Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Sự vận dụng học thuyết giá trị lao động vào thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.88 KB, 45 trang )

Bài Tiểu Luận Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1
NSVTH: Nhóm 01 Lớp: CH.K15A
PHẦN MỞ ĐẦU
Sự hình thành và phát triển của học thuyết giá trị - lao động gắn liền với sự phát
triển của các phương thức sản xuất và sự tự tiến bộ của khoa học công nghệ. Trong
giai đoạn đầu; các nhà kinh tế với những quan điểm, đánh giá, nhận thức khác nhau về
giá trị - lao động nên đã hình thành các trường phái kinh tế khác nhau.
Trường phái đầu tiên phải kể đến trước hết là chủ nghĩa Trọng Thương - họ cho
rằng chỉ có thương nghiệp mới tạo ra giá trị, của cải cho xã hội; tuy nhiên, cũng chính
trường phái này đã đánh giá chưa đúng về vai trò của các ngành công nghiệp, nông
nghiệp và sự đóng góp của sức lao động trong việc tạo ra lợi nhuận. Những nhà kinh tế
tiêu biểu của trường phái này gồm có: William Stafford (1554-1612), Thomas Mun
(1571-1641), Antoine de Montchretien (1575 – 1629), Jean Baptiste Colbert (1619 –
1683).
Tiếp sau đó là sự ra đời của chủ nghĩa Trọng Nông - họ khẳng định chỉ có nông
nghiệp mới là ngành tạo ra của cải, giá trị chỉ được sinh ra trong quá trình sản xuất chứ
không phải trong lưu thông và chỉ có sản xuất nông nghiệp mới là sản xuất có ích cho
xã hội. Những nhà kinh tế khởi xướng và phát triển các lý luận kinh tế của trường phái
này phải kể đến như: A.R.J Turgot, Marquis de Condorcet và Francois Quesnay
(1694-1774).
Đến thế kỷ XVII, ở Anh, khi Chủ nghĩa Trọng Thương đã không thể giải thích
được hết các hiện tượng kinh tế, lý giải các quy luật kinh tế một cách khoa học và tỏ ra
không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nữa thì chủ nghĩa các học thuyết
kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã ra đời. Học thuyết mới mang tính chất ưu việt
hơn hẳn so với các trường phái trước; lần đầu tiên các quy luật của nền kinh tế thị
trường, các phạm trù kinh tế cơ bản được xây dựng một cách có hệ thống như như:
phạm trù giá trị - giá cả, lợi nhuận, tiền lương, địa tô, lợi tức, các quy luật giá trị, cung
cầu, lưu thông tiền tệ,…Các nhà kinh tế đã góp công rất lớn cho sự hình thành và phát
triển của trương phái này điển hình như: William Petty (1623-1687), Adam Smith
(1723 – 1790), David Ricardo (1772 – 1823).
Như dòng nước chảy xiết, vạn vật đều biến đổi theo thời gian, các hiện tượng của


nền kinh tế cũng thay đổi không ngừng, các mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền
kinh ngày càng đan xen chằng chịt đòi hỏi phải có một học thuyết kinh tế chính trị mới
Bài Tiểu Luận Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Trang 2
NSVTH: Nhóm 01 Lớp: CH.K15A
có thể giải đáp đúng bản chất của tất cả những quy luật, hiện tượng kinh tế và cách
thức giải quyết các mâu thuẫn nội tại của nó. Học thuyết kinh tế chính trị của Karl
Marx ra đời để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, là một học thuyết cách mạng,
khoa học và chân chính. Marx đã phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khám phá ra
giá trị sức lao động được xem là hàng hóa, quy luật giá trị thặng dư và hệ thống các
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, qua đó làm cho nhận thức về quy luật giá trị
được đầy đủ hơn. Người đã khẳng định giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất
hàng hóa kết tinh vào trong hàng hóa. Giá trị là phạm trù lịch sử, có sản xuất hàng hóa
thì mới có giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị, giá trị
là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Sự hình thành và phát triển của học thuyết giá trị - lao động gắn liền với sự hình
thành và phát triển của các học thuyết kinh tế của Châu Âu.

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dựa vào các lịch sử hình thành và phát triển học thuyết giá trị - lao động đã cho
chúng ta thấy những ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với việc xây dựng và phát triển
kinh tế, xã hội của mỗi nước. Nếu nhận thức đúng thì chúng sẽ góp phần thúc đẩy nền
kinh tế đi lên, làm giảm bớt các mâu thuẫn trong xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Ngược lại, cũng chính chúng sẽ đưa nền kinh tế đi theo những hướng lệch lạc, không
những không thể cải thiện được đời sống người dân mà còn đưa nền kinh tế đi xuống,
rơi vào khủng hoảng, xã hội có những bước đi “thụt lùi” về mọi mặt. Vì thế, việc
nghiên cứu làm rõ các khái niệm, phạm trù và các quy luật của học thuyết giá trị - lao
động góp phần đánh giá đúng bản chất của các hiện tượng kinh tế, vị trí và vai trò của
mỗi chủ thể kinh tế và khẳng định những lý luận khoa học ấy sẽ là cơ sở trong việc
đưa ra các đường lối, chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế của một quốc gia.


2. Đối tượng nghiên cứu
- Sự hình thành và phát triển của học thuyết giá trị - lao động cho đến nay
được thể hiện trong các trường phái, các học thuyết kinh tế, kinh tế chính trị của các
nước Châu Âu và sự vận dụng sự hiểu biết về những tri thức khoa học đó ở Việt Nam
hiện nay.


Bài Tiểu Luận Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Trang 3
NSVTH: Nhóm 01 Lớp: CH.K15A
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của học thuyết giá trị -
lao động cho đến nay,
- Làm rõ các vấn đề kinh tế mang tính quy luật như quy luật giá trị, quy luật
trao đổi và lưu thông hang hóa, lao động, lợi nhuận, …,
- Khẳng định việc nghiên cứu và tổng kết thực tiễn một cách khoa học các quy
luật, các phạm trù kinh tế và mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế có vai trò
to lớn trong xây dựng nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và đúng định hướng;
đồng thời đối chiếu những nội dung đó, đặc biệt là học thuyết giá trị - lao động, vào
nền kinh tế Việt Nam để thấy được chúng ta đã vận dụng được những gì và đạt những
kết quả như thế nào trong việc xây dựng và phát triển kinh tế nước ta hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Chỉ khi đứng trên quan điểm biện chứng, lịch sử chúng ta mới
có thể đánh giá một cách khoa học các giai đoạn phát triển của học thuyết giá trị - lao
động. Từ đó, làm sáng tỏ vị trí và vai trò lịch sử của nó trong việc phát triển kinh tế,
cũng như khẳng định sự ra đời của các học thuyết kinh tế nói chung và học thuyết giá
trị - lao động nói riêng là một đòi hỏi khách quan chứ không do ý muốn chủ quan của
cá nhân nào.
- Các phương pháp khác như phương pháp quy nạp, diễn dịch, đối chiếu so

sánh qua đó rút ra những ưu nhược điểm của học thuyết giá trị - lao động biểu hiện ở
mỗi giai đoạn khác nhau.

5. Kết quả đạt được, hạn chế của đề tài
 Kết quả đạt được
- Hiểu thêm về sự hình thành và phát triển của các học thuyết giá trị lao động
qua từng thời kỳ.
- Đánh giá được ưu, nhược điểm; thành tựu và tồn tại, hạn chế của các học
thuyết giá trị qua từng thời kỳ.
- Vận dụng những lý luận của các học thuyết giá trị - lao động vào thực tiễn
Việt Nam hiện nay.
Bài Tiểu Luận Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Trang 4
NSVTH: Nhóm 01 Lớp: CH.K15A
 Hạn chế của đề tài
- Hạn chế về kiến thức chuyên ngành: nhóm chưa thật sự hiểu sâu về các học
thuyết giá trị - lao động qua các thời kỳ.
- Chưa vận dụng được hết các lý luận của các học thuyết giá trị - lao động vào
thực tiễn Việt Nam.

6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bài tiểu luận của nhóm 01 còn có các nội dung
chính sau:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển học thuyết giá trị - lao động cho đến
nay.
Chương 2: Sự vận dụng học thuyết giá trị - lao động vào thực tiễn Việt Nam


Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 5
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
CHƯƠNG 1:

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ - LAO ĐỘNG CHO ĐẾN NAY

1.1. Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Thương
1.1.1. Tiền đề ra đời của Chủ nghĩa Trọng Thương
1.1.1.1. Hoàn cảnh Kinh tế - Xã hội
Chủ nghĩa Trọng Thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời
trước hết ở Anh vào thời kỳ Phục Hưng - khoảng những năm 1450. Đặc điểm thời kỳ này
là:
 Về kinh tế: Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất,
tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực. Do đó trong thời kỳ này thương nghiệp có vai
trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động
thương nghiệp.
 Về mặt chính trị: Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên
tiến có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn
nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó Chủ nghĩa Trọng Thương ra đời nhằm chống lại chủ
nghĩa phong kiến.
 Về mặt xã hội: Đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ
trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…Đáng chú
ý nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Christopher Columbus
tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả năng
làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây.
1.1.1.2. Tiền đề về tư tưởng
- Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng - tức là
thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các
nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa
thông qua con đường ngoại thương.
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 6
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
- Chủ nghĩa Trọng Thương là những quan điểm xuyên suốt của giai cấp tư sản

(tầng lớp tư sản Chủ nghĩa Trọng Thương thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ
nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản).
1.1.2. Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Thương
1.1.2.1. Những quan điểm kinh tế của Chủ nghĩa Trọng Thương
Hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Trọng Thương bao gồm bốn quan điểm cơ bản
sau đây:
 Thứ nhất, chủ nghĩa Trọng Thương đánh giá cao vai trò của tiền tệ.
Họ đồng nhất tiền tệ với của cải, cho rằng tiền tệ mới là tài sản thực sự của một
quốc gia, một nước càng có nhiều tiền thì càng giàu có, sự giàu có tích lũy dưới hình thái
tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn. Đồng thời, coi hàng hóa chỉ là phương tiện nhằm
gia tăng khối lượng tiền tệ, mục đích của mọi chính sách kinh tế của một quốc gia là làm
tăng khối lượng tiền tệ. Chủ nghĩa Trọng Thương là trường phái đầu tiên coi trọng vai trò
của tiền tệ trong lịch sử kinh tế.
 Thứ hai, quan niệm về nghề nghiệp trong xã hội.
Họ cho rằng nghề nghiệp nào trong xã hội làm gia tăng khối lượng tiền tệ mới là
những ngành nghề có ý nghĩa tích cực và ngược lại. Cụ thể là:
- Nông nghiệp là ngành trung gian giữa tích cực và tiêu cực vì sản phẩm đầu ra
sản phẩm vật chất song không phải mua các yếu tố đầu vào. Như vậy, tuy không tạo ra
nhưng cũng không tiêu tốn tiền tệ.
- Công nghiệp là ngành nghề mang tính tiêu cực vì phải bỏ tiền ra mua các yếu tố
đầu vào để sản xuất ra sản phẩm vật chất.
- Thương nghiệp là ngành duy nhất trong xã hội có ý nghĩa tích cực và tạo ra của
cải trong xã hội. Vì sản phẩm đầu vào là sản phẩm vật chất và thu lại tiền tệ.
Trường phái trọng thương không chỉ đánh giá cao vai trò của thương nghiệp cụ thể
còn nhấn mạnh vai trò của ngoại thương, khối lượng tiền tệ của một quốc gia chỉ có thể
gia tăng bằng con đường ngoại thương, đặc biệt là ngoại thương xuất siêu.
 Thứ ba, chủ nghĩa Trọng Thương giải thích nguồn gốc của lợi nhuận thương
nghiệp.
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 7
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A

Họ giải thích rằng lợi nhuận của thương nghiệp là kết quả của hoạt động trao đổi
không ngang giá (mua rẻ bán đắt), là sự lừa gạt cướp bóc giống như trong chiến tranh. Họ
cho rằng không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác, trao đổi
phải có một bên thua để bên kia được. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi nhuận
của dân tộc khác.
 Thứ tư, chủ nghĩa Trọng Thương rất đề cao vai trò của nhà nước
Chủ nghĩa Trọng Thương chưa biết đến và không thừa nhận sự hoạt động của các
quy luật kinh tế khách quan. Do đó, họ đánh giá rất cao vai trò của nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp
đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu
hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng phát
triển.
1.1.2.2. Nội dung về giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Thương
Chủ nghĩa Trọng Thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở
các nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau.
1.1.2.2.a. Chủ nghĩa Trọng Thương tại Anh:
Chủ nghĩa Trọng Thương ở Anh chia làm hai giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn một: diễn ra trong thế kỉ XV-XVI gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ.
- Giai đoạn hai: diễn ra trong thế kỉ XVI gọi là giai đoạn học thuyết về bảng cân
đối thương mại.
 Giai đoạn học thuyết tiền tệ.
Đại biểu của học thuyết tiền tệ của CNTT thời kỳ này là William Stafford (1554-
1612).
 Quan điểm:
- Quan điểm trọng thương của ông được trình bày trong tác phẩm: “ Trình bày
tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào chúng ta”. Trong tác phẩm này ông cho rằng
nguyên nhân của sự đắt đỏ nằm ở vấn đề khối lượng tiền trong nền kinh tế. Vì thế, Nhà
Nước cần phải có các biện pháp hành chính tác động vào quá trình lưu thông nhằm giữ
khối lượng tiền khỏi bị hao hụt.
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 8

NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
- Nội dung chủ yếu là bảng cân đối tiền tệ: ngăn chặn không cho tiền chạy ra
nước ngoài, khuyến khích mang tiền vàng từ nước ngoài về.
 Biện pháp:
- Quy định tiền của nước Anh là vàng.
- Chống lại mọi hành vi đem tiền ra ngoài; các thương gia nước ngoài vào nước
Anh được khuyến khích mang tiền vào nhưng không được mang tiền ra khỏi nước Anh
mà phải mua hàng hóa mang ra.
- Cấm nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết.
- Xâm chiếm, mở rộng thuộc địa để tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng nhiều
biện pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.
 Giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.
Đại biểu của học thuyết về bảng cân đối thương mại là: Thomas Mun (1571-1641)-
“Của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng nội bộ được chuyển thành tiền ở thị trường nước ngoài”.
 Nội dung chủ yếu:
- Muốn giàu có phải tung tiền vào lưu thông, không được giữ tiền lại.
- Phải biết xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán : “ Vàng đẻ ra thương mại,
thương mại làm phát triển số tiền lên”.
- Phải đẩy mạnh hoạt động thương mại: “ Đó là hòn đá thử vàng đối với sự phồn
thịnh của một quốc gia”, “ Không có phép lạ nào khác kiếm tiền ngoài thương mại”.
Trong thương mại “hàng năm, chúng ta cần giữ một nguyên tắc là bán cho người nước
ngoài một số lượng lớn hơn khối lượng hàng hóa mua vào”.
- Cần mở rộng cơ sở nguyên liệu cho công nghiệp bằng ngoại thương (nhập khẩu
nguyên liệu từ nước ngoài kết hợp với sức lao động trong nước nhằm phát triển sản xuất
trong nước).
- Thu hẹp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng.
- Đẩy mạnh cạnh tranh làm giá cả hàng hóa hạ xuống và nâng cao chất lượng
hàng hóa nội địa.

Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 9
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
- Trong ngoại thương, cần mở rộng thị trường bằng việc biết bán hàng với giá cả
thấp.
Đây là giai đoạn Chủ nghĩa Trọng Thương phát triển nhất, có tính chất thực tiễn, thể
hiện rõ ràng khát vọng của giai cấp tư sản Anh trong thời kỳ tích lũy tư bản
1.1.2.2.b. Chủ nghĩa Trọng Thương ở Pháp.
 Quan điểm của nhà kinh tế Antoine de Montchretien (1575 – 1629).
 Quan điểm:
- Quan điểm mang màu sắc tiểu tư sản, thông cảm với quần chúng nhân dân, đặc
biệt là nông dân bị đè nặng dưới ách phong kiến, lên án sự xa hoa của giới quý tộc. Nông
dân là chỗ dựa cho Nhà nước và Nhà nước phải quan tâm đến nông dân. Ông khẳng định
“tài sản của đất nước không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả dân số đặc biệt dân số
nông nghiệp”.
- Ông cho rằng thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành nghề khác nhau.
Thương nhân giữ vai trò liên kết người sản xuất với nhau. Lợi nhuận thương nghiệp là
chính đáng vì nó bù đắp sự rủi ro thua thiệt trong việc giao dịch mua bán.
- Ông viết “hạnh phúc của người ta là ở sự giàu có mà sự giàu có là ở trong lao
động” ông lên án sự lười biếng, coi đây là nguồn gốc của mọi tội lỗi và cho rằng nếu cần
thiết sẽ cưỡng chế những người trong độ tuổi phải có việc làm.
 Biện pháp:
- Hàng hóa nước ngoài bị đẩy ra khỏi nước Pháp, tăng cường thúc đẩy hoạt động
sản xuất trong nước và ngành thương mại, để nước Pháp có thể tự cung tự cấp. Các nhà
sản xuất vải lanh Hà Lan phải kết thúc hoạt động ở Pháp, cấm nhập khẩu sản phẩm dệt
của Anh. Thậm chí sách nước ngoài cũng bị cấm để ngăn chúng “đầu độc tinh thần chúng
tôi”.
- Cho thành lập rất nhiều công trường thủ công sản xuất các sản phẩm theo mẫu
của nước ngoài nhằm tạo việc làm cho người dân lang thang thất nghiệp.




Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 10
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
 Quan điểm của nhà kinh tế Jean Baptiste Colbert (1619 – 1683).
 Quan điểm:
Là bộ trưởng tài chính nước Pháp, ông đã xây dựng được cho nước Pháp một chính
sách kinh tế trong 100 năm. Chính sách kinh tế này phản ánh quan điểm trọng thương của
ông trong khuôn khổ thúc đẩy sự phát triển của công trường thủ công tư bản nhưng lại
không quan tâm đúng mức sự phát triển của nông nghiệp. Theo ông, ngoại thương có khả
năng làm cho thần dân được sung túc và thỏa mãn được các nhu cầu của vua chúa. Sự vĩ
đại và hùng cường của một quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định.
 Biện pháp:
Cũng giống như Antoine de Montchretien, mục tiêu của Jean Baptiste Colbert cũng
là xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp cho nước Pháp, cụ thể như sau:
- Colbert khuyến khích hoạt động sản xuất thủ công nghiệp trong nước bằng các
biện pháp trợ cấp và thuế quan, quy định một cách rõ ràng chất lượng và giá cả của sản
phẩm sản xuất ra. Ông cho thành lập các ngành công nghiệp mới, khuyến khích và đãi
ngộ các nhà khoa học, mời các nhà khoa học hoặc công nhân có tay nghề nước ngoài sang
Pháp.
- Đối với thương mại quốc tế, Colbert coi đây là con đường làm giàu cho đất
nước vì thế đưa ra hàng loạt các đặc quyền cho các chủ xưởng sản xuất hàng xuất khẩu.
Dưới sự giám sát của ông, hàng hóa muốn nhập khẩu vào nước Pháp phải chịu rất nhiều
quy định về thuế quan và tiêu chuẩn khắt khe.
- Colbert cho cải thiện chất lượng đường giao thông và hệ thống kênh mương trên
khắp nước Pháp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho lưu thông hàng hóa phát triển thương
mại.
- Tuy nhiên, đối với ngành nông nghiệp, Colbert đã có nhiều sai lầm làm cho
nông nghiệp bị sa sút như: chính sách hạ giá hàng nông phẩm, bắt bán lúa gạo với bất kỳ
giá nào, khi đã mang ra thị trường thì không được chở về nhà.
1.1.3. Nhận xét về Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Thương

1.1.3.1. Về mặt thực tiễn:
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 11
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
Những chính sách kinh tế của Chủ nghĩa Trọng Thương đưa ra như đẩy mạnh ngoại
thương, trợ giúp tài chính tín dụng, bảo hộ thuế quan… tạo ra nguồn vốn ban đầu rất lớn
cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình tích lũy tư
bản, rút ngắn thời kỳ quá độ từ phong kiến lên tư bản.
1.1.3.2. Về mặt lý luận
 Vai trò:
Trường phái Trọng Thương đã đặt nền móng cho các lý thuyết kinh tế sau này như:
Lý thuyết tiền tệ, Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Những luận
điểm của Chủ nghĩa Trọng Thương so sánh với nguyên lý trong chính sách kinh tế thời kỳ
Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc
tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được trích dẫn trong Kinh thánh:
- Thời kỳ phong kiến giải thích các hiện tượng kinh tế bằng thần bí tôn giáo còn
Chủ nghĩa Trọng Thương đã dựa vào tài liệu lịch sử, sự kiện có thật để phân tích kinh tế
- Thời kỳ phong kiến xem xét của cải nặng về mặt hiện vật còn Chủ nghĩa Trọng
Thương đã xem xét của cải theo quan niệm giá trị;
- CNTT còn thấy được mục đích của sản xuất và trao đổi hàng hóa là lợi nhuận.
 Hạn chế:
- Những quan điểm của CNTT rất ít tính lý luận mà nặng tính kinh nghiệm;
- Học thuyết kinh tế của CNTT mới chỉ dừng lại ở cái vỏ bên ngoài của các hiện
tượng và quá trình kinh tế, chỉ dừng lại xem xét trong lĩnh vực lưu thông mà chưa quan
tâm đến các hoạt động khác của nền kinh tế; chưa thấy được các quy luật kinh tế khách
quan chi phối đời sống kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế;
- Quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp tạo ra trong lưu thông là do mua rẻ bán
đắt là không chính xác;
- Đánh giá sai lầm vai trò vị trí của các ngành nghề kinh tế trong xã hội (coi trọng
quá cao thương nghiệp, xem thường công nghiệp…).




Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 12
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
1.2. Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Nông
1.2.1. Tiền đề ra đời của Chủ nghĩa Trọng Nông
1.2.1.1. Hòan cảnh Kinh tế - Xã hội
Chủ nghĩa Trọng Nông ra đời ở Pháp vào giữa thế kỷ thứ VXIII, khi hoàn cảnh
kinh tế xã hội Pháp đã có những biến đổi quan trọng đó là quá trình tích luỹ tư bản
nguyên thuỷ đã kết thúc, xã hội bắt đầu bước vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nhưng chủ nghĩa tư bản sinh ra trong xã hội phong kiến, tuy chưa có cuộc cánh mạng tư
sản lật đổ chế độ phong kiến nhưng sức mạnh kinh tế của nó rất lớn, đặc biệt là nó muốn
cách tân trong lĩnh vực nông nghiệp.
Pháp là nước nông nghiệp lạc hậu (hơn 90% là nông dân, công cụ sản xuất và
phương thức sản xuất lạc hậu). Tuy nhiên, ở Pháp lúc này, sự phát triển của nông nghiệp
theo hình thức tư bản chứ không bó hẹp lại kiểu phát canh thu tô theo lối địa chủ như
trước.
1.2.1.2. Tiền đề về tư tưởng
Yêu cầu cấp bách của nước Pháp là cần phải có cơ sở lý luận để giải quyết mâu
thuẫn giữa giai cấp phong kiến ngày càng lỗi thời và sự đang lên của chủ nghĩa tư bản.
Hơn nữa, hậu quả của chính sách trọng thương - công nghiệp của Colbert (đánh thuế cao
vào nông nghiệp để hỗ trợ cho phát triển công trường thủ công) làm cho nền nông nghiệp
suy sụp nghiêm trọng. Trước tình hình trên, Chủ nghĩa Trọng Nông ra đời để giải quyết
khủng hoảng và bế tắc, cùng nhau khôi phục và phát triển kinh tế trên cơ sở vực dậy nền
nông nghiệp, thay đổi tư duy về sản xuất nông nghiệp. Những đại biểu nổi tiếng của
trường phái này là: A.R.J Turgot, the Marquis de Condorcet và Francois Quesnay.
1.2.2. Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Nông
1.2.2.1. Những quan điểm kinh tế của Chủ nghĩa Trọng Nông
 Về sự giàu có: Giàu có của một quốc gia không thể hiện ở khối lượng vàng bạc,
mà thể hiện ở khối lượng nông sản. Quốc gia cường thịnh là quốc gia có nhiều lương

thực, thực phẩm.
 Về nguồn gốc của cải: Chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực nông nghiệp,
đề cao vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế, họ vạch ra sản xuất nông nghiệp là lĩnh
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 13
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
vực duy nhất tạo ra của cải và vật chất. Đất đai là nguồn gốc của giàu có tạo ra sản phẩm
thuần túy. Chỉ có nông nghiệp mới mang lại sự giàu có ấm no và hạnh phúc.
 Lao động nông nghiệp mới là lao động sản xuất; là lao động có ích, lao động sản
xuất ra sản phẩm thặng dư còn lao động trong các ngành khác là lao động không có ích,
không tạo ra sản phẩm thuần túy, không phải lao động sản xuất.
 Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế và cho rằng các hoạt động kinh tế chịu sự chi phối
của hệ thống các quy luật khách quan và chống lại sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế, nên khuyến khích lập trường kinh tế tự do (học thuyết về trật tự tự nhiên mà theo
Quesnay “trật tự của xã hội không do con người mà do thiên nhiên tạo lập, từ chối tất cả
các học thuyết về khế ước xã hội”. Con người chỉ mang đến sự mất trật tự, và chỉ bằng
cách tôn trọng đích xác các quy luật tự nhiên thì nó mới tránh được tình trạng hỗn độn
này).
1.2.2.2. Nội dung Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Nông
1.2.2.2.a. Lý luận về giá trị
Lúc này chưa có khái niệm về giá trị nên nghiên cứu dưới phạm trù giá cả thực tế là
mức cần thiết để bù đắp chi phí sản xuất: Giá trị = Chi phí sản xuất
Về trao đổi giữa các hàng hoá với nhau, Quesnay đề ra phải tôn trọng nguyên tắc
“ngang giá”, nghĩa là trao đổi không làm tăng giá của cải, vật chất (của cải chỉ được tạo ra
trong sản xuất, còn trao đổi chỉ là trao đổi giá trị sử dụng này để lấy giá trị sử dụng khác),
đó là sự phủ nhận mọi cơ sở phát sinh lợi nhuận trong lưu thông.
1.2.2.2.b. Lý luận về tiền tệ:
Tiền là phương tiện trung gian cho trao đổi được thuận lợi, tiền không phải là của
cải duy nhất, các nhà trọng nông chống lại việc tích trữ tiền.
1.2.2.2.c. Lý luận về sản phẩm thuần túy (sản phẩm thặng dư, thu nhập thuần
túy)

Chuyển nghiên cứu nguồn gốc sản phẩm thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh
vực sản xuất. Ông đề ra sự giàu có thực sự của quốc gia là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
con người, mà trước hết là lương thực, thực phẩm; chỉ những của cải sinh sôi nảy nở (tạo
ra thặng dư) mới biểu hiện sự giàu có.
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 14
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
Sản phẩm thuần túy là giá trị thặng dư của tổng giá trị sản phẩm tạo ra sau khi loạt
bỏ tổng chi phí sản xuất nông nghiệp.
Ở chế độ phong kiến, tổng chi phí sản xuất nông nghiệp biểu hiện ra là địa tô. Sản
phẩm thuần túy chỉ được tạo ra trong nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp làm gia tăng
sản lượng, vì nó được sự trợ giúp của thiên nhiên, độ màu mỡ của đất, khí hậu. Còn công
nghiệp, thương nghiệp không tạo ra sản phẩm thuần túy, do đó không phải là lao động sản
xuất.
Tuy nhiên, ông đã nhầm lẫn khi cho rằng nguồn gốc của sản phẩm thặng dư là tự
nhiên, đất đai và công nghiệp không phải là ngành sản xuất, cũng như lao động trong
ngành công nghiệp không phải là lao động sản xuất. Ông chỉ biết về số lượng chưa biết về
giá trị, chưa thấy tính hai mặt của của cải (mặt hiện vật và giá trị), trong khi đó các nhà
kinh tế đối lập cho rằng sản xuất không chỉ gia tăng số lượng mà còn gia tăng về cả giá
trị, nhưng có một nghịch lý là việc gia tăng giá trị sản phẩm thường kèm theo làm giảm
khối lượng sản phẩm.
Ông cũng lý luận về mặt tiền lương rằng “cung lao động luôn luôn lớn hơn cầu lao
động” – làm cho các nhà sản xuất có điều kiện trả lương thấp ở mức tối thiểu, nên ông
ủng hộ quy luật về mức tiền lương phải bằng hoặc cao hơn mức sống tối thiểu của người
lao động.
1.2.2.2.d. Lý luận về tư bản:
Thời kỳ Quesnay sống là bước chuyển tiếp quan trọng từ xã hội phong kiến sang xã
hội tư bản, nên ông là người nghiên cứu đầu tiên về tư bản, và ông chia tư bản ra làm hai
loại trong nền sản xuất nông nghiệp:
 Tư bản lưu động: tiền lương, hạt giống, phân bón,… giá trị tư bản lưu động sẽ
được chuyển hoàn toàn vào giá trị hàng hoá trong một chu kỳ sản xuất.

 Tư bản cố định: chi phí bỏ ra một lần và được sử dụng trong nhiều năm: như nông
cụ, súc vật kéo… giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị hàng hoá trong nhiều năm.
Tuy nhiên, Quesnay từ chối vai trò của công nghiệp trong sản xuất vật chất nên ông
chưa có sự phân chia tài sản cố định và tài sản lưu động trong công nghiệp.

Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 15
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
1.2.2.2.e. Lý luận tái sản xuất trong “Biểu kinh tế”
Ông phân chia xã hội theo ba giai cấp để dễ dàng biểu hiện trong “Biểu kinh tế”:
 Giai cấp sản xuất: gồm những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp như:
công nhân nông nghiệp, nông dân, nhà tư bản,… là những người tạo ra sản phẩm thuần
tuý.
 Giai cấp sở hữu: gồm những người chiếm hữu đất đai như địa chủ, quý tộc phong
kiến… chiếm hữu sản phẩm thuần túy.
 Giai cấp không sản xuất: gồm những người hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại,… không tạo ra sản phẩm thuần tuý nhưng tự tạo ra giá trị nuôi sống
mình.
Trong “Biểu kinh tế”, ông giả định chỉ nghiên cứu tái sản xuất giả đơn, không
nguyên cứu tái sản xuất mở rộng; giá cả hàng hoá không thay đổi và không có ngoại
thương.
1.2.3. Nhận xét về Học thuyết giá trị - lao động của Chủ nghĩa Trọng Nông
 Tiến bộ:
- CNTN đã phê phán Chủ nghĩa Trọng Thương một cách sâu sắc và khá toàn
diện, “công lao quan trọng nhất của phái trọng nông là ở chỗ họ đã phân tích tư bản
trong giới hạn của tầm mắt tư sản. Chính công lao này mà họ đã trở thành người cha
thực sự của khoa kinh tế chính trị hiện đại”.
- Phái trọng nông đã chuyển công tác nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng
dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp. Như vậy, họ đã đặt nền móng
cho sự phân tích nền sản xuất TBCN.
- CNTN nghiên cứu quá trình sản xuất không chỉ là quá trình sản xuất cá biệt đơn

lẻ mà quan trọng hơn họ biết nghiên cứu quá trình tái sản xuất của toàn bộ xã hội – vấn đề
to lớn của kinh tế chính trị.
- Lần đầu tiên tạo ra một hình ảnh có hệ thống và mô hình hoá về nền kinh tế thời
của họ - đây là nền móng cho sơ đồ tái sản xuất xã hội của Marx sau này.
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 16
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
- Họ đã nêu ra nhiều vấn đề có giá trị cho đến ngày nay: tôn trọng vai trò tự do
của con người, đề cao tự do cạnh tranh, tự do buôn bán, bảo vệ lợi ích của người sản xuất,
đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, đổi mới phương thức kinh doanh trong nông nghiệp…
 Hạn chế:
- Họ chưa hiểu được thực tế giá trị tự nhiên nên chưa hiểu giá trị thặng dư, chỉ
dừng lại ở sản phẩm ròng do đất đai đem lại mà thôi.
- Họ hiểu sai vấn đề ngành sản xuất và lao động sản xuất hàng hoá, chỉ tập trung
nghiên cứu sản xuất giản đơn và coi ngành công nghiệp không phải là ngành sản xuất tạo
ra giá trị tăng thêm.

1.3. Học thuyết giá trị - lao động của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh
1.3.1. Tiền đề ra đời của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh
1.3.1.1. Hòan cảnh Kinh tế - Xã hội
Đặc điểm chung của kinh tế chính trị tư sản cổ điển là:
 Thứ nhất, chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất sau khi tích lũy được một số lớn tiền tệ; đồng thời nghiên cứu các vấn đề kinh tế của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt ra.
 Thứ hai, lần đầu tiên giai cấp tư sản xây dựng được một hệ thống các phạm trù và
các quy luật của nền kinh tế thị trường như: phạm trù giá trị - giá cả, lợi nhuận, tiền
lương, địa tô, lợi tức, các quy luật giá trị, cung cầu, lưu thông tiền tệ…
 Thứ ba, đề cao tính quy luật trong nền kinh tế, cho rằng các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa tư bản có tính tự nhiên, tuyệt đối, vĩnh viễn, hợp lý, tất yếu. Như vậy, những
kết luận của họ mang tính phi lịch sử, lẫn lộn giữa yếu tố khoa học và yếu tố tầm thường.
 Thứ tư, áp dụng rộng rãi phương pháp khoa học mới, phương pháp của khoa học

tự nhiên nghĩa là nghiên cứu một cách khách quan các sự vật hiện tượng, sử dụng rộng rãi
phương pháp trừu tượng hóa khoa học trong nghiên cứu kinh tế.
 Thứ năm, giai cấp tư sản, đặc biệt là ở Anh, đã khẳng định được vai trò của mình
trong đời sống xã hội thông qua việc tập hợp được lực lượng chống chế độ phong kiến lỗi
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 17
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
thời; đồng thời họ ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước về
mặt kinh tế.
1.3.1.2. Tiền đề về tư tưởng
Chủ nghĩa Trọng Thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ thế kỷ XVII,
trước hết là ở Anh Quốc – một trong những cường quốc lớn nhất ở Tây Âu. Từ khi
thương nghiệp mất dần đi ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản Anh đã sớm nhận thấy lợi ích
của họ trong sự phát triển của các công trường thủ công công nghiệp. Nếu ở thời kỳ chủ
nghĩa Trọng Thương, người ta chỉ tập trung vào khâu lưu thông thì thời kỳ này đã chuyển
dần sang sản xuất, đặc biệt là ngành dệt và sau đó là ngành công nghiệp khai thác. Đi
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công và
nông nghiệp là việc tước đoạt ruộng đất nông dân của giai cấp tư sản thời bấy giờ, làm
hình thành nên hai giai cấp: vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Song song với việc đó là
sự tồn tại của chủ nghĩa phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phong kiến.
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất vượt ra ngoài giới hạn giới hạn
giải thích của lý thuyết kinh tế Trọng Thương. Điều này cho thấy rằng phải có lý thuyết
kinh tế mới thay thế cho những điểm hạn chế trong việc lý giải của lý thuyết kinh tế
Trọng Thương, từ đó học thuyết kinh tế cổ điển Anh ra đời và phát triển mạnh mẽ với
nhiều tên tuổi nổi tiếng. Trước hết phải kể tới W.Petty – ông vẫn được coi là người sáng
lập trường phái kinh tế học nói chung; sau đó là A.Smith – linh hồn thực sự của kinh tế
học cổ điển, người tạo nên bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân
loại; và thật thiếu sót nếu như chúng ta không nhắc đến D.Ricardo – người có công rất lớn
trong việc phát triển các tư tưởng kinh tế học cổ điển tới đỉnh cao rực rỡ nhất trước khi
trường phái này bước vào thời kỳ khủng hoảng như các trường phái trước đây.

Luận chứng về con đường làm giàu, giai cấp tư sản đã nhận thức rằng: “Muốn làm
giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm
giàu vô tận cho những người giàu”. Đó là điểm cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Anh, là học thuyết kinh tế chủ yếu của giai cấp tư sản ở nhiều nước lúc bấy giờ.

Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 18
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
1.3.2. Học thuyết giá trị - lao động của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh
Theo Karl Marx thì kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty
và kết thúc ở David Ricardo.
1.3.2.1. William Petty (1623-1687) - Người đầu tiên đưa ra nguyên lý lao động
quyết định giá trị trong kinh tế chính trị học tư bản
1.3.2.1.a. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm:
William Petty sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công. Ông là người học rộng
hiểu biết nhiều và có tài trên nhiều lĩnh vực, có trình độ tiến sĩ vật lý, là nhạc trưởng, là
nhà phát minh ra máy móc, là bác sĩ trong quân đội. Ông vừa là một đại địa chủ vừa là
một nhà công nghiệp, ông còn là cha đẻ của khoa học thống kê. Ông viết nhiều tác phẩm
như: “Điều ước về thuế và thu thuế (1962)”; “Số học chính trị (1676)”; “Bàn về tiền tệ
(1682)”….
Trong những tác phẩm đầu tiên của mình, W.Petty còn mang nặng những tư tưởng
trọng thương, nhưng đến tác phẩm cuối cùng của ông “Bàn về tiền tệ (1682)” thì không
còn dấu vết của chủ nghĩa Trọng Thương.
1.3.2.1.b. Đặc điểm phương pháp luận của W.Petty:
W.Petty là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học được gọi là
phương pháp khoa học tự nhiên.
 Về bản chất: đó là phương pháp nghiên cứu thừa nhận và tôn trọng các quy luật
khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sự vật và hiện tượng. Ông
viết: “Trong chính sách kinh tế cũng như trong y học phải tính đến những quá trình tự
nhiên, không nên dùng hành động cưỡng bức để chống lại quá trình đó”. Đó là mầm
móng của tư tưởng tự do cạnh tranh mà các đại biểu sau này của phái cổ điển và những

người kế tục đã phát triển. Ông áp dụng rộng rãi phương pháp thống kê để phân tích kinh
tế, ông viết: “Tôi thiên về hướng biểu hiện ý kiến của mình bằng con số, trọng lượng,
thước đo”.
Tuy vậy, nhưng ông vẫn chưa thoát khỏi các ảnh hưởng tư tưởng của học thuyết
kinh tế trọng thương khi ông cho rằng: “Thành quả to lớn của thương nghiệp là tích lũy
tiền tệ. Sự giàu có biểu hiện dưới hình thức vàng và bạc là sự giàu có muôn đời, vĩnh
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 19
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
viễn” hay “Lao động của thủy thủ có năng suất cao hơn của nông dân ba lần vì thương
nghiệp có lợi hơn công nghiệp và công nghiệp có lợi hơn nông nghiệp”.
Trong các tác phẩm sau này, ông đã thay đổi quan điểm. Chẳng hạn như trong tác
phẩm Bàn về tiền tệ ông cho rằng: “Tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự
giàu có, tiền tệ chỉ là một phần trăm của sự giàu có, cho nên đánh giá tiền quá cao là một
sai lầm.”
Một hạn chế khác của ông là chưa phân biệt rõ lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, chưa thấy được sự khác nhau giữa quy luật kinh tế và quy luật tự nhiên. Do vậy, ông
cho rằng các quy luật của chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn.
1.3.2.1.c. Lý thuyết giá trị - lao động
W.Petty có công lao trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Ông đã đưa ra ba
phạm trù về giá cả hàng hóa trong tác phẩm Bàn về thuế khóa và lệ phí. Đó là giá cả tự
nhiên, giá cả nhân tạo, giá cả chính trị.
 Giá cả tự nhiên: khi nghiên cứu về giá cả tự nhiên ông cho rằng: “Một người nào
đó, trong thời gian lao động khai thác được 1ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất
được 1 barrel lúa mì, thì 1 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì. Nếu nhờ
những mỏ mới thì giàu quặng hơn cũng trong cùng một thời gian lao động đó bây giờ
khai thác được 2 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì. Như vậy, giá cả tự
nhiên là giá trị hàng hóa. Nó do lao động của người sản xuất tạo ra. Lượng của giá cả tự
nhiên, hay giá trị tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc”.
 Giá trị nhân tạo: nếu như giá cả tự nhiên là giá cả hàng hóa thì giá cả nhân tạo là
giá cả thị trường của hàng hóa. Ông viết: “Tỷ lệ giữa lúa mì và bạc chỉ là giá trị nhân tạo

chứ không phải là giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá
cả tự nhiên và quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường.
 Giá trị chính trị: W.Petty cho rằng nó là một loại đặc biệt của giá trị tự nhiên. Nó
cũng là chi phí lao động để sản xuất hàng hóa, nhưng trong điều kiện chính trị không
thuận lợi. Vì vậy, chi phí lao động trong giá trị chính trị thường cao hơn so với chi phí lao
động trong giá cả tự nhiên bình thường.

Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 20
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
1.3.2.1.d. Nhận xét
 Thành tựu đạt được
- W.Petty phân biệt giá cả tự nhiên tức là chi phí lao động trong điều kiện bình
thường với giá cả chính trị là lao động chi phí trong điều kiện chính trị không thuận lợi
mang lại ý nghĩa rất to lớn.
- Không những vậy, W.Petty còn đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao
động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình
trong nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên.
Từ đó, có thể khẳng định W.Petty là người đầu tiên trong lịch sử đã đặt nền móng
cho lý thuyết giá trị lao động.
 Tồn tại
- Lý thuyết giá trị - lao động của ông còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa
trọng thương. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá
trị của hàng hóa khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc.
- Trong một lý luận quan trọng của mình, ông khẳng định rằng: “Lao động là cha
của cải, còn đất đai là mẹ của cải” luận điểm này sẽ đúng nếu xem của cải là giá trị sử
dụng, thế nhưng sẽ là sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã
tìm thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông
đưa ra quan điểm “Thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hằng ngày
của mỗi người, chứ không phải là lao động hằng ngày của người đó”. Với luận điểm này
đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chưa biết đến

tính chất xã hội của giá trị.
- Ngoài ra, ông còn có ý định giải quyết mối quan hệ giữa lao động phức tạp và
lao động giản đơn nhưng không thành công.
1.3.2.2. Adam Smith (1723 – 1790) - Người đầu tiên trình bày một cách có hệ
thống lý luận giá trị lao động.
1.3.2.2.a. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm
Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế
giới. Ông là người đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự phát triển các học thuyết kinh
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 21
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
tế thị trường. Ông sinh năm 1723, là con một viên chức ngành thuế. Sau khi tốt nghiệp đại
học, 13 năm ông giảng dạy Văn học, logic triết học và đạo đức. Năm 1763, ông ngừng
giảng dạy đi du lịch các nước Châu Âu. Ở Pháp, ông gặp nhiều người của trường phái
Trọng nông, sau đó ông về nước và viết tác phẩm nổi tiếng là “Nghiên cứu về bản chất và
nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc (1776)”. Ông là nhà tư tưởng tiên tiến của giai
cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển, kêu gọi tích lũy và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư
bản chủ nghĩa la hợp lý duy nhất. Karl Marx coi A.Smith là người thầy là nhà kinh tế học
tổng hợp của công trường thủ công.
1.3.2.2.b. Đặc điểm phương pháp luận của A.Smith:
- Dựa trên quan điểm tự do - thể hiện trong tư tưởng “ trật tự tự nhiên”, ông cho
rằng “một xã hội hợp với trật tự tự nhiên là một xã hội tự do cạnh tranh, giao lưu, trao
đổi hàng hóa tự do. Trong xã hội đó, “bàn tay vô hình” hướng dẫn các tác động qua lại
phức tạp giữa các chủ thể kinh tế. “ Bàn tay vô hình” đó chính là sự hoạt động của các
qui luật kinh tế khách quan, tác động không phụ thuộc vào ý chí của con người”. Ông
đồng nghĩa trật tự xã hội với trật tự tự nhiên. Ông cho rằng, quy luật kinh tế là vô địch,
các chính sách kinh tế hợp với quy luật là chính sách tự do kinh tế.
- Xuất phát từ tư tưởng về “trật tự tự nhiên”, ông quan sát xã hội là tổng hợp các
cá nhân – con người kinh tế. Các cá nhân trong hoạt động kinh tế đều vận động theo
hướng ích kỷ và luôn luôn nghĩ về lợi ích, để tác động sao cho phù hợp với bản chất ích

kỷ của mình. Ông cho rằng con người ta tiến hành trao đổi sản phẩm lao động cho nhau
đều vì lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân là lợi ích xuất phát còn lợi ích xã hội là lợi ích phụ
thuộc - giữa chúng không có mâu thuẫn. Ông viết : “Mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng
vốn của mình sao cho có được sản phẩm có giá trị cao nhất. Thông thường, cá nhân này
không có chủ định củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng cần biết mình đang củng cố
lợi ích này ở mức độ nào. Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả
của riêng mình. Trong quá trình này, một bàn tay vô hình đã buộc anh ta phải theo đuổi
một mục đích không nằm trong dự định. Trong khi theo đuổi lợi ích của mình, anh ta
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 22
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
thường bảo vệ luôn lợi ích của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm
việc này.”
- Song phương pháp luận của ông lại có tính hai mặt rõ rệt, một mặt là khoa học –
mặt khác là siêu hình. Nhận xét về điều này, Karl Marx đã viết: “Chính A.Smith đã ngây
thơ rơi vào một mâu thuẫn thường xuyên. Một mặt, ông quan sát mối liên hệ bên trong
các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che lấp của hệ thống kinh tế tư sản. Mặt khác, ông lại
đặt mối liên hệ đó như mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh, và do đó ông xa
lạ đối với khoa học….”. Hai mặt đó không những chúng sống yên ổn bên nhau mà còn
xoắn quýt lấy nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau.
Từ đó, ta có thể thấy phương pháp hai mặt của A.Smith có ảnh hưởng sâu sắc đến
các học thuyết kinh tế tư bản sau này.
1.3.2.2.c. Lý thuyết về giá trị - lao động
A.Smith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi phân
tích về giá trị trao đổi ông đã tiến hành phân tích qua các bước sau:
- Xét về hàng hóa trao đổi với lao động: ông cho rằng: “thước đo thực tế của giá
trị hàng hóa là lao động nên giá trị hàng hàng là do lao động sống mua được”. Như vậy
là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh trong hàng hóa với lao động mà hàng hóa
đó đổi được.
- Xét về sự trao đổi giữa hàng hóa với hàng hóa: ông viết “giá trị trao đổi của
chúng bằng một lượng hàng hóa nào đó”. Như vậy, giá trị trao đổi hàng hóa là quan hệ tỷ

lệ về số lượng giữa các hàng hóa.
- Xét về sự trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ: theo ông “khi chấm dứt nền
thương nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hóa được đo bằng tiền và giá cả hàng hóa là
biểu hiện bằng tiền của giá trị”; giá cả hàng hóa có hai loại thước đo đó là: lao động và
tiền tệ - trong đó thước đo của lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn tiền tệ
chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi.
Không những vậy, A.Smith còn là người đưa ra những quan niệm đúng đắn về giá
trị hàng hóa đó là: “giá trị hàng hóa là do lao động hao phí tạo ra”, ông còn chỉ rõ giá trị
Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 23
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
hàng hóa bằng số lượng lao động đã chi phí (bao gồm lao động quá khứ và lao động
sống).
1.3.2.2.d. Nhận xét:
 Thành tựu đạt được
So với W.Petty và trường phái trọng nông thì lý thuyết giá trị lao động của
A.Smith có bước tiến đáng kể:
- A.Smith đã chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao
động là thước đo cuối cùng của giá trị .
- Ông đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng
đồng thời khẳng định: “giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi”.
- A.Smith bác bỏ quan điểm cho rằng tính ích lợi quyết định giá trị trao đổi mà
A.R.J. Turgot ủng hộ. Khi phân tích giá trị hàng hóa, ông cho rằng giá trị được biểu hiện
trong giá trị trao đổi hàng hóa, trong quan hệ số lượng với hàng hóa khác, còn trong nền
sản xuất hàng hóa phát triển, nó được biểu hiện ở tiền.
- A.Smith chỉ ra lượng giá trị hàng hóa do hao phí lao động trung bình cần thiết
quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá
trị hàng hóa, trong cùng thời gian, lao động chuyên môn phức tạp sẽ tạo ra một lượng giá
trị nhiều hơn so với lao động giản đơn hay không phức tạp.
- A.Smith đưa ra hai định nghĩa về giá cả: giá cả tự nhiên (giá cả hàng hóa) và giá
cả thị trường.Về bản chất: giá cả tự nhiện là biểu hiện của giá trị. Ông cho rằng, nếu giá

cả của một hàng hóa nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho thanh toán về địa tô, tiền
lương công nhân, lợi nhuận cho tư bản được chi phí cho khai thác, chế biến, đưa ra thị
trường thì có thể nói hàng hóa được bán với giá cả tự nhiên, còn giá cả thực tế mà qua đó
hàng hóa được bán gọi là giá cả. Nó có thể cao hơn hay thấp hơn hay trùng với giá cả tự
nhiên. Theo ông “giá cả tự nhiên mang tính chất khách quan còn giá trị thị trường phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác”. Ngoài giá cả tự nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác.


Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 24
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
 Tồn tại
- Thứ nhất, quan điểm về lượng giá trị của ông chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận
giá trị lao động ông đã có định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng
hóa. Nhưng có lúc ông lại định nghĩa giá trị là do lao động mà người có thể mua được
bằng hàng hóa này quyết định, tức là không thấy vai trò của lao động quá khứ. Vì vậy,
dẫn đến sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
- Thứ hai, quan điểm sai lầm của A.Smith khi ông đã cho rằng: “tiền công, lợi
nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như mọi giá trị trao đổi, là ba
bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa”. Do đó, giá trị lao động tạo ra chỉ dùng trong nền sản
xuất hàng hóa giản đơn còn trong kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nó do các nguồn thu nhập
tạo thành tiền công, lợi nhuận và địa tô. Điều này biểu hiện sự xa rời học thuyết giá trị -
lao động.
- Thứ ba, ông đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường nhưng ông lại
chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.

1.3.2.3. David Ricardo (1772 – 1823) – Người có công rất lớn trong việc đưa lý
luận về giá trị lao động đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp tư
sản
1.3.2.3.a. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm

David Ricardo sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh. Bố là người Hà Lan di cư
sang Anh, một nhà kinh doanh chứng khoán Châu Âu. Năm 12 tuổi, ông vào học ở trường
trung học chuyên nghiệp, sau đó làm việc trong lĩnh vực buôn bán chứng khoán. Nhờ có
tài trong việc này, ông trở nên giàu có nhất nước Anh lúc bấy giờ.
Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực như : toán học, địa chất. Tuy nhiên, sở trường của
ông là kinh tế chính trị học. Ông xuất bản nhiều tác phẩm, nổi tiếng nhất là : “những
nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khóa” hay “ những nguyên lý của kinh tế
học” (năm 1817).


Tiểu Luận Nhóm CHƯƠNG 1 Trang 25
NSVTH: NHÓM 01 LỚP: CH.K15A
1.3.2.3.b. Đặc điểm phương pháp luận
Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì
D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan cho
việc nghiên cứu của ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng lại. Ông là người
kế tục của A.Smith. Theo K.Marx, A.Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ
công còn D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp.
Trong các tác phẩm của mình, ông xác định đối tượng và phương pháp của kinh tế
chính trị học. Theo ông, nhiệm vụ cơ bản của kinh tế chính trị học là xác lập các quy luật
phân phối sản phẩm đất đai (tức thu nhập) giữa ba giai cấp trong xã hội. Ông tiếp tục
phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn, để nghiên cứu kinh tế
chính trị học.
Tuy vậy, phương pháp của ông còn mang tính chất siêu hình, phi lịch sử và nhiều
khi thiên về lượng hóa.
1.3.2.3.c. Lý thuyết giá trị - lao động
Trong lý thuyết giá trị lao động cũng như các lý thuyết khác, D.Ricardo dựa vào lý
thuyết của A.Smith kế thừa và phát triển tư tưởng của A.Smith. Ông phân biệt rõ ràng hai
thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là
điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ một số ít

hàng hóa khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn lại đa số hàng hóa
khác, giá trị do lao động quyết định.
Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện ở một số lượng nhất định của
hàng hóa khác (hay tiền tệ) nên David Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối
còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh, giá trị
trao đổi là hình thúc cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối.
D.Ricardo soát xét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu
thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith. Chẳng hạn, trong hai định nghĩa về giá trị của
A.Smith, D.Ricardo chỉ ra định nghĩa “giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng, còn
định nghĩa “giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa này quyết
định” là không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất giản đơn, mà ngay cả

×