anh với lối viết lạnh lùng, trí tuệ và hóm hỉnh. Lý Lan hồn hậu và
sắc sảo. Nguyễn Ngọc Tư sâu lắng và mượt mà trong giọng điệu Nam bộ. Bên
cạnh những mặt mạnh, văn xuôi nữ giới cũng còn những hạn chế như: “chưa tìm
được sự cân đối hài hòa” giữa lí trí và trí tuệ (theo Phương Lựu), quan tâm đến
“chuyện” nhiều hơn “văn” (theo Bùi Việt Thắng) và nguy cơ lặp lại mình khá rõ.
Tuy nhiên với những thành công của họ chúng ta tin tưởng rằng họ sẽ đi xa hơn
và sẽ là lực lượng kế cận có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học nước
nhà.
Trước tiên có thể kể đến là nhà văn Phạm Thị Hoài sinh năm 1960. Bà là
một nhà văn hiện đại, nhà biên soạn và dịch giả. Bà đang sống ở Đức.
Phạm Thị Hoài sinh ra và lớn lên tại tỉnh Hải Dương. Năm 1977, bà đến
Đông Berlin và học ở Đại học Humboldt, nơi mà bà đã tốt nghiệp chuyên ngành
về văn khố. Năm 1983, bà trở về Việt Nam, sống ở Hà Nội, làm chuyên viên lun
trữ văn thư rồi bắt đầu viết văn một cách nghiêm chỉnh. Năm 1988, quyển tiểu
thuyết đầu tay của bà được xuất bản tại Hà Nội với tựa đề Thiên sứ rồi sau đó
quyển này bị cấm lun hành, về sau, Thiên sứ được dịch sang tiếng Anh, Pháp,
Tây Ban Nha, Ý, Đức và Phần Lan. Năm 1993, bản dịch Thiên sứ bằng tiếng Đức
đã đoạt giải “Tiếu thuyết nước ngoài hay nhất” của tổ chức Frankfurter
LiBeraturpreis trao tặng hàng năm cho tiểu thuyết xuất bản tại Đức. Riêng bản
dịch tiếng Anh thì đoạt giải Dinny 0'Heam cho thế loại văn học dịch vào năm
2000. Cũng trong năm này, Phạm Thị Hoài rời Việt Nam sang Berlin, nơi bà
đang sống và làm việc hiện nay. Ở Berlin, bà sáng lập tạp chí Talawas trên
Internet có tầm ảnh hưởng lớn. Trong lời bạt bản dịch Thiên sứ q\X2l Tôn Thất
Quỳnh Du, ông viết về Phạm Thị Hoài như sau:
“Ở Việt Nam, cách viết của Phạm Thị Hoài khiến đọc giả và những nhà phê
bình hết lời ca ngợi và cũng lắm kẻ chê bai. Những viên chức văn hóa của Việt
Nam phản đối cái nhìn phê phán của bà về nước Việt Nam hiện tại, bà đã vi phạm
bởi sự thiếu tôn trọng truyền thống và phạm phải những điều cấm kỵ của xã hội

[ ] Mặc dù bị công kích trên diễn đàn công khai, Phạm Thị Hoài chưa bao giờ là
bị cáo về sự bất đồng quan điểm chính trị. Thay vào đó, nhũng kẻ phỉ báng đã
buộc tội bà là có cái nhìn bi quan quá đáng về Việt Nam, bà đã sỉ nhục “sứ mệnh
thiêng liêng của một nhà văn”, thậm chí bà còn viết “dung tục” nữa. Nhưng, ngay
cả những nhà phê bình mạnh mẽ nhất cũng thừa nhận rằng bà là một nhà văn có
con mắt u ám trong việc mổ xẻ chi tiết, chua cay và hài hước, song lại có thính
giác tốt về nhịp điệu của tiếng Việt”.
Ngoài tác phẩm Thiên sứ, được ca ngợi trên bình diện quốc tế, Phạm Thị
Hoài còn xuất bản những tiểu luận, hai tuyển tập truyện ngắn. Đó 1 kMê Lộ
( 1989) Man Nương (1995). Ngoài ra, bà còn một tác phẩm khác là Marie sến
(1996). Bà là một dịch giả nối tiếng về văn chương Đức. Bà đã dịch những tác
phẩm của Franz Kafka, Bertolt Brecht, Thomas Bernhard và Friedrich
Dürrenmatt sang tiếng Việt. Bà còn là người biên soạn quyển Trần Dần - Ghi:
ỉ954-1960 (Paris, TD Mémoire, 2001), một tuyển tập các bài báo của Trần Dần.
Những tiểu luận và truyện ngắn của bà xuất hiện trong những tạp chí văn chương
ở Hoa Kỳ, úc, Thụy Sĩ và Đức, ngoài ra còn xuất hiện trong một số tuyến tập về
truyện Việt Nam đương đại, gồm có: Night, Again và Vietnam: A Traveler’s
Literary Companion. Riêng quyển Sunday Menu, một tuyến tập truyện ngắn của
bà do Tôn Thất Quỳnh Du dịch sang tiếng Anh, quyển này được xuất bản lần đầu
tại Pháp năm 1977 với tựa đề Menu de dimanche, còn bản tiếng Anh Sunday
Menu thì do Pandarus Books xuất bản tại úc năm 2006 và được University of
Hawaii Press xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2007.
Tiếp đến là nhà văn Trần Thùy Mai tên thật là Trần Thị Thùy Mai, sinh
ngày 8 tháng 9 năm 1954 tại Hội An, Quảng Nam. Quê quán: làng An Ninh
Thượng, xã Hương Long, huyện Hương Trà, (nay là phường Hương Long, Thành
phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết
đến khi đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng. Tốt nghiệp
Tú tài 2 từ 1972, chị thi đậu thủ khoa môn văn Đại học Sư phạm Huế. Sau 1975,
chị học tiếp Đại học Sư phạm. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, Trần Thùy Mai

được giữ lại trường, làm công tác giảng dạy và nghiên cún môn Văn học dân
gian. Năm 1987, chị quyết định chuyển sang làm biên tập viên ở Nhà xuất bản
Thuận Hóa. Vói lối rẽ này, Trần Thùy Mai đã chọn nghiệp viết làm con đường đi
cho riêng mình.
Trưởng thành cùng thế hệ với Lý Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc ở Sài Gòn,
những người cầm bút đầu tiên sau chiến tranh. Có thể nói, đây chính là thế hệ dò
đường đi tìm những đề tài hậu chiến. Tính từ truyện ngắn đầu tay "Một chút màu
xanh" in trên Tạp chí Sông Hương đến nay, nữ nhà văn người Huế này đã có trên
30 năm cầm bút vói hàng trăm tác phẩm truyện ngắn được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu mến. Trong đó, một số truyện ngấn nổi tiếng như: Gió thiên đường, Thập tự
hoa, Quỷ trong trăng, Thương nhớ Hoàng Lan, Mưa đời sau, Người bản linh
hồn, Trăng nơi đáy giếng, Thị trấn hoa quỳ vàng của chị đã được dịch sang
tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật Trần Thùy Mai là một trong những nhà
văn nữ viết khỏe và khá đều tay hiện nay. "Những truyện ngắn của chị rất đa
dạng, phảng phất không khí đất trời xứ Huế, quan tâm đến mọi mặt của cuộc
sống, nhất là lóp trẻ và nhìn họ với một con mắt đầy yêu thương và hy vọng".
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, Trần Thùy Mai viết nhiều về những đề tài và
nhân vật lịch sử, đặc biệt là những nhân vật nữ in bóng trong lịch sử triều
Nguyễn, gắn liền với Kinh thành Huế. Trần Thùy Mai từng tâm sự: “Vói tôi, viết
là một nghề. Nó giống như mọi nghề khác ở chỗ phải có kỹ năng và lương tâm.
Vì thế, trong cuộc đời tôi đã có nhiều lúc buồn nản nhưng chưa bao giờ thấy chán
viết, chưa bao giờ muốn bỏ bút”.
Là một phụ nữ Huế nhẹ nhàng, tinh tế và sâu sắc, Trần Thùy Mai thấm thìa
nỗi đau, sự tổn thương và mất mát trong tình yêu. Một điều dễ dàng nhận thấy,
Trần Thùy Mai dành tình cảm ưu ái rất riêng cho các nhân vật nữ của mình.
"Cuộc sống vốn đa chiều và phức tạp. Tình yêu cũng không nằm ngoài quy luật
khắc nghiệt ấy. Thế nhưng, tình yêu dẫu mất mát, phụ bạc và đớn đau đến
nhường nào thì con người cũng chỉ thật sự tìm thấy hạnh phúc khi có nó. Chính
vì thế, tình yêu trong truyện ngắn Trần Thùy Mai không đon thuần là một câu
chuyện lãng mạn, thấm đẫm nước mắt đế "câu khách” mà đó là cái cớ để chị nói

về cuộc sống với những con người đang ngày ngày sống, yêu và ruồng bỏ tình
yêu của chính mình. Mỗi câu chuyện đau đáu một nỗi niềm.
Tác phấm: cỏ hát, tập truyện ngắn đầu tay in chung với Lý Lan, Nhà xuất
bản Tác phẩm mới, Hà Nội - 1983. Bài thơ về biển khơi, Tập truyện ngắn, Nhà
xuất bản Thuận Hóa, Huế - 1983. Thị trấn hoa quỳ vàng, Tập truyện ngắn, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội - 1994. Trò chơi cấm, Tập truyện ngắn, Nhà xuất
bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh - 1998. Người không lè núi Bạc, Truyện thiếu nhi, Nhà
xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh - 2002. Đêm tải sình, Tập truyện ngắn, Nhà xuất
bản Thuận Hóa, Huế - 2003. Thập tự hoa, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Thuận
Hóa, Huế - 2003. Biến đời người, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Công an nhân
dân, Hà Nội - 2003. Thương nhớ Hoàng Lan, Tập truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn
Mới, California, USA - 2003. Mưa đời sau, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn
Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2005. Mưa ở Trasbourg, Tập truyện ngắn, Nhà
xuất bản Phụ Nữ, Hà Nội - 2007. Lửa hoàng cung, Tập truyện ngắn, Nhà xuất
bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2008, Nxb Thanh Niên, Hà Nội - 2010.
Một mình ở Tokyo, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí
Minh - 2008. Onkel yêu dấu, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố
Hồ
Chí Minh - 2010. Trăng nơi đáy giếng, tập truyện ngắn chọn lọc, Nhà xuất bản
Thanh Niên - 2010.
Nghiên cứu: Truyện kế dân gian Bình Trị Thiên, Sưu tầm - biên khảo, Soạn
chung với Trần Hoàng, Phạm Bá Thịnh, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên
xuất bản 1986. Ca dao, dân ca Bình Trị Thiên, Sưu tầm - biên khảo, Soạn chung
với Trần Hoàng, Phạm Bá Thịnh, Đinh Thị Hựu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế -
1989. Dân ca Thừa Thiên Huế, Sưu tầm - biên khảo, Nhà xuất bản Thuận Hóa,
Huế - 2004.
Dịch thuật: Bên trong, Tập truyện ngắn của các tác giả nữ Nhật Bản, dịch
từ tiếng Anh, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2010. Nhiều truyện ngắn của Trần
Thùy Mai đã được chuyển thể kịch bản sân khấu hoặc dựng thành phim như:
"Hãy khóc đi em" (2005)"Gió thiên đường", "Thập tự hoa" (2005), "Trăng nơi

đáy giếng" (2009) nhưng người đọc vẫn muốn nếm hêt những vị đăng cay, điệu
man mác cho đên nhũng dồng cuôỉ cùng
Viết về văn chương Trần Thùy Mai, nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà có nhận
xét: “ Nhữỉĩg nhân vật của Trần Thùy Mai thường không bình lặng. Họ cô đơn,
hâng hụt, tiếc nuối nhưng không bao giờ từ bỏ khát vọng sống của mình bằng
cách bơi ngược dòng sông kỷ ức đế làm sống lại những điều tốt đẹp Đọc Trần
Thùy Mai, tôi bị cuôn hút bởi chất nhân ải và triêt lý này. Con người dù giận
hờn, hẳn học nhưng trong tận cùng sâu thắm của ỷ thức cộng đằng, họ âm thầm
sẻ chia và nhận nôi đau về mình đê được kẻo dài ra trong niềm vui của người
khác, đế được yêu trong trắc ân dù có khỉ không tránh khỏi sự đoi xử thờ ơ,
nguội lạnh của tha nhân ”
Nguyễn Vinh Sơn, đạo diễn bộ phim “Trăng nơi đáy giếng”, một đồng
hương xứ Huế với nữ nhà văn thì nhận xét: “Cảm nhận của Trần Thùy Mai đầy
Huế. Chất thơ là thuộc tính của người Huế từ cung cách đi đứng, nói năng đến
lối sống thâm trầm, sâu sắc, tinh tế ”
Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ cho rằng: “Càng về sau văn chị viết càng đời,
càng đầy đủ mặn ngọt đắng cay của những phận đời trong đó Dù những cái kết
được bảo trước nhưng người đọc vân muốn nếm hết những vị đắng cay, điệu
man mác cho đến những dòng cuối cùng. ”
Tiếp là nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm
1976, quê quán ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Doi, tỉnh Cà Mau. Hiện chị sống và
làm việc tại TP Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là Hội viên Hội Nhà Văn trẻ tuổi
nhất hiện nay. Người ta xem Ngọc Tư là một hiện tượng lớn của văn học nước

×