Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.13 KB, 122 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn khóa học với đề tài:” Phát triển xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền
vững” cùng với sự nỗ lực cố gắng phấn đấu của bản thân trong quá trình học
tập, bên cạnh sự giúp đỡ rất nhiều của nhà trường, các thầy cô, cùng ban lãnh
đạo Hiệp hội dệt may Việt Nam.
Đầu tiên, cho em gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu nhà
trường, các thầy cô khoa sau đại học và các thầy cô trong trường đại học
Thương Mại đã giảng dạy và giúp đỡ em để có thể hoàn thành khóa học này.
Em xin chân thành cảm ơn tới Cô PGS.TS Phan Thị Thu Hoài đã
hướng dẫn em tận tình, chu đáo và giúp em tư duy lôgic khi nghiên cứu đề tài.
Để có được sự hiểu biết sâu về vấn đề trong đề tài em xin gửi lời cảm
ơn chân thành tới chú Nguyễn Sơn – Phó tổng thư ký hiệp hội dệt may Việt
Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình điều tra và tìm
hiểu thực tế để hiểu sâu hơn vấn đề trong đề tài.
Đề tài nghiên cứu của em hoàn thành không thể không tránh khỏi thiếu
sót. Em kính mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của thầy cô và các bạn độc
giả để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Yến
i
MỤC LỤC
ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Thuế quan: 69
Quy định về nhãn mác: 70
Quy định về xuất xứ hàng hoá ảnh hưởng đến nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ 70
Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy : 71
iii


LỜI MỞ ĐẦU
Vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng chung của các quốc gia và
các doanh nghiệp. Đảng và Nhà nước ta với chủ trương phát triển kinh tế đối
ngoại theo hướng “đa dạng hoá thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả
các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do, thị trường tiềm năng, tăng nhanh
xuất khẩu, giảm nhập siêu, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu. Chủ động
tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển hệ thống phân phối các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu
cho hàng hoá Việt Nam” ( Văn kiện đại hội đảng XI)
Với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, ngành Dệt
may Việt Nam sau hơn 10 năm xuất khẩu một cách chính quy, doanh nghiệp
Việt Nam đã đứng trong tốp 8 nước có quy mô xuất khẩu dệt may lớn nhất
thế giới. Với sự gia tăng không ngừng về giá trị hàng xuất khẩu qua các năm,
một vấn đề chúng ta cần đặt ra liệu sự gia tăng đó đã đáp ứng được yếu tố bền
vững hay chưa? thể hiện ở:
Tăng kim ngạch xuất khẩu và gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên một đơn vị
sản phẩm dệt may, giải quyết công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao
động, tăng trưởng xuất khẩu gắn liền với bảo vệ môi trường.
Trước thực trạng nêu trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài” Phát triển
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát
triển bền vững” để làm đề tài nghiên cứu của mình.
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, tất cả các lĩnh vực kinh tế đều
đứng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt. Ngành dệt may cũng không nằm ngoài
quy luật chung đó. Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có

vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị
trường thế giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã
có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng
và tăng trưởng kinh tế nói chung ở Việt Nam.
Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây
dựng và củng cố quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới,
đồng thời tận dụng hiệu quả nguồn lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí
thấp. Triển vọng của ngành dệt may đang sáng dần, nhất là khi nền kinh tế thế
giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu.
Song, để hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ thực sự mang tính bền vững, vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế vừa
đảm bảo được lợi ích về xã hội và lợi ích về môi trường là thách thức không
nhỏ đối với một ngành mà nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất sản phẩm
dệt may là nhập khẩu và nguồn phụ liệu, công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt
may còn thiếu, yếu và manh mún. Đây là một vấn đề cấp thiết mà ngành dệt
may cần phải xác định các giải pháp để phát triển bền vững hoạt động xuất
khẩu của mình
2
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài:
Mặc dù, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam diễn ra được hơn
10 năm song nó thực sự trở thành tốp 8 nước có quy mô xuất khẩu lớn nhất
thế giới là do 4 năm trở lại đây. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị truờng Hoa Kỳ được bắt đầu từ cuối năm 2000, song kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này thực sự vận hành theo cơ
chế thị trường từ năm 2007 sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới WTO.
Khái niệm về phát triển bền vững cũng là một khái niệm khá mới mẻ
đối với Việt Nam nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam nói riêng. Trong những năm qua, chúng ta mặc dù có đề cập đến

yếu tố phát triển bền vững nhưng thực tế hoạt động vẫn coi trọng yếu tố tăng
trưởng hơn là yếu tố phát triển bền vững.
Hoa Kỳ, được đánh giá là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn,
nhiều tiềm năng nhưng cũng rất nhiều thách thức, bởi các quy định ngặt
nghèo từ phía Hoa Kỳ đối với hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu các giải pháp để đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, song đến
thời điểm hiện tại chưa có công trình nghiền cứu đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển
bền vững
1.3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài:
Trên thực tế hiện nay hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ rất ít chú trọng đến yếu tố phát triển xuất
khẩu theo hướng bền vững. Các doanh nghiệp vì mục tiêu tồn tại của mình, để
đảm bảo duy trì hoạt động, thu hồi vốn trong điều kiện kinh tế tài chính còn
nhiều khó khăn như hiện nay luôn đặt mục tiêu tăng trưởng làm yếu tố hàng
3
đầu. Với một thị trường Hoa Kỳ đầy tiềm năng, các doanh nghiệp luôn tìm
hướng đi cho doanh nghiệp mình ở thị trường này là làm thế nào để có thể
xuất khẩu ngày càng nhiều, mang về nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Song một thực trạng nổi cộm đối với toàn bộ bức tranh kinh tế xã hội
Việt Nam hiện nay là sự mất cân bằng trong cơ cấu kinh tế, sự phân hoá giàu
nghèo trong đời sống xã hội, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt,
môi trường đất, nước, không khí ngày càng ô nhiễm trầm trọng. Trước thực
trạng nêu trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài” Phát triển xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững” để
làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.4. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích những thực trạng về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ trong các năm qua, yếu tố tác động để phát triển xuất khẩu

hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền
vững.Từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam của Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững.
1.5. Phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian nghiên cứu có hạn và điều kiện nghiên cứu của một cao học
viên nên các số liệu được sử dụng để phân tích thực trạng từ năm 2009 trở lại đây
và đề xuất giải pháp đến năm 2015 để giúp Hiệp hội dệt may Việt Nam nói riêng
và ngành dệt may Việt Nam nói chung trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững.
Về nội dung nghiên cứu: Đề tài đi sâu nghiên cứu giải pháp phát triển
xuất khẩu Dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ theo hướng tăng kim ngạch xuất
khẩu và gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm dệt may, giải
quyết công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao động, tăng trưởng xuất
khẩu gắn liền với bảo vệ môi trường
4
1.6. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận các phụ lục và tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu phát triển xuất khẩu hàng Dệt may
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững.
Chương 2: Một số lý luận về phát triển xuất khẩu hàng dệt may theo
hướng phát triển bền vững.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và phân tích thực trạng phát
triển xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng
phát triển bền vững.
Chương 4: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu hàng Dệt may Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ theo hướng phát triển bền vững.
\
5
CHƯƠNG 2

MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu
2.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu được hiểu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ được
sản xuất trong nước cho khách hàng nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm
phương tiện thanh toán, tiền tệ ở đây phải là ngoại tệ đối với một bên hoặc đối
với cả hai bên.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong một lĩnh vực, mọi điều kiện nền kinh
tế xã hội từ hàng tiêu dùng cho đến hàng sản xuất công nghiệp, từ máy móc
thiết bị cho tới các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó
nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia vào trao đổi.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về phạm vi không
gian lẫn điều kiện thời gian. Nó có thể diễn ra trong một ngày hay cũng có thể
kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
hay nhiều quốc gia khác nhau.
2.1.2. Tính tất yếu, vai trò của xuất khẩu
2.1.2.1. Tính tất yếu của việc mở rộng hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là một yếu tố quan trọng để mỗi quốc gia phát
triển trình độ quản lý cũng như tiếp thu những khoa học cộng nghệ kỹ thuật
mà nhân loại phát minh ra chúng. Do những điều kiện kinh tế khác nhau mỗi
quốc gia có thế mạnh về một lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để
có thể dung hoà được nguy cơ và lợi thế sử dụng tối đa các cơ hội sẵn có
nhằm tạo ra sự cân bằng trong qúa trình sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc
gia, điều này chỉ có thể giải quyết được nhờ các hoạt động trao đổi quốc tế.
6
Nhận thức được điều đó đảng và nhà nước ta đã có những hướng đi
mới trong đường lối chính sách của mình. Từ tư tưởng tự cung, tự cấp đến
nay chúng ta tạo mọi điều kiện để mở rộng giao lưu kinh tế với bên ngoài, mở
cửa để thu hút mọi nguồn đầu tư.

2.1.2.2. Vai trò của xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế, nó
không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan
hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài
nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Vì vậy, xuất
khẩu đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp cũng như phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu là một tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với
các quốc gia, các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ ra rằng để
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là :
Nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật công nghệ. Hầu hết các quốc gia
đang phát triên như Việt Nam đều thiếu vốn và kỹ thuật, để có vốn và kỹ
thuật thì con đường ngắn nhất là phải thông qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá với bước đi phù hợp là con đường tất yếu để khắc
phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu nhưng công nghiệp hoá đòi hỏi phải có
lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau : Đầu tư
nước ngoài, vay nợ, các nguồn viện trợ, thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ
thu ngoại tệ trong nước.
7
Các nguồn như đầu tư nước ngoài, viện trợ hay vay nợ … có tầm quan
trọng không thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải dễ
dàng, hơn nữa đi vay thường chịu thiệt thòi và phải trả về sau này.
Do vậy, xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất, xuất khẩu tạo tiền đề
cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô tăng trưởng của nền kinh tế.
Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển

sản xuất.
Dưới tác động của xuất khẩu cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
mỗi quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác dụng của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là : Xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội
địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về
cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ vào sự thừa ra của sản xuất
thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm.
Hai là : Có thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất
khẩu, quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất, thể hiện ở các điểm sau.
• Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cùng cơ hội phát triển
chẳng hạn như khi phát triển sản xuất ngành may mặc thì kèm theo phát triển
ngành dệt và ngành nhuộm và ngành công nghiệp phụ trợ cho may mặc…
• Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm góp phần ổn
định sản xuất, tạo lợi thế kinh doanh nhờ quy mô.
• Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào mở
rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Vì ngoại thương cho phép một
nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều giới hạn
sản xuất của quốc gia đó.
8
• Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩu chuyên môn hoá, tăng cường hiệu
quả sản xuất của từng quốc gia, khoa học càng phát triển thì sự phân công lao
động càng sâu sắc.
Với đặc điểm quan trọng là tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh
toán, xuất khẩu góp phần quan trọng làm tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đặc
biệt đối với những nước đang phát triển, đồng tiền không có khả năng chuyển
đổi thì ngoại tệ thu được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc

điều hành về cung cầu ngoại tệ ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng
trưởng và phát triển kinh tế, thực tế đã chứng minh rằng những nước có tốc
độ phát triển kinh tế cao là những nước có nền ngoại thương phát triển mạnh
và năng động.
Xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm cải thiện
đời sống nhân dân.
Xuất khẩu là công cụ giải quyết nạn thất nghiệp trong nước theo
INTERNATIONAL TRADE 1986 – 1990 ở mỹ và các nước công nghiệp
phát triển, xuất khẩu tăng lên được 1 tỷ USD thì sẽ tạo nên khoảng 35.000 –
40.000 chỗ làm trong nước, còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam có
thể tạo ra hơn 50.000 chỗ làm.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu cơ bản và là hình thức
ban đầu của kinh tế đối ngoại, Từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát
triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế … ngược lại sự phát triển của các
ngành này sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.
Đối với doanh nghiệp
Vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng chung của các quốc gia và
các doanh nghiệp. Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển kinh tế
9
đối ngoại theo hướng “đa dạng hoá thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu
quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do, thị trường tiềm năng, tăng
nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu. Chủ
động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển hệ thống phân phối các
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu
cho hàng hoá Việt Nam ( Văn kiện đại hội đảng XI) Hoạt động xuất khẩu có
vai trò to lớn trong hoạt động ở các doanh nghiệp, thể hiện trên các điều sau:
• Hoạt động xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp phát triển là vấn đề
sống còn đối với doanh nghiệp ngoại thương. Mở rộng thị trường, đẩy mạnh

số lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường quốc tế làm tăng tốc độ quay vòng
vốn, có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước
ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
• Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng, buộc
doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, từ
đó đề ra các giải pháp nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả trong công tác
quản trị kinh doanh, đồng thời có ngoại tệ để đầu tư cho quá trình sản xuất cả
về chiều rọng lẫn chiều sâu.
• Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo ra thu nhập ổn định, tạo ngoại tệ nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân đồng thời thu được ngoại tệ.
• Mặt khác thị trường quốc tế là một thị trường rộng lớn, nó chứa
đựng nhiều cơ hội cũng như rủi ro, những doanh nghiệp kinh doanh trên thị
trường nếu thành công có thể tăng cao thế lực, uy tín của doanh nghiệp mình
trong cả nước và nước ngoài, thành công doanh nghiệp lại có nhiều cơ hội để
tái đầu tư phát triển sản xuất. Qua các hợp đồng làm ăn kinh tế, các mối quan
hệ của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, thế lực và uy tín của doanh
nghiệp không ngừng được nâng cao.
10
• Việt nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn nghèo nàn,
lạc hậu. Nhưng nhân tố thuộc về tiềm năng như tài nguyên thiên nhiên, lao
động … dồi dào ngược lại những nhân tố như vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý
lại thiếu. Vì vậy chiến lược “ Hướng vào xuất khẩu” về thực chất là giải pháp
“Mở cửa” nền kinh tế để tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với
tiềm năng trong nước là lao động và tài nguyên thiên nhiên nhằm mục đích
đưa nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và phát triển tiến kịp các nước phát
triển trong khu vực và thế giới. Xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ, còn nhằm
mục đích nhập khẩu những thiết bị hiện đại, chuyển giao công nghệ tiên tiến
để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn và dần dần cải thiện đời sống vật

chất nhân dân.
2.1.3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động rất phức tạp và chịu nhiều rủi ro,
đặc biệt có rất nhiều hình thức xuất khẩu, mỗi công ty cần lựa chọn cho mình
hình thức xuất khẩu phù hợp với hàng hoá, tiềm lực của doanh nghiệp mình
để đảm bảo điều kiện của hợp đồng, hai bên cùng có lợi.
2.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính
doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước
hoặc từ khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Xuất khẩu trực
tiếp yêu cầu phải có nguồn vốn đủ lớn và đội ngũ cán bộ công nhân viên có
năng lực và trình độ để có thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh xuất
khẩu. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong
kinh doanh nhưng nó lại có những ưu điểm nổi bật sau:
- Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường
nước ngoài, từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu cũng như tình hình của khách
11
hàng nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều
kiện cần thiết.
2.1.3.2. Xuất khẩu uỷ thác :
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng vai
trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua
bán hàng hoá, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản
xuất qua đó thu được một số tiền nhất định (theo tỷ lệ % giá trị lô hàng ).
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp , đặc biệt là không cần
bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng
thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh
chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất .
Phương thức xuất khẩu uỷ thác có nhược điểm phải qua trung gian và

phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nắm bắt thông tin về thị trường
chậm.Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng
của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi
vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận
lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình.
2.1.3.3. Phương thức mua bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và hàng hoá mang ra trao
đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không nhằm
mục đích thu ngoại tệ mà nhằm mục đích có được lượng hàng hoá có giá trị
tương đương với giá trị lô hàng xuất khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động
tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên
không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào
đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục
12
thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn
chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được
thuận lợi.
2.1.3.4. Phương thức mua bán tại hội chợ, triển lãm.
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời
gian và ở vào một địa điểm cố định trong một thời gian nhất định, tại đó
người bán đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký
kết hợp đồng mua bán.
Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền
kinh tế hoặc của một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật. Liên quan
chặt chẽ đến ngoại thương là cuộc triển lãm công thương nghiệp. Tại đó
người ta trưng bày các loại hàng hoá nhằm mục đích quảng cáo để mở rộng
khả năng tiêu thụ.
Ngày nay, triển lãm không chỉ là nơi trưng bày giới thiệu hàng hoá mà

còn là nơi được ký kết các hợp đồng kinh tế, mở rộng thị trường, quảng cáo,
xúc tiến … tại hội chợ và triển lãm đặc biệt là mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
2.1.3.5. Giao dịch qua trung gian
Đây là giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với
người mua đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này là đại lý
môi giới hay là người trung gian.
Đại lý là một tổ chức hoặc một cá nhân tiến hành một hay nhiều hành
vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác, quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng đại
lý. Có rất nhiều đại lý khác nhau như đại lý hoa hồng, đại lý toàn quyền, tổng
đại lý Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán.
Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không đứng tên của chính mình mà
đứng tên của người uỷ thác.
13
Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua
một người thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị
trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế .Tuy nhiên phương thức giao
dịch này cũng phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định,
nó làm cho lợi nhuận giảm xuống.
2.1.3.6. Giao dịch tái xuất
Tái xuất khẩu là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập
nhưng không tiến hành các hoạt động chế biến.
Ưu điểm là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải
tổ chức sản xuất. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có
sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, và nước tái
xuất khẩu. Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập
khẩu, bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu trực tiếp, hoặc
thông qua trung gian như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế. Khi đó
thông qua phương pháp tái xuất các nước vẫn có thể tham gia buôn bán được
với nhau. Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của

một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia
công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công.
2.1.3.7. Gia công quốc tế
Đây là hình thức kinh doanh chủ yếu áp dụng cho những nước nơi có
nhiều lao động, giá rẻ, nhưng lại thiếu vốn, thị trường. Khi đó các doanh
nghiệp có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng
lực sản xuất và thâm nhập vào thị trường thế giới.
Mặc dù đây là hình thức kinh doanh mang lại khoản tiền thù lao thấp
nhưng nó giải quyết được công ăn việc làm cho nước nhận gia công khi
14
không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn ,công nghệ và
có thể tạo được uy tín trên thị trường thế giới. đối với nước thuê gia công có
thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công và thâm nhập vào thị
trường của nước này.
2.2. Khái niệm và tính tất yếu của phát triển
2.2.1 . Khái niệm về phát triển
Phát triển là sự tăng trưởng về chiều rộng, chiều sâu, hiệu suất và hiệu
quả của hoạt động nào đó .Phát triển là một quá trình diễn biến gồm nhiều
thành tố khác nhau: Kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị, văn hoá và không
gian. Mỗi thành tố ấy lại là một quá trình tiến hoá, nhằm biến một xã hội nông
nghiệp – “ phụ thuộc” vào thiên nhiên thành một xã hội công nghiệp hiện đại
– “ít phụ thuộc” vào thiên nhiên.(trích Giáo trình: Môi trường và phát triển
bền vững – tác giả Nguyễn Đình Hòe).
2.2.2. Tính tất yếu của phát triển
Ở phần lớn các khu vực trên thế giới, thực tế đã ngày càng chứng tỏ
phát triển là sự tiến hành đồng thời những cuộc tiến hoá trên 4 bình diện: kinh
tế, không gian, xã hội chính trị và văn hoá có nghĩa là:
Phát
triển
=

Công
nghiệp hoá
+ Thành thị hoá + Quốc tế hoá +
Phương
tây hoá
(Nguồn: Giáo trình Môi trường và phát triển bền vững của tác giả Nguyễn
Đình Hòe).
Đây là xu thế phát triển của các nước phương Tây đã được nhiều nước
lấy làm hình mẫu cho sự phát triển và có thể có mô hình hoá như sau:
15
CÁC NỘI DUNG PHÁT TRIỂN
Xuất phát điểm Xu hướng phát triển
Kinh tế
Cơ cấu công nghiệp, kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp
- người sản xuất nhiều, người
mua hạn chế, sản xuất
nguyên liệu và trao đổi tiền tệ
hoá ít.
Cơ cấu công nghiệp – 2/3 số người
lao động làm việc trong khu vực
dịch vụ, người sản xuất hạn chế,
nhiều người mua, trao đổi hoàn
toàn tiền tệ hoá.
Không gian
Trên 80% dân cư sống dàn
trải trên các vùng trồng trọt
(mô hình nông thôn).
Đô thị hoá – trên 80% dân cư tập
trung trong những không gian địa lý

hạn chế (mô hình hệ thống đô thị).
Xã hội chính trị
Tổ chức cộng đồng đơn
giản, quy mô nhỏ (làng).
Quốc tế hoá - tổ chức cộng đồng
phức tạp, quy mô lớn, thể chế
phong phú (dân tộc/thế giới).
Văn hóa
Gia đình, cộng đồng, dân
tộc có vai trò nổi bật trong
các mối quan hệ xã hội (văn
hoá, truyền thống).
Phương tây hoá, chủ nghĩa cá
nhân, quan hệ xã hội được thực
hiện chủ yếu thông qua môi giới
của đồng tiền (mô hình văn hoá
thành thị quốc tế).
Biểu 01: Các nội dung phát triển
Có thể nói phát triển là quy luật chung của mọi thời đại, của mọi quốc
gia. Phát triển là mục tiêu trung tâm của chính phủ, phát triển là trách nhiệm
chính trị của các Quốc gia.
16
2.3. Lý luận và ứng dụng của phát triển bền vững:
2.3.1. Quan điểm phát triển bền vững trên thế giới:
Trong hơn ba thập kỷ qua, nhiều giáo trình, tài liệu và các thoả ước
quốc tế đã đề cập đến chủ đề phát triển bền vững. Mặc dù đây là một thuật
ngữ vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng ý nghĩa của nó về cơ bản đã đạt
được sự đồng thuận cao và đã luôn được quan tâm, phát triển và hoàn thiện.
Với việc đưa ra quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa con người
và giới tự nhiên, học thuyết Mác đã là một trong những học thuyết đầu tiên đề

cập đến triết lý phát triển bền vững.
Trong những thập kỷ 1960 và 1970, các vấn đề môi trường đã được
nhiều nước nhận thức. Những người theo chủ nghĩa Malthus mới (neo-
Malthusian) đã tiên đoán về sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển và
sự mở rộng quy mô công nghiệp có thể làm cho Trái đất trở thành hành tinh
không thể sinh sống được.
Trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Uỷ ban Thế giới về
Môi trường và phát triển (WCED) năm 1997 cũng đã đưa ra khái niệm về
phát triển bền vững, theo đó, thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường
và phát triển. Theo WCED, "phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng
được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ
tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ".
Nhiều người cho rằng khái niệm về phát triển bền vững của WCED khó
lượng hoá và khó có những quy chế rõ ràng, cụ thể cho chính ranh giới giữa
phát triển bền vững và phát triển không bền vững. Tuy vậy, khái niệm này đã
góp phần làm giàu thêm tư liệu về phát triển bền vững; đây là khái niệm về
phát triển bền vững rõ ràng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Khái niệm
này đã đưa ra khuôn khổ để lồng ghép giữa các chính sách môi trường và các
chiến lược phát triển với tầm nhìn dài hạn.
17
Đến Hội nghị Liên Hợp quốc về Môi trường và Phát triển (năm 1992
tại Rio De Janeiro, Braxin), khái niệm về phát triển bền vững đã được chấp
thuận một cách rộng rãi. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất lần này, các nước
đã thông qua Chương trình Nghị sự 21, một chương trình hành động toàn cầu
nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và phát triển. Đến đây, nhiều người
lập luận rằng cuộc tranh luận về môi trường và phát triển đã được hội tụ và
đưa ra nhận định: để đạt được sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải
là một phần không thể tách rời của quá trình phát triển và không thể tách biệt
khỏi quá trình đó.
Uỷ ban Phát triển bền vững của Liên Hợp quốc (CDS) đã bổ sung một

khía cạnh thứ tư của phát triển bền vững, đó là thể chế. Bốn khía cạnh này
hiện nay là khuôn khổ báo cáo về thực hiện Chương trình nghị sự 21. Thể chế
của phát triển bền vững chính là yếu tố chủ quan của con người chi phối cả ba
lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển bền vững không thể thực hiện
được nếu không có thể chế ổn định, phù hợp để thúc đẩy sự phát triển hài hoà
trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Biểu 02: Quan điểm về phát triển bền vững
Năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững đã
được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi. Lần đầu tiên phát triển bền vững đã
trở thành chủ đề của một diễn đàn quan trọng nhất của thế giới. Trong xu thế
toàn cầu hoá, tại Hội nghị này, quan điểm về phát triển bền vững được chú
18
trọng với nội dung cụ thể là thu hẹp khoảng cách giữa các nước giàu và các
nước nghèo, xoá bỏ nghèo đói, nhưng không làm ảnh hưởng đến môi sinh.
Hội nghị đã thông qua hai văn kiện quan trọng: Tuyên bố chính trị
Johannesburg và Kế hoạch thực hiện. Hai văn kiện này khẳng định sự cấp
thiết phải thực hiện phát triển kinh tế trong tương quan chặt chẽ với bảo vệ
môi trường và bảo đảm công bằng xã hội ở tất cả các quốc gia, các khu vực và
trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, các khái niệm về phát triển bền vững đã thay đổi từ nghĩa hẹp
liên quan chủ yếu đến vấn đề môi trường sang nghĩa rộng liên quan đến sự
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường. Các khái niệm đều có ba
đặc điểm chung: (i) điều kiện con người mong muốn: duy trì một xã hội đáp
ứng các nhu cầu chung của họ; (ii) điều kiện hệ sinh thái bền vững: hệ sinh
thái duy trì khả năng hỗ trợ sự sống của con người và bản thân hệ sinh thái;
(iii) tính bình đẳng: sự chia sẻ công bằng các lợi ích và các gánh nặng - giữa
các thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai và trong bản thân thế hệ hiện tại. Mặc dù,
chưa có một khái niệm "chuẩn xác", nhưng các học giả đã cảnh báo về sự không
lường trước được những khiếm khuyết của sự phát triển bền vững và cần cảnh
giác với thực tiễn. Vì vậy, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát

triển bền vững vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đưa nền kinh tế
nước ta tới giàu có, thịnh vượng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Tóm lại "phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu
cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai
trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ".
Phát triển xuất khẩu theo hướng phát triển bền vững là sự gia tăng hoạt
động xuất khẩu về chiều rộng, hoặc chiều sâu hoặc hiệu suất và hiệu quả của
hoạt động xuất khẩu mà đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ.
19
2.3.2. Bản chất và ứng dụng
Tác giả cho rằng nói đến phát triển bền vững là nói tới yêu cầu bền
vững của sự phát triển; yêu cầu này thể hiện trên ba phương diện: bền vững
về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Nếu bỏ sót một
trong ba yêu cầu này thì ý nghĩa bền vững của sự phát triển không còn đầy đủ.
Các chiến lược phát triển truyền thống chỉ nhấn mạnh phát triển kinh tế
một cách phiến diện, xem nhẹ phát triển hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi
trường. Đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng tư tưởng phát triển bền
vững phù hợp với quan hệ nội tại và yêu cầu của kinh tế, xã hội, môi trường
và hệ thống sinh thái, là bước tiến có tính cách mạng về quan niệm phát triển
và quan niệm văn minh của loài người.
Phát triển bền vững bao hàm các quá trình thay đổi về kinh tế, xã hội,
môi trường. Bản chất của phát triển bền vững theo ba khía cạnh kinh tế, xã
hội và môi trường có thể luận giải như sau:
(i) Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi phải theo đuổi con đường phát
triển tạo ra sự tăng thu nhập thực sự, gia tăng sản xuất xã hội, xoá bỏ nghèo
đói, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, hiệu quả. Mức độ bền vững
về kinh tế bị chi phối bởi tính hữu ích, chi phí đầu vào, chi phí khai thác, chế
biến và nhu cầu đối với sản phẩm. Để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh,
khai thác tài nguyên thiên nhiên với cường độ lớn hơn vẫn là phương thức mà

nhiều quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên
nhiên thì dễ rơi vào khủng hoảng khi tài nguyên bị cạn kiệt và có những tài
nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác tài nguyên như vậy
sẽ vượt quá sức chịu đựng của các hệ sinh thái, gây ô nhiễm, suy thoái môi
trường và tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn mà con người có thể còn chưa biết
đến, hoặc chưa lường hết được. Vì vậy, đây không phải là phương thức phát
triển bền vững. Những vấn đề khác như vay nợ, đầu tư kém hiệu quả, thất
thoát các nguồn vốn, cũng sẽ ảnh hưởng đến mức độ bền vững về kinh tế.
20
(ii) Phát triển bền vững về xã hội gắn chặt và có quan hệ biện chứng
với phát triển bền vững về kinh tế, là sự phát triển kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế với ổn định xã hội, không có xung đột, xáo trộn, rối loạn; huy động tối
đa, hiệu quả các nguồn lực cho quá trình phát triển; bảo đảm giải quyết tốt các
vấn đề về việc làm, giáo dục, y tế, công bằng về thu nhập, phúc lợi xã hội
giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ; xây dựng, bảo vệ và phát
huy những chuẩn mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn giáo, truyền thống,
phong tục, tập quán, bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp.
(iii) Phát triển bền vững về môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với
phát triển bền vững về kinh tế và về xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con
người và giới tự nhiên. Mọi quá trình phát triển xét đến cùng là việc sử dụng
nguồn lực con người để khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm thoả mãn nhu
cầu của con người. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
môi trường phải bảo đảm sự bền vững. Bền vững về môi trường cũng có
nghĩa là tận dụng, tái tạo các nguồn tài nguyên, năng lượng, phòng ngừa và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm cân bằng
sinh thái. Nói cách khác, phát triển bền vững về môi trường là sự bảo đảm cho
môi trường sống luôn duy trì được ba chức năng cơ bản của nó: là không gian
sống của con người; là nơi cung cấp nguồn lực cho sự tồn tại, phát triển của
con người và xã hội; là nơi chứa đựng, tiêu huỷ các chất thải. Chỉ một trong
ba chức năng này bị tổn thương hoặc mất cân bằng là nguy cơ phát triển bền

vững về môi trường sẽ bị đe doạ.
Cuộc cách mạng tri thức cũng liên quan trực tiếp đến công cuộc phát
triển bền vững của các nước. Vì vậy, các nước đang phát triển muốn cải thiện
triển vọng kinh tế hiện nay của mình cần nhắm đầu tư không chỉ cho vốn vật
chất mà còn phải nhắm vào nền tảng tri thức của mình, tức là đầu tư vào khả
năng sáng tạo, hấp thu, thích ứng, phổ biến và sử dụng những tri thức mới cho
21
phát triển kinh tế - xã hội. Gìn giữ nguồn vốn tự nhiên, xây dựng nguồn vốn con
người sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của mỗi vùng, mỗi quốc gia và toàn cầu
trở nên bền vững hơn xét cả về các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong các chính sách phát triển bền vững, các nước phát triển thường
đặt trọng tâm vào vấn đề môi trường, còn các nước đang phát triển thường
nhấn mạnh đến vấn đề phát triển kinh tế. Đến nay, kết quả thực hiện các chính
sách phát triển bền vững ở các nước, nhất là các nước đang phát triển còn hết
sức hạn chế; những thành công thường chỉ dừng lại ở việc nâng cao nhận
thức, tăng cường sự đối thoại giữa các nhóm đối tượng trong xã hội, lồng
ghép vấn đề môi trường và phát triển bền vững trong quá trình xây dựng các
chính sách phát triển, triển khai các dự án thí điểm, nâng cao năng lực thể chế.
2.4. Quan điểm phát triển bền vững ở Việt Nam
2.4.1. Quá trình nhận thức và phát triển
Với việc thông qua Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền
vững 1991 - 2000, nước ta đã sớm hội nhập vào con đường phát triển bền
vững của thế giới. Ngay sau Tuyên bố Rio, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo
vệ môi trường năm 1993. Sau đó, hệ thống chính sách, pháp luật và hệ thống
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành. Tháng 6
năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; tháng 11 năm 2004 ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm

(2001 - 2010), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) đã
khẳng định “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Đặc biệt,
lần đầu tiên vấn đề phát triển bền vững đã được đưa thành chủ đề của Đại hội
22

×