Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tạp chí kinh tế đối ngoại đề tài HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.3 KB, 13 trang )

HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TS Phạm Thị Hồng Điệp
[1]
Đặt vấn đề
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) kể từ tháng 1 năm 2007. Đây là một sự kiện đánh dấu bước tiến
quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong suốt
quá trình đàm phán gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, đặc biệt là WTO,
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội. Thể chế kinh tế chính là lĩnh vực thể hiện rõ nét hơn cả những thay đổi
trong quá trình hội nhập. Quan hệ tương tác giữa việc xây dựng và hoàn
thiện các cơ chế, chính sách kinh tế, cải cách bộ máy, thủ tục hành chính với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng chặt chẽ hơn. Môi trường thể
chế kinh tế của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện. Bài viết này đánh
giá những thành quả cơ bản của việc hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế ở
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ ra những điểm tồn tại
và đề xuất một số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế
kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
1. Những thành quả hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế của Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nhận thấy, môi trường thể chế kinh tế của Việt Nam đã được từng
bước hoàn thiện trên ba phương diện cơ bản: hoàn thiện hệ thống luật pháp,
nhất là luật pháp về kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và cải cách
hành chính.
1.1. Hệ thống luật pháp được hoàn thiện theo yêu cầu hội nhập
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua nhiều đạo
luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập. Trong số các quy định pháp


luật, hệ thống quy định pháp luật kinh tế được ưu tiên sửa đổi và ban hành
mới. Trước hết phải kể đến Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, là văn bản
luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế
thị trường tại Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ
sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm tạo
môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu
tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu
tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu
và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa
đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu
tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền
kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật
thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản
pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc
thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên đáng kể phải bàn đến là Luật doanh nghiệp sửa đổi ban hành vào
cuối năm 2000 đã cải thiện môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong nước. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành đến nay, 160
loại giấy phép không phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp đã
được bãi bỏ, tạo nên bước đột phá về cải cách hành chính, chuyển từ tiền
kiểm sang hậu kiểm; phân định rõ quyền sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp với hoạt động quản lý nhà nước. Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm
2000 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Bộ
luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá nhân trong tất cả
các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính
đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp
giấy phép, thủ tục, các loại phí… Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, qua 6 năm thi

hành Luật doanh nghiệp (2000 -2005), đã có 160.752 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh, nâng tổng số đang hoạt động tại Việt Nam đến cuối năm 2005
lên trên 190.000
[2]
.
Đặc biệt vào cuối năm 2005, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan
trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó có
Luật đầu tư (chung) và Luật doanh nghiệp (thống nhất). Luật đầu tư đã có
những quy định thể hiện sự đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài, loại bỏ một số ưu đãi đối với thuế quan, tín dụng xuất
khẩu và tín dụng đầu tư, tỉ lệ nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, ưu tiên mua nguyên
liệu trong nước… Từ 1/7/2006, Luật doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho
cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, tạo ra sự
bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không phân biệt
hình thức sở hữu. Theo số liệu thống kê, tính đến tháng 12-2009 ước tổng số
có hơn 460.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp,
tăng 15 lần so với 10 năm trước
[3]
. Tính chung, Việt Nam đã đạt tỷ lệ 5 doanh
nghiệp trên 1.000 dân và đang tiếp cận dần tới mức trung bình 9-10 doanh
nghiệp trên 1.000 dân của nhiều nước trong khu vực.
Cùng với Luật doanh nghiệp, việc ban hành Luật đầu tư 2005 đã tạo bước
tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam để tạo
thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc đẩy mạnh
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, chỉnh
sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh việc thực
hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức giá
tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư,
cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực
trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân

hàng… cũng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt
Nam.
Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2006. Đây là một bước tiến trong việc bảo đảm thực thi quyền
sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, với việc thông qua một đạo luật thống
nhất về sở hữu trí tuệ, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã
xích lại gần hơn với thế giới. Một trong những nội dung quan trọng của việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ năm
2006 là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Luật dành riêng một phần gồm 3
chương, 22 điều quy định về vấn đề này, bao gồm các nội dung về quyền tự
bảo vệ của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp xử lý về hành chính,
dân sự, hình sự hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ
1.2. Thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được xây dựng và phát triển
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng
bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao
cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản
lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành
các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường
hàng hóa, thị trường đất đai… Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, khung pháp lý để phát triển các loại thị
trường tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện.
Đối với thị trường hàng hóa, một số rào cản từng bước được gỡ bỏ theo Hiệp
định chung về thương mại, dịch vụ của WTO. Bộ Công thương ban hành
thông tư số 09/2007/TT-BTM hướng dẫn thi hành Luật thương mại về hoạt
động mua bán hàng hóa và các hoạt động liêu quan trực tiếp đến mua bán
hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tư
hướng dẫn này là một bước quan trọng trong việc thực hiện các cam kết

WTO.
Để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, kiểm soát tình trạng hàng nhái,
hàng giả, tăng giá bất hợp lý, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được
Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 11 năm 2010. Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng có hiệu lực (từ ngày 01 tháng 07 năm 2011) đã tạo hành lang pháp
lý vững chắc bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng tại Việt Nam. Trước đó,
năm 2007 và năm 2008, một loạt văn bản liên quan đến bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng được ban hành đã tạo nên nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ
quyền lợi cho người tiêu dùng.
Đối với thị trường các yếu tố sản xuất, Luật đất đai ban hành năm 2003 được
tiếp tục sửa đổi vào năm 2010. Bộ Luật lao động được bổ sung, sửa đổi năm
2007 và một loạt các văn bản dưới luật được ban hành, như hướng dẫn thi
hành Bộ Luật Lao động về việc làm hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu
vùng. Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp đã được thông qua năm
2008, và một số văn bản hướng dẫn thực hiện cũng đã được ban hành.
Trong 5 năm qua, khung pháp lý để điều tiết thị trường chứng khoán liên tục
được hoàn thiện gồm: Luật chứng khoán, Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, Nghị định số
36/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán, được ban hành năm 2007, và gần
đây có Quyết định 55/2009/QĐ-TTg ngày 15/4/2009 Về tỷ lệ tham gia của
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm có Nghị định 45/2007/NĐ- CP ngày 27/3/2007
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Nhờ
khung pháp lý liên tục được hoàn thiện theo hướng xóa bỏ độc quyền, tạo sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và cam kết mở cửa thị
trường, thị trường dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam cũng phát triển khá mạnh
trong những năm gần đây với việc tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư
nhân trong và ngoài nước.Luật Viễn thông đã được Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ 6, Quốc hội khoá 12, năm 2009 và Luật Bưu chính cũng đã được

thông qua năm 2010, có hiệu lực từ năm 2011.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, để thực hiện các tiêu chí về một nền kinh tế thị
trường, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để giảm sự kiểm soát của Chính phủ đối
với việc phân bổ nguồn lực và giá cả. Quản lý nhà nước được phân quyền và
phân cấp mạnh mẽ xuống đến cơ sở, theo đó người dân được tham gia vào
quá trình phân bổ nguồn lực công tại địa phương. Những nỗ lực này được thể
hiện rõ trong các văn bản luật mới ban hành hoặc sửa đổi, hoặc các nghị
định, quyết định do Chính phủ ban hành, như Luật ngân sách nhà nước năm
2002. Về giá cả, Nhà nước và doanh nghiệp đã và đang thực hiện lộ trình
chuyển sang giá thị trường đối với một số hàng hoá dịch vụ như điện, than,
nước sạch, xăng dầu.
1.3. Cải cách hành chính được đẩy mạnh
Cải cách hành chính được Đảng và Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm
trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mục
tiêu cải cách hành chính là xây dựng một nền hành chính vững mạnh, trong
sạch, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Cải cách
hành chính đã và đang được tiến hành đồng bộ trên bốn mặt: cải cách thể chế
hành chính, cải cách bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước
và quản lý tài chính công.
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật quan trọng phù hợp với cơ chế thị trường và yêu cầu của
hội nhập kinh tế quốc tế, làm cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Các cơ quan chức năng cũng đã rà soát lại hệ thống văn bản pháp quy, hủy bỏ
những văn bản lạc hậu, trùng lặp, loại bỏ những thủ tục không còn phù hợp,
giảm phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động kinh doanh và
quan hệ dân sự. Thủ tục đăng ký kinh doanh được đơn giản hóa, giấy phép
kinh doanh được bãi bỏ, đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập khẩu, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị, cải cách một cách cơ bản thủ tục hải
quan, giảm thời gian thẩm định cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, miễn trừ
các loại phí và lệ phí không phù hợp… Cùng với các thể chế kinh tế, việc xây

dựng và hoàn thiện thể chế về đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dân chủ hóa kinh tế và đời sống xã hội đã có bước tiến đáng kể, góp phần
quan trọng vào ổn định xã hội, khai thác và phát huy các nguồn lực để phát
triển kinh tế, xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành công nổi bật của cải cách thể chế hành chính là giảm dần thể chế hành
chính đơn thuần sang thể chế kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tự
chịu trách nhiệm của các cấp, bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp và
công dân. Hình thành cơ sở pháp lý phân biệt quản lý nhà nước với quản lý
sản xuất – kinh doanh và các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, thúc đẩy xã
hội hóa, phân công, phân cấp.
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước
được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà nước tập
trung vào những vấn để quan trọng ở tầm vĩ mô như xây dựng chiến lược,
quy hoạch, pháp luật, chính sách, hướng dẫn, tạo môi trường thuận lợi cho
sản xuất kinh doanh, giảm dần đầu tư nhà nước vào các cơ sở kinh tế, hướng
trọng tâm vào những lĩnh vực công cộng. Đã thực hiện điều chỉnh chức năng
quản lý nhà nước giữa các cấp cho phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu
của hội nhập trên nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc
phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ. Chính quyền địa
phương được phân cấp nhiều hơn, nhất là trong lĩnh vực ngân sách, tài chính,
biên chế, đầu tư, đất đai, y tế, giáo dục…
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước
được nâng lên. Phần lớn công chức hành chính có năng lực, trình độ, kỹ năng
đáp ứng đòi hỏi của một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại. Pháp lệnh
Cán bộ, Công chức năm 1998 qua hai lần sửa đổi năm 2001 và 2003, đến năm
2008 được nâng cấp lên thành Luật Cán bộ, Công chức. Luật đã có sự phân
loại khá rõ đối tượng cán bộ, công chức, tạo căn cứ pháp lý để định ra yêu
cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất và chế độ, chính
sách đãi ngộ tương ứng.

Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục thực hiện kế hoạch tổng thể Cải
cách hành chính công được khởi động vào cuối thập niên 90 thế kỷ XX, bao
gồm các vấn đề về phân cấp, xác định chức năng, hiện đại hóa quản lý tài
chính công, chính phủ điện tử, cải cách hệ thống công chức và các vấn đề
khác. Nhiều mục tiêu của cải cách hành chính đã được đưa ra, và đã đạt được
một số thành tựu nhất định, đặc biệt là trong việc đơn giản hóa thủ tục hành
chính. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của
nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh
doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
2. Những vấn đề đặt ra trong hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế ở Việt
Nam theo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế
Sau 5 năm kể từ thời điểm chính thức gia nhập WTO, môi trường thể chế kinh
tế của Việt Nam đã có những thay đổi tích cực trên nhiều khía cạnh. Song,
theo yêu cầu thượng tôn pháp luật, không phân biệt đối xử và minh bạch…
của WTO và các tổ chức kinh tế quốc tế khác, môi trường thể chế kinh tế của
Việt Nam còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện.
Một là, hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ. Nhiều luật của
Việt Nam chưa đầy đủ nội dung cần thiết, chưa có khả năng bao quát tình
huống pháp luật có liên quan nên cần rất nhiều văn bản hướng dẫn của cơ
quan hành pháp dưới dạng thông tư, nghị định mới có thể áp dụng. Ví dụ
Luật doanh nghiệp – một văn bản luật được coi là có nhiều quy định mang
tính đột phá về đảm bảo các nguyên tắc của thể chế kinh tế thị trường - sau
khi được thông qua đã phải chờ một hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành về
đăng ký kinh doanh, về chuyển đổi công ty nhà nước, về chuyển đổi doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về vấn đề chủ sở hữu đối với phần vốn nhà
nước tại các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn tới tình trạng chệch hướng trong thực thi quy phạm
pháp luật.
Bên cạnh đó, các văn bản do Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương ban
hành hiện còn chiếm tỷ trọng khá lớn trong hệ thống các văn bản quy phạm

pháp luật. Việc tồn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan
khác nhau ban hành về cùng một vấn đề tại các thời điểm khác nhau đã gây
nên tình trạng chồng chéo, có khi còn mâu thuẫn về nội dung áp dụng. Có
trường hợp khi ban hành văn bản mới không ghi rõ các văn bản liên quan bị
thay thế hoặc bãi bỏ nên đã làm cho hệ thống pháp luật rườm rà, khó kiểm
soát và khó tiếp cận. Cơ chế kiểm tra, giám sát trước và sau về tính hợp hiến,
hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản do các bộ,
ngành, địa phương ban hành chưa được tổ chức thực hiện tốt.
Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi
chưa cao. Chẳng hạn như luật Phá sản mặc dù đã được Quốc hội phê chuẩn
để ban hành từ năm 1993 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004 nhưng vẫn
chưa có đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành nên nhiều vụ việc phá sản
chưa có cơ sở pháp lý đồng bộ để thực hiện. Tương tự như vậy, cạnh tranh là
một hành vi cơ bản và mang tính quyết định thắng lợi của các nhà đầu tư
trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, luật Cạnh tranh được ban hành từ
năm 2004 song hiệu lực thực thi vẫn chưa thể nhìn rõ. Còn có nhiều văn bản
pháp luật bổ trợ cho các vấn đề cạnh tranh, độc quyền, bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp, bảo hộ người tiêu dùng… có hiệu lực thực thi thấp. Một trong
những nguyên nhân của hiện tượng này là vì hiện nay, hệ thống pháp luật
của Việt Nam được xây dựng vẫn chủ yếu nhằm tăng cường hoặc duy trì sự
quản lý của nhà nước, hoặc chú trọng thái quá đến việc tạo ra các khuôn
phép buộc các đối tượng điều chỉnh của pháp luật phải thực hiện, trong khi
coi nhẹ cơ chế tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước xã hội của các đối
tượng được điều chỉnh.
Hai là, thể chế kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ, đặc biệt là đối với thị
trường công nghệ, thị trường tài chính, bất động sản… Mặc dù Việt Nam đã
quan tâm xây dựng các thể chế khoa học và công nghệ nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp nâng cao năng lực và trình độ công nghệ song những thể chế
đó chưa đầy đủ hoặc chưa đủ mạnh nên tác động đem lại còn rất hạn chế. Thể
chế vận hành của thị trường tài chính cũng còn chưa theo kịp những đòi hỏi

của đời sống kinh tế, xã hội; thị trường tài chính nói chung, thị trường tiền tệ
và thị trường vốn nói riêng còn ở trình độ phát triển tương đối thấp; mối liên
kết, tác động qua lại giữa các thị trường trong hệ thống còn thiếu chặt chẽ,
hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, tính minh bạch thông tin chưa
thường xuyên được đảm bảo. Liên quan đến thị trường bất động sản cũng
còn nhiều vấn đề thể chế cần được xem xét, chẳng hạn như các chính sách đất
đai, quy hoạch, đầu tư, tài chính… còn dàn trải, chưa khuyến khích việc kinh
doanh bất động sản, thiếu tính hợp lý; việc xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết
để điều chỉnh sự vận hành của thị trường bất động sản – một loại thị trường
nhạy cảm và rất phức tạp – còn chậm, gây cản trở đáng kể cho sự phát triển
của thị trường bất động sản ở Việt Nam.
Ba là, vẫn còn nhiều thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, gây phiền hà
cho dân và cho doanh nghiệp. Năng lực và phẩm chất của một bộ phận cán bộ
công chức quản lý nhà nước về kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa, hội nhập. Một số cán bộ công chức thiếu
kiến thức và kỹ năng quản lý mới, thiếu tính nhạy bén thị trường, trách
nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Quy trình làm việc của cán bộ, công chức
quản lý nhà nước còn thiếu tính chuyên nghiệp. Dấu ấn của cơ chế tập trung
quan liêu còn đậm nét trong điều hành và tổ chức công việc của các cơ quan,
thể hiện ở số lượng giấy tờ hành chính gia tăng, thẩm quyền và trách nhiệm
giải quyết công việc của từng cán bộ, công chức chưa rõ, đặc biệt khâu phối
hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình giải quyết công việc
còn yếu. Trang thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính nhà nước
còn nhiều hạn chế. Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật, nhất là
công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước còn chậm và hiệu quả
thấp. Chủ trương hiện đại hóa nền hành chính, thu hẹp khoảng cách tụt hậu
so với các nước trong khu vực như Chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và cho giai đoạn tiếp theo vẫn còn là một
thách thức lớn.
3. Một số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế ở

Việt Nam theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống luật pháp
Khuôn khổ pháp lý phải nhất quán, đồng bộ, ổn định và đảm bảo thực thi
trong thực tế. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp theo 16
hiệp định đa phương của WTO đã ký kết nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh
lành mạnh, phù hợp với những yêu cầu, nguyên tắc của WTO về đối xử quốc
gia và tối huệ quốc. Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản,
quy phạm pháp luật phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết, chuẩn mực trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, tạo sự phù hợp giữa pháp luật trong
nước và quốc tế, đảm bảo thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong hội nhập.
Khẩn trương rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành luật để loại bỏ những
văn bản chồng chéo, trùng lắp, trái ngược nhau, không phù hợp với thực tế
và thiếu tính khả thi, đồng thời nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm
pháp luật để có thể có hiệu lực trương đối ổn định trong một thời gian nhất
định.
3.2. Phát triển đồng bộ các loại thị trường
Về thị trường hàng hóa và dịch vụ: Cần phát triển thị trường nội địa theo
hướng ổn định, văn minh, hiện đại… phù hợp với các xu hướng chung của hội
nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường cho dịch vụ phân phối theo các cam
kết với WTO, nhưng cũng cần phải có lộ trình, để hạn chế những rủi ro cho thị
trường nội địa, tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước.
Tiếp tục tự do hoá thương mại trên cơ sở thực hiện các cam kết song phương,
đa phương và theo thông lệ quốc tế; giảm dần các biện pháp bảo hộ thuế
quan và phi thuế quan phù hợp với cam kết đã ký kết. Có chính sách tạo bước
phát triển nhanh, mạnh và toàn diện thị trường dịch vụ nhất là những dịch
vụ có giá trị gia tăng lớn như: dịch vụ viễn thông, dịch vụ thực hiện phần
mềm, dịch vụ tư vấn khoa học kỹ thuật…
Về thị trường tài chính: Cần phát huy vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung ương hiện đại để thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế bền vững và kiểm soát lạm phát. Tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, thu hút nhiều loại hình chủ thể tham gia vào thị trường tiền tệ.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho sự hoạt động và phát
triển lành mạnh của thị trường chứng khoán.
Về thị trường bất động sản: Cần sớm có qui định bắt buộc các tổ chức, cá
nhân kinh doanh bất động sản phải bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất tại
các dự án thông qua Sàn giao dịch, Trung tâm giao dịch bất động sản theo
Luật Kinh doanh Bất động sản - để mọi đối tượng có nhu cầu được tiếp cận
trực tiếp các thông tin mua bán, hạn chế đầu cơ, mua đi bán lại thu lời bất
chính.
Về thị trường lao động: Đổi mới cơ chế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu về
số lượng và chất lượng lao động trên thị trường. Hỗ trợ phát triển kinh tế phi
nông nghiệp ở nông thôn để tạo thêm công ăn việc làm, tham gia vào thị
trường lao động khu vực và quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thúc
đẩy việc mở rộng hoạt động giao dịch trên thị trường lao động, phát triển hệ
thống trung tâm giới thiệu việc làm.
Về thị trường công nghệ: Sớm rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới
những văn bản dưới luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho phù hợp với thông lệ
quốc tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đổi mới công tác quản lý và tổ
chức hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng thương mại hoá; Kiện
toàn bộ máy quản lý nhà nước về tài chính - kế toán trong chuyển giao công
nghệ, sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học và công nghệ nhằm tăng cường
đóng góp của khoa học và công nghệ vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
3.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính
Cần kịp thời phát hiện khó khăn của doanh nghiệp để bổ sung, sửa đổi nhanh
các thủ tục hành chính, đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ, công khai, minh bạch.
Thủ tục hành chính phải được thể chế hoá để nghiêm minh, tránh tuỳ tiện
trong thực hiện, trước mắt cần tập trung cải cách thủ tục đăng ký kinh
doanh, thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục vay vốn tín dụng… Đẩy mạnh cải cách
hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, xoá bỏ các thủ tục r-

ườm rà, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các hoạt động này
theo hướng thị trường, phù hợp với các cam kết của WTO nhưng vẫn giữ
được sự lành mạnh cho nền kinh tế, đảm bảo lợi ích quốc gia. Đẩy mạnh hơn
nữa quá trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, loại bỏ
những thủ tục gây cản trở việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất,
nhất là các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các đô thị và
các thủ tục giao đất, thuê đất. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật đất đai, thường xuyên phổ biến những quy định mới của Nhà nước đối
với người dân về lĩnh vực này.
Tóm lại, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường thể chế kinh tế
của Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực trên các khía cạnh như hoàn thiện
khung khổ pháp lý phù hợp yêu cầu hội nhập; hoàn thiện các thể chế thị
trường để đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế theo nguyên tắc cạnh tranh
tự do, không phân biệt đối xử; cải cách hành chính theo hướng minh bạch và
đơn giản hoá thủ tục Tuy nhiên, thể chế kinh tế Việt Nam cũng còn tồn tại
một số bất cập đang cản trở sự phát triển kinh tế xã hội cần từng bước tháo
gỡ nhằm góp phần đưa đất nước hội nhập có hiệu quả hơn vào nền kinh tế
thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Công thương (2009). Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện
trạng và dự báo, />2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành
luật Doanh nghiệp.
3. Mutrap (2008), Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới – Giải
thích các điều kiện gia nhập, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội
4. Mutrap (2009). Hội nhập kinh tế và sự phát triển ở Việt Nam: Báo cáo
cuối cùng.www.mutrap.org.vn
5. Tổng cục Thống kê (2009). Niên giám thống kê, NXB Thống kê Hà Nội.
6. Vo Tri Thanh, Nguyen Anh Dương (2009). Vietnam after two years of
WTO Accession: What lesson can be learnt?. ASEAN Economic
Bulletin 26(1) April.

TÓM TẮT
Trong lộ trình gia nhập WTO nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tếnói chung,
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội. Thể chế kinh tế là một trong những lĩnh vực thể hiện rõ nét hơn cả
những thay đổi trong quá trình hội nhập. Môi trường thể chế kinh tế của Việt
Nam đã có nhiều biến đổi tích cực trên các khía cạnh như hoàn thiện khung
khổ pháp lý; hoàn thiện các thể chế thị trường để đảm bảo sự vận hành của
nền kinh tế theo nguyên tắc cạnh tranh tự do, không phân biệt đối xử; cải
cách hành chính theo hướng minh bạch và đơn giản hoá thủ tục Tuy nhiên,
thể chế kinh tế Việt Nam cũng còn tồn tại một số bất cập đang cản trở sự phát
triển kinh tế xã hội cần từng bước tháo gỡ nhằm góp phần đưa đất nước hội
nhập có hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới. Bài viết đánh giá những thành
quả cơ bản của việc hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ ra những điểm tồn tại và đề xuất một
số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế kinh tế Việt
Nam trong thời gian tới.

Tác giả: TS Phạm Thị Hồng Điệp
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐT: 0914 133 330 Email:

×