Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tạp chí kinh tế đối ngoại đề tài KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ DỆT MAY CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.55 KB, 15 trang )

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ DỆT MAY CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ(CNHT) DỆT MAY
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung Huệ
(Tạp chí Kinh t ế Đối ngoại số 48)
Trong những năm gần đây, ngành dệt may đã đóng góp đáng kể vào việc giải
quyết công ăn việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp dệt may nước ta vẫn chủ yếu là các nhà cung cấp
cấp thấp, dựa trên chi phí thấp và dễ bị thay thế. Để thâm nhập sâu hơn vào
mạng sản xuất dệt may toàn cầu cũng như tạo dựng các mạng sản xuất của
riêng mình, phát triển CNHT dệt may là một điều kiện tối cần thiết. Do
đó, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của cácnước CNHT dệt
maypháttriểnmạnh trongkhuvực như NhậtBản, TrungQuốc,và HànQuốc sẽ
đem lại những bài học có giá trị, gợi mở những giải pháp cho những nước đi
sau như Việt Nam.
Bài viết này sẽ tổng kết kinh nghiệm phát triển thành công CNHT dệt may của
Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc thành 7 bài học lớn.
1. Coi dệt may là một ngành công nghiệp nền tảng trong giai đoạn đầu
quá trình công nghiệp hóa, từ đó tạo thị trường để phát triển CNHT
dệt may
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hầu hết các nước
đều tập trung phát triển công nghiệp nhẹ làm nền tảng cho phát triển công
nghiệp nặng sau này. Trong đó, công nghiệp dệt may thường được coi trọng
và có nhiều điều kiện phát triển mạnh. Công nghiệp dệt may phát triển tạo ra
thị trường để phát triển CNHT dệt may.
Ở Nhật Bản, ngành công nghiệp dệt may đã xuất hiện vào những thập
kỷ 50 và 60 của thế kỷ XIX. Đến năm 1913, nước này đã xuất khẩu hàng loạt
các mặt hàng nguyên phụ liệu dệt may như tơ sống, vải lụa, và hàng dệt bông
với kim ngạch xuất khẩu chiếm 55% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Và đến
1929 tỷ lệ này được nâng lên 66%, riêng tơ sống chiếm 40% trong tổng kim


ngạch xuất khẩu cả nước (Hoàng Văn Châu, 2009). Trong thời kỳ đầu của
công nghiệp hóa thì ngành kéo sợi và ngành dệt vải đã trở thành công nghiệp
hiện đại quan trọng trong nền kinh tế của Nhật Bản. Đến cuối thập niên 1970,
ngành dệt may của Nhật Bản đã bắt đầu giảm đi do xu hướng công nghiệp
hóa liên tục đã làm tăng lương trong nước và các chi phí sản xuất khác, làm
cho các nhà sản xuất vải may mặc của Nhật mất lợi thế cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
Trung Quốc có ngành công nghiệp dệt may là ngành có truyền thống phát
triển lâu đời. Ngay từ khi mới thực hiện quá trình công nghiệp hóa, dựa trên
lợi thế về truyền thống lâu đời và nguồn lao động dồi dào, Chính phủ Trung
Quốc đã coi dệt may và CNHT dệt may là những ngành công nghiệp mũi nhọn
và tập trung hỗ trợ phát triển. Nhờ vậy, ngành dệt may Trung Quốc đã phát
triển nhanh chóng với mức tăng trưởng 500% từ năm 1990 đến năm 2008,
giá trị sản lượng tăng từ 10 tỷ USD lên tới 50 tỷ USD, sử dụng 15 triệu nhân
công, sản xuất 25 tủ m2 vải. Ngành CNHT dệt may của Trung Quốc đã gặt hái
được rất nhiều những thành công đáng chú ý. Ngành sản xuất vải bông, với
bề dày hơn 2000 năm phát triển, đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Hàng
năm, sản lượng bông của Trung Quốc lên đến 6 triệu tấn, chiếm 1/3 sản
lượng bông toàn thế giới. Nguồn cung cấp bông dồi dào đã làm cơ sở vững
chắc cho việc phát triển mạng lưới sản xuất nguyên liệu cho ngành may mặc
của Trung Quốc (Đinh Phi Hồ, 2008).
Đối với Hàn Quốc, công nghiệp dệt may đã trở thành ngành công nghiệp
quan trọng. Trong những năm 1960, Hàn Quốc tập trung sản xuất hàng hóa
sơ cấp như lụa. Nhưng từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã thành công
trong việc xây dựng và củng cố vị trí của mình trên thị trường hàng dệt may
thế giới. Đến năm 2004, Hàn Quốc đã đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu hàng
dệt, năm 2005 đứng thứ 5 và năm 2006 giữ vị trí thứ sáu về ngành hàng này
trong thương mại quốc tế, sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và Ấn Độ.
Đặc biệt, Hàn Quốc còn là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu vải sợi
tổng hợp, chiếm 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới về mặt hàng

này (Đỗ Thi Loan, 2008). Không những thế, Hàn Quốc còn nhanh chóng nổi
lên như một quốc gia dẫn đầu về thời trang trong khu vực, vượt qua các đối
thủ đi trước như Nhật Bản, Hồng Kông, v.v Sự thành công này thể hiện sự
đúng đắn trong đường lối phát triển ngành dệt may và CNHT dệt may của
Hàn Quốc (Đỗ Thị Loan, 2008).
Kinh nghiệm các nước thành công trong phát triển dệt may nói chung và sản
xuất nguyên phụ liệu dệt may nói riêng là: Tận dụng các lợi thế so sánh của
nước mình ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa để phát triển kinh
tế và đã lựa chọn ngành dệt may và CNHT dệt may, ngành thu hút nhiều lao
động, giá nhân công rẻ, hàng hóa tập trung cho xuất khẩu để phát triển cho
bước đi khởi đầu.
2. Có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Nhà nước
Trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thì vai trò của
Nhà nước là rất quan trọng. Đối với ngành dệt may và CNHT dệt may, ngành
công nghiệp khởi đầu cho quá trình công nghiệp hóa thì vai trò của nhà nước
lại càng quan trọng hơn. Hầu hết quá trình phát triển ngành công nghiệp dệt
may của các nước đều có ít nhiều yếu tố bảo trợ từ phía Chính Phủ, mặc dù
các doanh nghiệp ở các nước này chủ yếu thuộc thành phần kinh tế ngoài
nhà nước.
Vào những năm 1930, Chính phủ Nhật Bản đã can thiệp vào lĩnh vực
sản xuất tơ tằm bằng cách thiết lập sự kiểm tra, kiểm soát về chất lượng ở
một số khâu quan trọng, hình thành các trạm kiểm tra chất lượng ở các hải
cảng nhằm đảm bảo chất lượng trước khi xuất khẩu, ban hành luật kiểm tra
trứng tằm, theo đó quy định các nhà nuôi tằm chỉ được mua trứng tằm của
các nhà buôn có giấy phép. Nhờ sự can thiệp trên mà chất lượng tơ của Nhật
Bản đã được thế giới đánh giá rất cao, Nhật Bản đã thắng thế trong cạnh
tranh với tơ của Trung Quốc trên thị trường thế giới. Ngoài ra, Chính phủ
Nhật Bản còn thực hiện hỗ trợ các gia đình nông dân thông qua việc thành
lập các hộ tín dụng để cho nông dân vay vốn, thực hiện các biện pháp giúp đỡ
về kỹ thuật. Ngoài ra, Nhật Bản còn thực hiện chính sách bảo hộ qua thuế,

hầu hết các mặt hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật đều có mức thuế suất cao
hơn rất nhiều so với các nước phương Tây.
Còn đối với thành công của ngành dệt may và CNHT dệt may của Trung
Quốc thì những nỗ lực mà Chính phủ đã làm thực sự có ý nghĩa quan trọng.
Kể từ cuối thập kỷ 70 cho đến trước năm 1998, cũng giống các quốc gia đang
phát triển khác, ngành dệt may của Trung Quốc đặc trưng với trang thiết bị
lạc hậu, cơ sở sản xuất nhỏ, phân tán, hiệu quả sản xuất thấp. Thêm vào đó,
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 đã gây ra sự mất giá
của một loạt các đồng tiền trong khu vực và tác động mạnh đến sức cạnh
tranh của hàng dệt may Trung Quốc. Đứng trước những khó khăn này, vào
năm 1998, chính phủ Trung Quốc thông qua kế hoạch cải tổ, hiện đại hóa các
xí nghiệp dệt may, đặc biệt là ưu tiên phát triển hoạt động sản xuất nguyên
liệu thượng nguồn.
- Khuyến khích loại bỏ các máy móc cũ và lạc hậu: Để khuyến khích việc loại
bỏ máy móc cũ, thay thế máy móc mới cũng như giải quyết các khó khăn về
tài chính của doanh nghiệp, Chính phủ Trung Quốc thực hiện trợ cấp cho
ngành dệt thông qua hình thức cấp tiền trợ cấp và cho vay ưu đãi cho các
doanh nghiệp để loại bỏ số cọc sợi cũ (trợ cấp 3 triệu Nhân dân Tệ và cho vay
ưu đãi 2 triệu Nhân dân Tệ với mỗi 10.000 cọc sợi cũ bị loại bỏ) (Nguyễn
Xuân Nữ, 2004). Chính sách này đi kèm với việc Trung Quốc tăng các mức
thuế khác để bù đắp chi phí khi xuất khẩu hàng dệt may. Nhờ đó, riêng năm
1998, Trung Quốc bỏ 5,12 triệu cọc sợi cũ, chấp nhận cắt giảm 60.000 việc
làm trong ngành dệt
- Quy hoạch tập trung ngành dệt may: Chính phủ Trung Quốc đã quy hoạch
tập trung sản xuất dệt may vào các khu vực duyên hải có truyền thống lâu
năm về ngành sản xuất nguyên phụ liệu và may mặc nhằm tận dụng kinh
nghiệm sản xuất, điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động
dồi dào có tay nghề cao tại các khu vực này. Việc quy hoạch tập trung cũng
nhằm phát huy lợi thế về quy mô sản xuất để hạ giá thành sản phẩm.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất dệt may, nguyên phụ

liệu dệt may: Chính phủ Trung quốc đã xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
đại, đồng bộ và có những chính sách ưu đãi đặc biệt với các nhà đầu tư nước
ngoài. Chẳng hạnngày 11/10/1996 “qui định về khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài” đã giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các
doanh nghiệp ở đặc khu kinh tế chỉ còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các
doanh nghiệp mới thành lập ở đặc khu, miễn thuế thu nhập khi chuyển lãi ra
nước ngoài, hoàn trả thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư,
v.v Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may còn giúp phát triển công nghệ và
các chiến lược thị trường, thông qua đó nâng cao chất lượng và hạ giá thành
sản phẩm (Đại học Ngoại thương, 2009).
- Hỗ trợ xuất khẩu: Năm 1986, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện hoàn trả
thuế trung gian và VAT. Năm 1988, Trung Quốc đã hoàn trả thuế gián tiếp luỹ
tiến ở các khâu, hình thành các quĩ hỗ trợ tín dụng nhằm cấp tín dụng xuất
khẩu, tín dụng cải tiến kỹ thuật, v.v Những chính sách hỗ trợ xuất khẩu này
đã khuyến khích các doanh nghiệp dệt may đổi mới năng lực và hiện đại hoá
công nghệ, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Còn ở Hàn Quốc, có thể nói công nghiệp dệt may và CNHT dệt may có thể
phát triển được là do sự trợ giúp tích cực của chính phủ cùng sự độc quyền
của các Chaebol. Chính vai trò này của chính phủ và của các Chaebol đã giúp
ngành công nghiệp dệt may của Hàn Quốc dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm trên thị trường dệt may toàn cầu. Chính phủ Hàn
Quốc đã thực hiện giúp đỡ các Chaebol dưới các hình thức khác nhau trong
từng giai đoạn:
- Trong giai đoạn đầu hình thành các Chaebol vào những năm 1950, chính
phủ đã cho vay vốn với lãi suất thấp hoặc không có lãi, chấp nhận tỷ giá hối
đoái của các Chaebol thấp hơn tỷ giá thị trường.
- Giai đoạn những năm 1960, 1970 khi các Chaebol đã phát triển khá tốt,
Chính phủ đầu tư vốn cho các công ty có tiềm năng, các khoản đầu tư được
cân nhắc hơn, đồng thời hỗ trợ thành lập các công ty thương mại để phát
triển xuất khẩu.

- Giai đoạn các Chaebol phát triển mạnh những năm 1980, 1990, Chính phủ
thực hiện các biện pháp định hướng, khuyến khích các Chaebol tập trung vào
các ngành có hàm lượng khoa học cao.
- Giai đoạn hiện nay, với nhiều biến cố về kinh tế đặc biệt là cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997, Chính phủ có chủ trương cải tổ cơ cấu các
Chaebol, cho vay các khoản tiền lớn từ các tổ chức tài chính quốc tế.
Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc còn cho phép các doanh nghiệp dệt may và hỗ
trợ dệt may tự do hoạt động trên thị trường, chỉ trợ giúp bằng cách đảm bảo
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, trợ giúp hoạt động xuất khẩu như đưa ra hệ
thống hạn ngạch để quản lý xuất khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc, khuyến
khích các công ty nội địa bố trí hoạt động trên hầu hết các khâu, từ thượng
nguồn đến hạ nguồn. Kết quả là ngành dệt may Hàn Quốc chiếm vị trí độc tôn
trên thị trường nội địa, từ khâu hạ nguồn đến thượng nguồn. Trên thị trường
nước ngoài, vai trò của Hàn Quốc trong phần hạ nguồn là rất quan trọng,
thông qua ngoài việc xuất khẩu các nguyên liệu cho ngành dệt may. Các công
ty Hàn Quốc cũng tham gia vào khâu thượng nguồn trong chuỗi giá trị toàn
cầu ở nước ngoài.
3. Đầu tư có trọng điểm và đầu tư theo hướng hiện đại
Chính phủ Trung Quốc thực hiện các giải pháp hỗ trợ kinh phí để giúp các
doanh nghiệp thay thế, đổi mới, hiện đại hóa công nghiệp dệt. Với thế mạnh
là điều kiện thuận lợi về phát triển các nguyên liệu thượng nguồn từ nông
nghiệp, nhất là bông và dâu tằm, Trung Quốcđã chủ động hầu hết các nguyên
phụ liệu cho may mặc từ kéo sợi, sản xuất vải, cúc, chỉ, khóa, v.v Đạt được
kết quả này là do Trung Quốc đã không ngừng đầu tư, tiếp cận các công nghệ
hiện đại trên thế giới, nhất là các lĩnh vực cơ khí, hóa chất, công nghệ sản
xuất vải.
Hiện nay, để tăng sức cạnh tranh và chống lại những biện pháp “trả đũa” của
các nước phương Tây, Trung Quốc đang giảm sản xuất và xuất khẩu các mặt
hàng dệt may giá rẻ, chuyển dần sang sản xuất các sản phẩm cao cấp. Do đó,
các doanh nghiệp trong ngành CNHT cũng không ngừng đổi mới để theo kịp

và hỗ trợ tốt nhất cho ngành dệt may.
Cũng giống như Trung Quốc, Hàn Quốc không ngừng đầu tư áp dụng các
công nghệ hiện đại vào sản xuất vải và các sản phẩm dệt may. Việc áp dụng
công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh là một minh chứng với hệ thống
CAD/CAM (sử dụng máy tính trợ giúp cho thiết kế và sản xuất), qua đó đã
tăng năng suất lao động. Riêng năm 1995, Hàn Quốc đã đầu tư 3 tỷ USD cho
các hoạt động này.
Kinh nghiệm các nước cho thấy đầu tư cho hiện đại hóa công nghệ sản xuất
theo hướng đón đầu các công nghệ hiện đại, mà không cần theo trình tự
chuyển giao từ lạc hậu đến hiện đại. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
vào sản xuất vải và nguyên phụ liệu may mặc là rất quan trọng. Đầu tư cho
công nghệ sẽ góp phần tăng năng suất lao động và khả năng cạnh tranh trên
thị trường thế giới, không những trong ngành sản xuất vải mà còn quyết
định sự phát triển bền vững của sản phẩm may mặc.
4. Xây dựng các quan hệ liên kết kinh tế chặt chẽ
Bất cứ một ngành công nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ đều phải dựa
trên một nền tảng vững chắc, cũng như có một mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ
lẫn nhau giữa các ngành công nghiệp cả theo chiều dọc và chiều ngang.
-Liênkếtdọc:Đối với ngành dệt may, quan hệ theo chiều dọc của ngành này
được biểu hiện dưới dạng chuỗi giá trị như sau:
Sản xuất nguyên liệu à Kéo sợi à Dệt vải à Nhuộm, in vải à Cắt may à Phân
phối hàng may.
ỞNhậtBản đãhìnhthànhmộthệthốngliênkếtdọcdướcdạngcáccáccôngtyliênhợ
psợi-dệt.Môhìnhmanglạiưuthếlàcótiềmlựcmạnh đầutưcôngnghệhiện đạinênđ
ãsảnxuấtnhiềuloạivảicaocấp,sứccạnhtranhlớnhơn.Thựchiệnliênkếtdọccủang
ườiNhật Bảnmanglạicáclợiíchlớn:
+Tiếtkiệmchiphí đónggói, đánhốngvàvậnchuyểndo các cơ sở sảnxuấtsợivà
dệtđược đặtgần nhau;
+Pháthiệnkịpthờicáclỗidokhâukéosợi,từđóchỉnhsửakịpthời, đôikhicòn
tìmracáccáchphachếbôngvàkéosợitốthơn;

+Tiếtkiệmchiphídotínhchuyênmônhóacaocủacáccôngtykéosợichỉkéomộtsố
ítlợi sợivớisốlượnglớnphụcvụ côngtydệt vải.
Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn đóng một vai trò quan trọng trong phát
triển liên kết giữa các nhà thầu phụ mà chủ yếu là các doanh nghiệp hỗ trợ
dệt may vừa và nhỏ với các doanh nghiệp dệt may lớn. Nhật Bản đã xây dựng
các chính sách công nghiệp nhằm kịp thời đáp ứng những biến đổi trong môi
trường kinh doanh, và cân bằng lợi ích giữa DNVVN và doanh nghiệp dệt
may lớn. Ví dụ, vào năm 1949, chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật về Hợp
tác với DNVVN nhằm bảo vệ quyền đàm phán của DNVVN và tạo điều kiện
cho họ tiếp cận với công nghệ mới và các nguồn vay. Trong những năm l950,
các nhà thầu phụ thường bị các công ty mẹ trì hoãn thanh toán. Chính phủ đã
can thiệp bằng việc ban hành Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán chi phí
thầu phụ và các vấn đề liên quan vào năm l956 nhằm ngăn chặn tình trạng
trì hoãn thanh toán cho các nhà thầu phụ. Trong những năm l960 và l970,
ngành chế tạo mở rộng nhanh chóng nhờ việc sản xuất hàng loạt dẫn đến
cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp lớn vì thế
rất cần các nhà thầu phụ có khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm chi
phí để giúp họ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Chính phủ hỗ trợ
xu thế này thông qua việc ban hành Luật xúc tiến Doanh nghiệp thầu phụ vừa
và nhỏ vào năm l970 để tạo thuận lợi cho các hoạt động thầu phụ. Ngoài ra,
các nhà máy dệt và may mặc của Nhật Bản đã tồn tại và phát triển vững
trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu ngày nay là do họ đã thiết lập được
một chuỗi cung ứng hiệu quả giữa các ngành có liên quan. Sự hợp tác trong
từng hãng sản xuất tại các ngành khác nhau sẽ giúp giảm chi phí sản xuất
cho các doanh nghiệp, đồng thời góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp này.
Giống như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng rất quan tâm thúc đẩy mối liên kết
ngược giữa các doanh nghiệp hỗ trợ dệt may vừa và nhỏ với các doanh
nghiệp dệt may lớn, đồng thời coi đó là nền tảng cơ bản để phát triển các
DNVVN trong lĩnh vực CNHT dệt may trong dài hạn. Hàn Quốc đã áp dụng

một chính sách từ trên xuống, lựa chọn một số công ty lớn làm nhân tố chủ
chốt và yêu cầu họ mua nguyên phụ liệu từ các DNVVN được ưu tiên phát
triển.
-Liênkết ngang:Là hìnhthức
liênkếtgiữacácdoanhnghiệpsảnxuấtvảivớinhau,tạothànhcáckhucôngnghiệp,c
áctrungtâmdệtvải.Hìnhthứcliênkếtchuyênmôn hóatheo chiềungang đã
pháthuy hiệuquảở Trung
Quốc.Hìnhthứcchuyênmônhóatheochiềungang đãdẫnđếnviệccơcấuvàphânbố
lạilựclượngsảnxuấttheovùng. Liênkếtngangở Trung Quốc
đãmanglạicáclợiích:
+Pháthuylợithế củakinhtếvùng;
+Cáccôngtysẽ hỗ trợlẫn nhauvề khoahọc kỹthuậtvà tổ chức
sảnxuất,cáccôngtylớncòngiúp đỡ cáccôngtynhỏvềtiêuthụsảnphẩm;
+Cáccôngtytậptrungchuyênsâuvàomột loạisảnphẩm,từ đócó điềukiệnnâng
caochấtlượng sảnphẩmvàtránhtrùnglặpsảnphẩmgiữacáccôngty.
Hình thức liên kết ngang đã mang lại nhiều thành công cho ngành công
nghiệp dệt nói riêng và cả quá trình công nghiệp hóa ở Trung Quốc nói
chung. Bên cạnh giá nhân công và nguyên liệu rẻ, sự hỗ trợ của các nhà máy
sản xuất nguyên phụ liệu trong nước chính là các yếu tố quan trọng làm nên
thành công của dệt may Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc có hàng ngàn
DNVVN, thậm chí có những xí nghiệp quy mô rất nhỏ cung cấp các sản phẩm
hỗ trợ cho ngành dệt may. Trung Quốc đã sản xuất được trên 80 % nguyên
phụ liệu cho ngành này. Điều này là lợi thế hơn hẳn của Trung Quốc so với
các nước có lợi thế tương tự về lao động, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng như Nhật Bản hay Hàn Quốc đều chú trọng tăng
cường liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ
dệt may nội địa với các doanh nghiệp có vốn FDI . Việc liên kết giữa các
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ dệt may có vốn FDI với các doanh
nghiệp cùng ngành trong nước sẽ giúp khai thác công nghệ, kinh nghiệm
quản lý của các doanh nghiệp FDI. Liên kết giữa các nhà cung cấp nội địa với

doanh nghiệp dệt may nước ngoài, đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia và
xuyên quốc gia tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước chen chân
được vào hệ thống sản xuất của các tập đoàn này.
Tóm lại, thực tế phát triển tại các nước có nền CNHT mạnh trong khu vực
như Nhật Bản, Trung Quốc, hay Hoàn Quốc cho thấy chỉ khi xây dựng các
quan hệ liên kết kinh tế chặt chẽ và thông suốt thì CNHT dệt may mới có thể
phát triển tốt được.
5. Thu hút vốnđầu tư nướcngoài, thúc đẩy buôn bán vàtạo điều
kiệnkhuyếnkhíchxuất khẩu
Một trong những yếu tố có đóng góp và thúc đẩy to lớn cho sự phát triển của
CNHT dệt may ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, đặc biệt là ở Châu
Á là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bởi lẽ ngành dệt may là
ngành mà các nước Châu Á đang phát triển có khá nhiều lợi thế so sánh cũng
như những lợi thế cạnh tranh dựa trên truyền thống phát triển ngành dệt
may lâu đời, lao động dồi dào, rẻ và chăm chỉ nên tính hấp dẫn của ngành
này đối với FDI dường như là một yếu tố hết sức tự nhiên hay tất yếu.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy ngay từ đầu cần phải có chính sách
rõ ràng trong việc thu hút FDI vào phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo
môi trường đầu tư thông thoáng, kết hợp ưu đãi với các chính sách xúc tiến
đầu tư.
Sau khi mở cửa nền kinh tế và thực hiện các chính sách nhằm vào nông thôn
thì bước tiếp theo mà Trung Quốc thực hiện là thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài và thúc đẩy xuất khẩu. Việc làm đầu tiên là thành lập thử nghiệm bốn
đặc khu kinh tế, với mục đích thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
của nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện để xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt
là các nước phương Tây. Để thu hút FDI, Trung Quốc đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi trong các đặc khu kinh tế về cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế, thủ tục
hải quan, v.v…
Bên cạnh đó, để khuyến khích việc trao đổi buôn bán, Trung Quốc đã thực
hiện giảm sự độc quyền của Chính phủ đối với ngoại thương, thực hiện các

biện pháp khuyến khích xuất khẩu như lập các ngân hàng tín dụng có lãi suất
ưu đãi, có các điều kiện phù hợp cho phát triển thương mại quốc tế. Với các
chính sách trên đã làm tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng từ 80
tỷ USD năm 1990 lên 135 tỷ USD năm 1994; tính đến năm 2006 chỉ tính riêng
xuất khẩu hàng dệt may là 174 tỷ USD, và mục tiêu đạt 20 tỷ USD tới năm
2015 (Tống Duy, 2009).
ĐốivớiHànQuốc,khuyếnkhíchxuấtkhẩu đượccoilà định
hướngcơbảncủaChínhphủHànQuốctrongphát triểnkinhtế.Vớibấtlợithếsovớic
ácnướckháclà
phảinhậpkhẩulươngthựcvànguyênliệuchocôngnghiệpbắtbuộcHànQuốcphảit
ạoranguồnngoạitệcầnthiết,điềunày đượcgiảiquyếtthôngqua
chínhsáchkhuyếnkhíchthúc đẩyxuấtkhẩu,trongđóxuấtkhẩumaymặc đóngvait
ròquantrọng.
Kinhnghiệmcủacácnước nói trên cũnglàbàihọccho các nước đi
sautrongviệcxâydựng cáckhucông nghiệpdệt vải,vớicác điềukiệnthuậnlợi
vềcơ sởhạtầngđườngxá,thoátnước,hệthốngnướcsạnhvàxửlýnước đúngtiêuch
uẩn,cácchế độquy địnhvềlaođộng đảmbảonângcaochấtlượngsảnphẩm đồngt
hờicũngtạocácđiềukiệnvềthủtụchảiquan,thủtụchànhchínhnhằmthuhútvốn đầ
utưnướcngoài, tiếpcậncôngnghệmớivà trình độ quảnlýtiêntiến.
6. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
DNVVN chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế hiện đại ở rất nhiều
quốc gia trên thế giới. Do những đặc thù của mình, có thể nói khu vực này
khá thích ứng với CNHT nói chung và dệt may nói riêng như:
• Nhờ quy mô vốn và lao động không quá cồng kềnh DNVVN có được khả
năng linh hoạt trong việc bố trí sản xuất, lựa chọn và thay đổi chủng
loại và mẫu mã sản phẩm.
• Các DNVVN thường hay có những phát kiến cải tiến kỹ thuật rất đa
dạng và hợp lý để tận dụng tối đa và thậm chí nâng cao hiệu năng của
các loại công nghệ họ có trong tay, phù hợp với điều kiện của doanh
nghiệp mình.

Tuy nhiên, DNVVN thường gặp những hạn chế nhất định về vốn, công
nghệ sản xuất, nguồn nhân lực đòi hỏi Chính phủ các nước cần có những cơ
chế, chính sách hỗ trợ để phát triển khu vực này theo đúng hướng. Vì vậy,
Chính phủ nhiều nước rất quan tâm đến việc khuyến khích phát triển khu vực
này trong lĩnh vực CNHT dệt may. Các hoạt động hỗ trợ tập trung vào những
điểm yếu của DNVVN như hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về phát triển công nghệ,
về đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tư vấn quản lý, v.v…
Nhật Bản là một trong số các quốc gia có nền công nghiệp dệt may phát triển
nhất châu Á và trên thế giới với hàng nghìn các doanh nghiệp vệ tinh khác
sản xuất các loại nguyên phụ liệu hỗ trợ. Hiện ở Nhật Bản có nhiều tên tuổi
tầm cỡ thế giới nhưng các công ty này chỉ chiếm 1% số lượng doanh nghiệp
và công việc chủ yếu của họ là sản xuất các sản phẩm may mặc cuối cùng, còn
trên 95% doanh nghiệp cấp thấp hơn sản xuất các nguyên phụ liệu cho các
công ty này là các DNVVN. Chính phủ Nhật Bản có nhiều chính sách tích cực
nhằm hỗ trợ cho các DNVVN trong CNHT dệt may, luôn quan tâm đến những
doanh nghiệp này và đánh giá rất cao vai trò của họ trong việc thúc đẩy
ngành CNHT dệt may phát triển. Vào những năm 1940, Chính phủ Nhật đã
ban hành Luật hợp tác giữa các DNVVN với các thành phần khác, có hiệu lực
năm 1949, nhằm tăng cường vị thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị
trường cũng như tạo điều kiện để họ tiếp cận những công nghệ mới và nguồn
vốn vay ưu đãi. Từ năm 1936, Nhật Bản đã có ngân hàng Shoko Chukin đầu
tư vốn cho DNVVN, và đến năm 1949 đã có quỹ đầu tư vốn cho doanh nghiệp
loại này. Chỉ mất 3 ngày, DNVVN có thể vay được vốn từ Chính phủ. Ngoài ra,
Chính phủ Nhật Bản còn thành lập những đơn vị bảo lãnh tín dụng có khả
năng bảo lãnh cho DNVVN khi họ vay vốn từ các doanh nghiệp tư nhân khác
(Ratana, 1999).
Bên cạnh những hỗ trợ về tài chính, DNVVN rất cần đến sự hỗ trợ về công
nghệ. Ở Nhật Bản có tới 110 trung tâm hỗ trợ máy móc thiết bị để giúp đỡ
các công ty nhỏ với khả năng tài chính có hạn có thể tiếp cận với máy móc
thiết bị mới. Ngoài ra Chính phủ Nhật Bản còn xây dựng 47 trung tâm hỗ trợ

công nghệ. Nhật Bản còn quan tâm tới việc xúc tiến các liên kết giữa các nhà
cung cấp nguyên phụ liệu, thường là các doanh nghiệp nhỏ với các công ty
lớn bằng việc thiết lập cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ dệt may. Các địa
phương đều có cơ sở dữ liệu riêng với sự tham gia của các quan chức chính
quyền, các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu. Các cơ sở dữ liệu này có chất
lượng cao cung cấp thông tin chi tiết về các nhà cung cấp và rất dễ tiếp cận
(Ratana, 1999).
Trong việc hỗ trợ DNVVN, có một điểm đáng chú ý là các DNVVN rất cần
những định hướng và những quy định tạo khuôn khổ hoạt động cho họ từ
Chính phủ. Ví dụ, Nhật Bản xây dựng tiêu chuẩn 5S đối với các doanh nghiệp
sản xuất trong ngành CNHT, chủ yếu là các DNVVN. 5S bắt nguồn từ 5 chữ
tiếng Nhật là Seiri (Sắp xếp, bố trí), Seiton (Hệ thống), Seisou (Đồng nhất),
Seiketsu (Sạch sẽ) và Shituke (Giáo dục). Việc thực hiện nghiêm túc các tiêu
chuẩn này tạo hiệu quả đáng kể trong hoạt động của các doanh nghiệp, giúp
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Một kinh nghiệm nữa được đúc kết từ thực tiễn các nước trong khu vực là
các hoạt động hỗ trợ nên được xây dựng thành các chương trình. Những
chương trình như thế thường có ngân sách rõ ràng, mục tiêu cụ thể giúp cho
việc quản lý theo phương pháp hậu kiểm được thuận lợi và mang lại hiệu
quả. Ví dụ, Hàn Quốc đã từng thành công trong việc khuyến khích DNVVN
hoạt động trong lĩnh vực CNHT dệt may nhờ các chương trình 5 năm về qui
định tỷ lệ nội địa hoá, hay các chương trình hỗ trợ phát triển các nhà cung
cấp nguyên phụ liệu, chương trình liên kết hỗ trợ công nghiệp (ILP –
Industrial Link Program), chương trình phát triển kỹ thuật (TDP –
Technology Development Program), tổ chức hội chợ các nhà cung cấp nguyên
phụ liệu và các hội chợ công nghiệp, v.v…
Bên cạnh đó, cần coi trọng việc tạo dựng và phát triển thị trường đầu ra cho
các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT dệt may. Tuy nhiên cách thức tạo
dựng thị trường đầu ra có những sự khác biệt đáng kể trong các nước được
nghiên cứu. Trung Quốc thì đặc biệt coi trọng việc phát triển thị trường cho

các DNVVN trong nước thông qua phát triển các mạng lưới phân phối nội
địa, tạo thị trường lớn cho các sản phẩm của doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
chung và doanh nghiệp CNHT dệt may nói riêng. Sự khác biệt của Trung Quốc
là dựa trên những đặc trưng và lợi thế mà chỉ riêng Trung Quốc có được đó
là sức mạnh truyền thống của các mạng lưới liên kết và phân phối trong văn
hóa Trung Hoa cũng như quy mô thị trường nội địa khổng lồ của nước này
khiến cho việc phát triển ngành CNHT dệt may có đủ điều kiện phát triển
ngay cả trong trường hợp không kết nối với các mạng sản xuất nước ngoài.
7. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNHT dệt
may
Nhân tố được coi là quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành
CNHT nói chung và CNHT dệt may nói riêng là nguồn lao động có kỹ năng
cao. Theo quan điểm của hầu hết các doanh nghiệp Nhật Bản thì nguồn nhân
lực còn quan trọng hơn nhiều máy móc hiện đại. Kinh nghiệm Nhật Bản cho
thấy phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao cần sự phối hợp của cả doanh
nghiệp trong và ngoài nước, các cơ sở đào tạo. Chẳng hạn chương trình liên
kết học đường - doanh nghiệp của Nhật Bản, trong đó Nhà nước đóng vai trò
cung cấp cơ sở hạ tầng và thông tin thông qua các hạt nhân sáng tạo
(Creation Core). Hiện nay, trên toàn nước Nhật Bản đã có 5 hạt nhân sáng
tạo cấp quốc gia và 41 hạt nhân sáng tạo cấp tỉnh. Những hạt nhân này hoạt
động với tư cách cầu nối giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp, đặc
biệt là các DNVVN. Nhờ đó, các cơ sở đào tạo có được mối liên hệ thường
xuyên với cộng đồng doanh nghiệp, nắm rõ thực tiễn để cung cấp nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Điểm mạnh chung trong ngành dệt may và CNHT dệt may Trung Quốc là lực
lượng lao động dồi dào, đội ngũ nhân viên kỹ thuật giỏi, lực lượng lao động
chính qui và có khả năng tận dụng trang thiết bị, máy móc tạo ra những sản
phẩm mới, chất lượng cao. Ngoài ra, một trong những lợi thế lớn nhất của
ngành dệt may, CNHT dệt may Trung Quốc là chi phí nhân công rẻ. Năm
2005, mức lương trung bình của lao động ngành này chỉ là 40 cent/h, bằng

1/3 mức lương lao động ngành dệt may ở Mexico. Nhờ chiến lược phát triển
qui mô ở phạm vi rộng, máy móc thiết bị hiện đại giúp nâng cao năng suất
lao động, hàng dệt may Trung Quốc có giá thành sản xuất rất thấp. Trong số
những quốc gia xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Mỹ, thì giá hàng
may mặc xuất khẩu của Trung Quốc có thể nói là thấp nhất, chỉ cao hơn giá
xuất khẩu hàng may mặc của Bangladesh, thấp hơn giá xuất khẩu hàng may
mặc trung bình của thế giới và thậm chí còn thấp hơn giá XK từ một số nước
kém phát triển hơn trong khu vực như Việt Nam, Philippines, v.v
Tóm lại, quá trình phát triển ngành CNHT dệt may của NhậtBản,
TrungQuốc,và HànQuốc đã đạt được những thành tựu nhất định, đưa các
doanh nghiệp trong nước kết nối được vào mạng sản xuất dệt may toàn cầu,
và tạo giá trị gia tăng tốt hơn. Các nước đi sau nói chung và Việt Nam nói
riêng cần tận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước trên cơ sở có chọn lọc,
phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nước mình
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Văn Châu (chủ biên) (2009), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ - Kinh
nghiệm của Nhật Bản và một số nước Châu Á”, Trường Đại học Ngoại
Thương, Hà Nội.
1. Hoàng Văn Châu (chủ biên) (2010), “Công nghiệp hỗ trợ - Kinh nghiệm
từ các nước và giải pháp cho Việt Nam”, Nhà xuất bản Thông tin và
truyền thông.
2. Tống Duy (2008), Năm 2009 dệt may của Trung Quốc và ngành công
nghiệp dệt may bước vào một giai đoạn điều chỉnh chiến lược,
truy cập 15/04/2011.
3. Đinh Phi Hồ (2008), Giáo trình kinh tế phát triển, Nhà xuất bản thống
kê.
4. Đỗ Thị Loan (2008), Đẩy mạnh việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
(global value chain – GVC) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
5. Võ Đại Lược (2010), Sự bứt phá của Hàn Quốc và vài suy nghĩ về Việt

Nam, Báo tuổi trẻ thủ đô, ngày 27/8/2010.
6. Tổng cục Thống kê Trung Quốc (2004-2009), Số liệu tình hình xuất
nhập khẩu dệt may Trung Quốc.
7. Thống kêThương mại WTO (2006-2009), Tổng quan về ngành dệt may
Trung Quốc.
8. Ratana E. (1999) The role of small and medium supprting industries in
Japan and Thailand, IDE APEC.
9. Ryuichiro Inoue and Shigeru Itoga (1998), Future prospect of
supporting industries in Thailand and Malaysia, Japan.
10.Suzuky, S. (2006). Kankoku, buhin-sozai sangyou wo ikusei (Hàn Quốc,
thúc đẩy cộng nghiệp linh phụ kiện và nguyên liệu). Nihon Keizai
Shinbun.
11.Terence P.Steward (2007), China’s support programs for selected
industries: Textile and apparel, The Trade Lawyers Advisory Group,
USA
12.Bộ Thương mại Trung Quốc,

×