Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNGCHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG TRẺ TRONG TRƯỜNG MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.38 KB, 19 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG TRẺ TRONG TRƯỜNG MẦM NON
PHÂN THỨ NHÂT: PHÂN MỞ ĐÂU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
nó giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và đào
tạo thế hệ trẻ, giáo dục mầm non là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách trẻ em.
Như Bác Hồ đã nỏi: “Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Muốn cho con người phát triển toàn diện thì điều đầu tiên phải nói đến sức
khoẻ, sức khoẻ là vốn quí nhất của con người mới tham gia vào các hoạt động
như học tập, lao động, giao tiếp.
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay
nhiều công trình đã chứng minh rằng “Chăm sóc nuôi dưỡng” là một nhu cầu
cần thiết đối với con người, nhất là đối với trẻ. Sự thành công trong học tập và
công việc của các em sau này phụ thuộc vào sự chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở
trường mầm non và gia đình cũng như xã hội.
Ông cha ta thường nói “Có thực mới vực được đạo” con người ta nếu
được chăm sóc nuôi dưỡng, dạy dỗ trẻ đầy đủ, hợp lý ngày từ khi trẻ mới cất
tiếng khóc chào đời thì bao giờ trẻ cũng nhanh nhẹn, hoạt bát, thân thể khoẻ
mạnh, cường tráng, học tập thông minh, lao động hăng say tích cực, dễ dàng hoà
mình vào cộng động và thiết lập mối quan hệ với mọi người xung quanh. Ngược
lại nếu vì một cháu chăm sóc chế độ ăn uống mà không tốt thì ảnh hưởng rất lớn
đến sức khoẻ và trí tuệ của trẻ, trẻ phát triển một cách hạn chế.
Như chúng ta đã biết theo xu hướng phát triển của thời đại cả nước đang
xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biết là nền khoa học công
nghệ, khoa học thông tin đang nhảy vọt thúc đẩy nên kinh tế trí thức để đáp ứng
với nhu cầp và xu thế phát triển của đất nước. Trong những năm gần đây Đảng
và Nhà nước rất quan tâm đến giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Trung ương II
khoá VIII của Đảng đã khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho


giáo dục là đầu tư cho sự phát triển” mục tiêu của giáo dục mầm non là chăm sóc
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ vì trẻ là hạnh phúc của gia đình là tương lai của đất
nước là lớp người kế tục và xây dựng đất nước. Với lứa tuổi này vốn có một tiềm
lực phát triển mạnh mẽ nếu được chăm sóc nuôi dưỡng tốt tạo điều kiện cho trẻ
phát triển cả về thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ, đạo đức, tình cảm một cách đúng
hướng. Đó là giai đoạn rất quan trọng trong sự hình thành nhân cách cho trẻ.
Vì ở độ tuổi mầm non việc chăm sóc nuôi dưỡng có một tầm quan trọng
đặc biệt, nó tạo điều kiện về thể chất cho sự phát triển toàn diện của trẻ không
1
những trước mắt mà còn sau này, để đảm bảo sức khoẻ tốt cần chú ý đến khâu
nuôi dưỡng, vì dinh dưỡng và sức khoẻ ngày nay được trở thành môi quan tâm
hàng đầu của mọi người, mọi nhà. Chính vì dinh dưỡng hợp lý đã và đang nâng
cao chất lượng cho cuộc sống con người nói chung và trẻ em nói riêng. Trong
công tác nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non trong cả nước vẫn còn một số hạn
chế như tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn cao, một số trẻ mắc một số bệnh thường
gặp. Đó là do chăm sóc nuôi dưỡng không đúng cách. điều này đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của giáo viên cấp dưỡng. Đặc biết là năng lực quản lý trong công tác
nuôi dưỡng. Song thực tế ở các trường mầm non vùng nông thôn việc tổ chức
cho trẻ ăn ngủ tại trường còn gặp nhiều khó khăn.
Ý thức được điều đó, là một cán bộ quản lý phải làm thế nào để quản lý
công tác nuôi dưỡng trẻ được tốt hơn và kịp thời khắc phục những khó khăn còn
tồn tại đó là nguyện vọng tha thiết để xây đắp với ngành giáo dục trong việc hình
thành và phát triển toàn diện cho trẻ trong cả nước và trong địa phương nói
riêng. Để nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non. Từ
những lý do trên mà tôi chon đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non” để nghiên cứu nhằm góp phần
giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng và trẻ thấp còi xuống mức thấp nhất.
2. Mục đích của đề tài:
Mục đích của đề tài là nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại
trường Mầm non Quảng Tâm đạt kết quả cao và phát triển toàn diện về mọi mặt.

Giúp cho đội ngũ cán bộ giáo viên nâng cao kiến thức dinh dưỡng và công
tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non đạt kết quả cao hơn.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng
1.1. Cơ sở lý luận:
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của mọi
người, mọi nhà và toàn xã hội, mọi trẻ em đều có quyền được chăm sóc nuôi
dưỡng và được học tập một cách bình đẳng không phụ thuộc hoàn cảnh riêng về
gia đình, dân tộc, địa phương. Đó không những là mục tiêu của cách mạng mà
còn là ước mơ tha thiết của những người làm cha làm mẹ, vì trẻ em là niềm hạnh
phúc của mọi gia đình, là tương lai của mọi dân tộc.
Bác Hồ đã nói: “Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
Song để cho trẻ ăn, ngủ, học hành như thế nào cho khoa học là cả một quá
trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục cả gia đình, nhà trường và của toàn xã
hội mà chiếc nôi đầu tiên của trẻ là gia đình, môi trường đầu tiên trẻ tiếp xúc là
trường mầm non. Vì vậy người giáo viên mầm non vừa là người mẹ thứ hai của
trẻ vừa là người nuôi trẻ, chăm sóc trẻ.
2
Việc chăm sóc giáo dục trẻ là một vấn đề rất quan trọng trong xã hội
chúng ta. Sức khoẻ của trẻ có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ. phát
triển đầy đủ về các mặt giúp trẻ thông minh, nhanh nhẹn trong hoạt động hàng
ngày.
Cơ thể con người có thể tồn tại hoạt động và phát triển được là nhờ ta đưa
vào cơ thể các chất dinh dưỡng vì thế mà cơ thể trẻ đòi hỏi được cung cấp hàng
ngày đầy đủ năng lượng và các chất cần thiết ở mỗi thời kỳ khác nhau, trẻ có
những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau nên đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng khác
nhau.
Trước kia có người từng quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” theo quan
niệm này thì việc đứa trẻ sinh ra và lớn lên theo một cách tự nhiên theo năm

tháng miễn là cho trẻ ăn để nó lớn, còn ăn như thế nào? có phu hợp với nhu cầu
dinh dưỡng của cơ thể hay không? có đảm bảo thành phần dinh dưỡng của các
chất và cân đối hợp lý khẩu phần ăn hay không thì không cần biết.
Nhưng ngày nay điều kiện kinh tế, xã hội, khoa học ngày càng phát triển,
trình độ dân trí ngày càng cao. Vấn đề dinh dưỡng đối với con người là hết sức
cần thiết. Dinh dưỡng đối với con người là cả một công trình khoa học đã được
nhiều nhà dinh dưỡng học trong nước và trên thế giới nghiên cứu. Đặc biệt là đối
với trẻ lứa tuổi mầm non, không phải chỉ cho trẻ ăn no là đủ mà phải cho trẻ ăn
đủ chất, đủ lượng, cân đối, hợp vệ sinh có như vậy thì trẻ mới có đủ sức khoẻ tốt,
cơ thể mới phát triển hài hoà, cân đối là nền tảng để trẻ phát triển toàn diện cả về
thể chất và trí tuệ.
Bởi vì trẻ nhỏ dễ mắc các bệnh như bệnh đường ruột, hô hấp, còi xương
ở trẻ bộ máy tiêu hoá phát triển chưa hoàn thiện nên chăm sóc không đúng khoa
học sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng. Việc phòng chống để giảm tỷ l ệ trẻ suy dinh
dưỡng trong toàn cộng đồng đặc biệt là đối với trẻ trong trường mầm non nói
riêng và trẻ em trong toàn xã hội nói chung là mục tiêu hàng đầu của ngành giáo
dục.
Muốn giảm được tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường mầm non thì đầu
tiên phải nói đến việc tổ chức cho trẻ ăn, ngủ tại trường mầm non đầy đủ chế độ
theo từng độ tuổi.
Muốn thực hiện những mục tiêu trên trường mầm non ngoài nhiệm vụ
giáo dục thì nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng là khâu then chốt. Trẻ đến trường
mầm non được chăm sóc nuôi dưỡng theo khoa học phù hợp với sự phát triển
tâm sinh lý của trẻ qua từng giai đoạn để giúp cơ thể phát triển tốt cả về thể chất,
trí tuệ, hành vi văn minh, những thói quen ban đầu. Trẻ tham gia vào các hoạt
động tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, phát triển trí thông minh, năng lực
hoạt động trí tuệ, nhận thức thế giới xung quanh mình một cách đầy đủ hơn,
hoàn thiện hơn từ đó trẻ biết yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp, thái
3
độ hành vi đúng đắn của trẻ giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách toàn

diện.
Nếu cho trẻ ăn thiếu chất hoặc thừa chất đều là những mầm mống gây
bệnh tật cho trẻ. Nếu thiếu chất trẻ sẽ bị suy dinh dưỡng, có thể còi xương, dễ
mắc bệnh nhiễm khuẩn. Nếu trẻ ăn thừa chất trẻ sẽ bị béo phí và mắc một số
bệnh về tim mạch rất nguy hiểm cho trẻ. Vì vậy nuôi dưỡng trẻ theo khoa học là
việc làm hết sức cần thiết chiếm một vị trí vô cùng quan trọng đứng vị trí hàng
đầu trong trường mầm non. Đo đó người phụ trách chỉ đạo chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ tại trường mầm non cần phải nắm vững các đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu
dinh dưỡng cần thiết của trẻ trong một ngày để có biện pháp chỉ đạo thực hiện
tốt nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng nhằm giúp trẻ khoẻ mạnh nhanh nhẹn, cơ thể
phát triển hài hoà, cân đối góp phần giáo dục trẻ thành con người phát triển toàn
diện có ích cho xã hội.
1.2. Thực trạng:
• Vài nét về địa phương:
Xã Quảng Tâm nằm phía đông bắc huyện Quảng Xương là một xã đất
chật người đông, địa phương có nhiều cơ quan, trường học đóng trên địa bàn nên
có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn
thể luôn quan tâm đến công tác xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện tốt cho giáo
dục xã nhà phát triển.
• Tình hình nhà trường:
Trường Mầm non Quảng Tâm có bề dầy trong việc chăm sóc giáo dục trẻ,
ban giám hiệu và đội ngũ giáo viên luôn tiếp cận với chương trình giáo dục mầm
non mới, không ngừng phần đấu để từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ, đã gây được uy tín và niềm tin đối với các cấp lãnh đạo địa phương,
các bậc cha mẹ và cộng đồng, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được tăng lên rõ
rệt hầu hết trẻ đến trường đã có được nề nếp thói quen trong giờ ăn, giờ ngủ, giờ
học, giờ chơi. Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nhà trường quan tâm và
thường xuyên cải tạo các món ăn đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ tại trường.
Nhà trường luôn luôn đạt trường tiên tiến cấp huyện, cấp tỉnh. Đặc biệt
năm học 2008 – 2009 trưởng được Bộ Giáo dục & Đào tạo tặng bằng khen.

Năm học 2009 – 2010 được Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá tặng Bằng
khen.
Năm học 2010 – 2011 tổng số trẻ đến trương: 432
Toàn trường có 15 nhóm lớp:
Trong đó: Nhà trẻ 3 nhóm từ 18 – 36 tháng tuổi 74 trẻ
Lớp mẫu giáo từ 3 – 6 tuổi là 12 lớp: 358 trẻ
Năm học 2009 2010 công tác nuôi dưỡng bán trú chỉ đạt được 315/400 trẻ
đạt 78.8%.
• Thuân lợi:
4
Được sự quan tâm của Đảng, chính quyền, Sở Giáo dục&Đạo tạo, phòng
Giáo dục & Đào tạo huyện Quảng Xưởng, sự quan tâm tạo điều kiện của các tổ
chức đoàn thể và nhân dân địa phương nhà trường đã đạt chuẩn quốc gia mức
độ I.
Nhà trường có qui mô rộng rãi thoàng mát, môi trường xanh, sạch, đẹp cơ
sở vật chất trang thiết bị phục vụ chuyên môn và công tác nuôi dưỡng tương đối
đầy đủ như bếp một chiều, có hệ thống nước sạch, có vuờn rau sạch phục vụ trẻ
ăn bán trú tại trường.
Trình độ chuyên môn của cán bộ giáo viên 100% đạt chuẩn và trên chuẩn,
đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ, nhiệt tình, năng lực chuyên môn vững vàng, nhận
thức được tầm quan trọng trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Nhà trường đã có hai giáo viên có bằng trung cấp dinh dưỡng trẻ em nên
thuận lợi cho hoạt động nuôi dưỡng trẻ.
• Khó khăn:
Ngoài những thuận lợi trên nhà trường còn gặp không ít khó khăn:
Trang thiết bị phục vụ cho công tác bán trú còn hạn chế chưa đồng bộ
Điều kiện kinh tế của một số gia đình phụ huynh học sinh còn khó khăn do
đó huy động trẻ ăn bán trú tại trường còn nhiều bất cập.
Bên cạnh còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc chăm sóc
nuôi dưỡng theo khoa học của con mình ở gia đình cũng như nhà trường.

Kêt quả khảo sát :
Năm học
Nội dung
Năm học
2008- 2009
Năm học
2009- 2010
1. Chất lượng chăm sóc
Tổng số trẻ đến trường 386 400
Tổng số trẻ ăn bán trú 232 = 60,1% 315 = 78,8%
Bé chăm 350 = 90,7% 365 = 91,3%
Bé ngoan 345 = 89,4% 362 = 90,5%
Bé sạch 365 = 94,6% 380 = 95%
2. chất lượng nuôi dưỡng
Trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất 195/232 = 845% 280/315 = 88,8%
Trẻ ăn chưa ngon miệng, chưa hết suất 37/232 – 16% 35/315 = 11,2%
Trẻ biết rửa tay trước khi ăn, sau khi đi
vệ sinh bằng xà phòng .
305/386 = 79% 334/400= 83,5%
Trẻ có nề nếp thói quen trong giờ ăn,ngủ. 298/386 = 77,2% 317/400= 79,3%
Trẻ phát triển bình thường 320/386= 82,9% 360/400= 90%
Trẻ suy dinh dưỡng 65/386= 17,1% 40/400= 10%
Trẻ thấp còi 68/386= 17,9% 45/400= 11,3%
5
Từ thực trạng chẩt lượng đội ngũ giáo viên, nhân viên cũng như chất
lượng chăm sóc nuôi dưỡng tôi đã không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu, học
hỏi đồng nghiệp, nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để nâng cao chất lương
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống thấp
nhất.
2. Những giải pháp thực hiện

Ngày nay đất nước chúng ta đã và đang trên đà phát triển, trẻ em ngày nay
càng được quan tâm nhiều hơn trong giáo dục sức khoẻ và đặc biệt là dinh
dưỡng. Để trẻ phát triển tốt về mặt thể chất và trí tụê chúng ta cần phải quan tâm
đặc biệt đến chế độ dinh dưỡng trong từng khẩu phần ăn của trẻ ngay từ nhỏ.
Việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng cung cấp cho trẻ ở trường mầm non vùng nông
thôn gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng đảm bảo cho trẻ ăn bán trú phát triển tốt và
đảm bảo an toàn càng khó hơn. Vì vậy mọi cán bộ giáo viên trong nhà trường
phải nêu cao tinh thần trách nhiệm không ngừng nâng cao khiến thức vệ sinh an
toàn thực phẩm và công tác nuôi dưỡng cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Để thực
hiện tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ bản thân đã áp dụng một số biện pháp
sau:
2.1. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ giáo viên:
Như chúng ta đã biết muốn có trò giỏi thỉ trước tiên phải có thầy giỏi,
muốn cho trẻ em khoẻ mạnh thì mọi giáo viên phải có kiến thức khoa học trong
việc chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Vì vậy việc bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ kiến thức khoa học trong việc chế biến các món ăn hợp khẩu vị, đủ
chất dinh dưỡng, hợp vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ thông qua các lớp tập
huấn chuyên đề giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, mở hội thi “Bé
tập làm nội trợ”, hội nghị về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng, toạ đàm trao đổi
kinh nghiệm thao diễn kỹ thuật nuôi dưỡng tổ chức cho giáo viên học tập. Sắp
xếp thời gian cho giáo viên và nhân viên tham gia các lớp học bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, lớp học chuyên đề do Sở Giáo dục & Đào tạo, Phòng Giáo dục
&Đào tạo huyện triển khai về nội dung chăm sóc trẻ tại trường mầm non, chuyên
đề giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt bồi dưỡng kiến
thức chăm sóc nuôi dưỡng cho nhân viên tổ nhà bếp như cách chọn mua thực
phẩm, cách chế biến các món ăn cho trẻ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ban giám hiệu xay dựng kế hoạch hàng tháng bồi dưỡng cách chế biến
các món ăn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cách lựa chọn thực phẩm tươi
sống đúng hợp đồng, rẻ tiền trẻ ăn ngon miệng, hết xuất, cách lên thực đơn phù
hợp theo mùa và kinh tế địa phương,

Đối với giáo viên đứng lớp hình thành nề nếp thói trong ăn uống như ăn
chậm, nhai kỹ, ăn hết xuất đảm bảo vệ sinh an toàn, cách phòng và xử lý một số
bệnh thường gặp ở trẻ. Hình thành nề nếp thói quen vệ sinh trước và vệ sinh
trong giờ ăn, giờ ngủ, giờ học, giờ chơi cho trẻ.
6
Tổ chức xây dựng lớp điểm hình thành nề nếp thói quen cho trẻ trong ăn,
ngủ, vệ sinh trước và sau khi ăn, giờ học, giờ chơi, rửa tay bằng xà phòng cho
các lớp học tập và nhân ra đại trà. Ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra và xếp
loại thi đua hàng tháng.
2.2. Lấy chất lượng để huy động số lượng
Trẻ đến trường không phải chỉ cần học tập, vui chơi mà chính là phải
được chăm sóc nuôi dưỡng theo phương pháp khoa học, nghĩa là phải được tổ
chức tốt mọi hoạt đồng trong ngày từ giờ học, giờ chơi, giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh.
Cung cấp chất dinh dưỡng thông qua các bữa ăn hàng ngày của trẻ một
cách khoa học là việc làm cần thiết của các trường mầm non và các bậc phụ
huynh, các món ăn hàng ngày của trẻ phải đảm bảo vệ sinh, hợp khẩu vị, đầy đủ
các thàng phần dinh dưỡng. Vì vậy các trường mầm non phải tổ chức thật tốt các
bữa ăn cho trẻ đảm bảo đẩy đủ khẩu phần ăn trong ngày, chất lượng bữa ăn đảm
bảo năng lượng, tỉ lệ cân đối giữa các chất sinh năng lượng, thực phẩm và chế độ
ăn phù hợp với từng lứa tuổi.
Lượng dinh dưỡng trong ngày phải đảm bảo đối với trẻ nhà trẻ từ 12 - 36
tháng tuổi là 1.180 kcal/ngày ở trường mầm non cần đạt 708-826 kcal/ngày
(60% - 70% nhu cầu cả ngày) năng lượng cả ngày.
Đối với trẻ mẫu giáo từ 36-72 tháng tuổi là 1.470 kcal/ngày ở trường cần
đạt 735-882 kcal/ngày (50% -60% nhu cầu cả ngày)
Có đủ chất dinh dưỡng:
• Nhà trẻ tỷ lệ các chất cung cấp năng lượng:
- Protit cung cấp khoảng 12-15% năng lượng khẩu phần
- Lipít cung cấp khoảng 35-40% năng lượng khẩu phần
- Gluxit cung cấp khoảng 45-53 năng lượng khẩu phần

• Mẫu giáo tỷ lệ các chất cung cấp năng lượng:
- Protit cung cấp khoảng 12-15% năng lượng khẩu phần
- Lipít cung cấp khoảng 20-30% năng lượng khẩu phần
Gluxit cung cấp khoảng 55-68% năng lượng khẩu phần
• Qui định chế độ dinh dưỡng lứa tuổi 12-72 tháng tuổi: (nhu cầu dinh
dưỡng khuyến nghị dành cho người Việt Nam theo quyết định số2824/QĐ-
BYT ngày 30 tháng 7 năm 2007)
Để chỉ đạo tốt việc tổ chức bữa ăn cho trẻ trong việc nuôi dưỡng thì phải
nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ lứa tuổi
mầm non phát triển rất nhanh cả về thể lực và trí tuệ, nhưng bộ máy tiêu hoá,
chức năng tiêu hoá và hấp thụ của trẻ chưa hoàn chỉnh, các chức năng hoạt động
của các bộ phận khác trong cơ thể hoạt động còn yếu, khả năng miễn dịch của trẻ
đối với bệnh tật chưa cao. nên chúng ta phải chăm sóc trẻ phù hợp theo lứa tuổi,
thức ăn của trẻ phải ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, từ loãng đến đặc, từ bột
đến cháo, đến cơm nát, đến cơm thường phải cho trẻ ăn đúng giờ, đủ chất, đủ
7
lượng đảm bảo 50% thức ăn động vật và 50% thức ăn thực vật, thức ăn phải nấu
nhừ, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của từng độ tuổi, thức ăn của trẻ mềm, sạch,
an toàn, dễ tiêu hoá, để bữa ăn cho trẻ đủ chất cần chọn và phối hợp nhiều loại
thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, thức ăn
của trẻ trong một bữa cần phôi hợp 4 nhóm thực phẩm chất đạm, chất béo, chất
bột đường, chất vi ta min và muôi khoáng.
Trẻ ở độ tuổi mầm non là tuổi quan trọng để hình thành các tập quán, thói
quen về ăn uống, do đó cần phải tôn trọng các nguyên tắc cho trẻ ăn.
Vì nhu cầu ăn uống đối với trẻ ở độ tuổi mầm non rất quan trọng để phát
triển cơ thể khoẻ mạnh tôi đã xây dựng khẩu phẩn ăn báo cáo với đồng chí hiệu
trưởng duyệt xong rồi tổ chức họp phụ huynh thống nhất việc đóng góp tiền ăn
của trẻ mức ăn là 10.000đ/ngày/trẻ. Để khẩu phần ăn được cân đối và hợp lý,
đảm bảo đầy đủ năng lượng, đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết.
Xây dựng thực đơn một tuần mùa hè (nhóm cơm thường)

Thứ Bữa sáng chính Phụ xế Bữa chiều
2 Cá thu sốt cà chua
Canh thịt nạc, đậu phụ, cà chua
Sữa Hà Lan Cháo gà
3 Thịt, tôm rim cà chua
Canh tôm rau mùng tơi, hẹ là
Sữa đậu nành Phở bò
4 Thịt đúc trứng
Canh cua rau vặt
Chuối chín Cháo lươn
5 Thịt bò xào rau hỗn hợp
Muối lạc vừng,
Canh tôm rau mùng tơi
Sữa Hà Lan Cháo vịt
6 Chả thịt sốt cà chua
Canh tôm rau mùng tơi
sữa đậu nành Cháo thập cẩm
• Chất lượng bữa ăn:
Việc xây dựng thực đơn khẩu phần ăn cân đối, hợp lý rất quan trọng, nhà
trường áp dụng khoa học dinh dưỡng trong cơ cấu khẩu phần ăn các lứa tuổi nhà
trẻ, mẫu giáo, căn cứ vào bảng thực đơn để đi chợ “đặt hàng”, rồi chọn thực
phẩm theo mùa, phối hợp nhiều loại thực phẩm sẵn có của địa phương bổ sung
dầu, mỡ, đường, muối iốt để đủ chất cân đối hợp lý và phù hợp với tiền cha mẹ
trẻ đóng góp.
Việc xây dựng thực đơn khẩu phần ăn cân đối hợp lý giúp cho việc nuôi
trẻ phát triển tốt làm cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng và béo phì giảm
tỷ lệ thấp nhất. Hàng ngày các thức ăn được lưu mẫu theo qui định, ngoài ra nhà
trường còn kiểm tra thực phẩm khi mua về ghi vào sổ cập nhật tay ba có chữ ký
của ban giám hiệu, cô tiếp phẩm và cô chế biến món ăn, nhà trường còn lưu cả
thực phẩm sống để có thể xác định được nguyên nhân gây ngộ độc (nếu có).

8
Thực phẩm được hợp đồng với người bán ký cam kết thực phẩm phải tươi
sống đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhân viên nhà bếp phải có trình độ
dinh dưỡng, được khám sức khoẻ 2 lần/năm, được trang bị bảo hộ lao động khi
làm việc (quần áo, mũ, tạp dề, khẩu trang, găng tay ).
Vệ sinh hàng ngày đều xử lý rác thải, khơi thông cống rãnh, không để
nước đọng lại góc sân trường, ở các nhóm lớp lau chuì sạch sẽ hàng ngày và có
thùng đựng rác có nắp đậy cuối ngày gom rác vào nơi qui định của trường.
Tóm lại: Việc tổ chức cho trẻ ăn ngủ tại trường đảm bảo an toàn và hình
thành nề nếp trong ăn uống cho trẻ tốt thì rất thuận lợi cho việc huy động số
lượng trẻ ăn ngủ tại trường.
2.3. Chỉ đạo giáo viên nuôi dưỡng chế biến thực phẩm:
Chế biến thức ăn là khâu quan trọng giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất,
đủ khẩu phần về năng lượng và các chất dinh dưỡng, khi chế biến thực phẩm cần
đảm bảo phù hợp với đặc điểm sinh lý, phù hợp với độ tuổi và khả năng tiêu hoá
của trẻ (các cô nuôi cần nắm vững 10 nguyên tắc vàng để đảm bảo an toàn thực
phẩm và 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý).
• Yêu cầu đối với khâu mua thực phẩm:
Chọn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm, thực phẩm tươi, ngon khi chế biến thực phẩm cho trẻ nên phối hợp
nhiều loại thực phẩm để các loại thực phẩm bổ sung hỗ trợ lẫn nhau trong việc
tiêu hoá, hấp thụ giúp cho khẩu phẩn ăn của trẻ thêm hoàn chỉnh. Luôn thay đổi
cách chế biến món ăn, món ăn để trẻ ăn ngon miệng và ăn hết xuất, cùng một
loại thực phẩm có thể kho, rán, chưng, hấp, xào, hầm , sử dụng đủ thực phẩm
giàu vitamin A, giàu chất béo, nhất là về mùa đông.
Ví dụ: Cách chọn vịt tươi ngon: Chọn con trưởng thành và béo, mọc đủ
lông điểm mút của 2 cánh vừa đủ chéo vào nhau.
Thịt lợn tươi ngon mặt cắt của thịt có màu hồng sáng, bì mỏng, mềm mại,
độ đàn hồi tốt (lấy ngón tay ấn vào thịt, khi buông ra không để lại vết lõm ngón
tay), thịt cầm chắc tay, ráo, mỡ màu sáng có độ chắc, mùi vị bình thường.

Tôm tươi ngon: Tôm tươi vỏ có độ bóng sáng trong xanh, trơn láng, cứng
và dài.
Chọn trứng tươi ngon: Vỏ có một lớp màng mỏng, nổi lên những hạt
giống như bụi phấn (vỏ không bóng, cầm trứng soi vào đèn hoặc ánh sáng mặt
trời thấy lòng trắng, lòng đỏ không phân biệt được rõ ràng. Nếu thả xuống chậu
nước trứng tươi sẽ chìm, nằm ngang dưới đáy chậu.
Rau, quả tươi ngon sạch sẽ: Rau quả tươi ngon, sáng màu, không dập nát,
không úa vàng, không có sâu, nên chọn rau có màu xanh non hoặc xanh thẩm, củ
quả có màu vàng, đỏ để chế biến cho trẻ ăn.
Ngoài những qui định hợp đồng mua bán thực phẩm của nhà trường, cô
tiếp phẩm phải nắm thực hơn hàng ngày, chuẩn bị lựa chọn thực phẩm kiểm tra
9
giá chợ trước ngày đi chợ 2 ngày để đảm bảo chất lượng và đủ số lượng trẻ ăn
hoặc kịp thời thay thế thực phẩm không có trong thực đơn.
Cân, đo, đong, đếm tính giá cả theo số lượng nhận thực tế
Thực phẩm không đủ dinh dưỡng, kém chất lượng không nhận.
Giá cả thay đổi không đúng dự trù của thực đơn phải kịp thời báo cáo cho
phó hiệu trưởng phụ trách công tác nuôi dưỡng để điều chỉnh ngay.
Cô tiếp phẩm mua thực phẩm về phó hiệu trưởng phụ trách công tác nuôi
dưỡng phải kiểm tra, quyết toán ngay, thường xuyên theo dõi giá chợ, theo dõi
việc mua thực phẩm có đúng hợp đồng không, kiểm tra ghi vào sổ cập nhật tay
ba ban giám hiệu, cô tiếp phẩm, người chế biến thực phẩm, kiểm tra công tác
tiếp phẩm đảm bảo lịch sinh hoạt góp ý hàng tuần trong sổ nuôi, không để hiện
tượng tiêu cực trong công tác tiếp phẩm. Để đảm bảo sự uy tín của nhà trường
đối với mối hàng, phụ huynh học sinh và các cấp lãnh đạo.
Tóm lại: Lựa chọn thực phẩm cho trẻ phải sạch, tươi, ngon đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm, đảm bảo lượng dinh dưỡng.
• Yêu cầu đối với khâu chế biến thực phẩm:
Dụng cụ chế biến thực phẩm đảm bảo an toàn, có ký hiệu, dùng riêng cho
thực phẩm sống và thực phẩm chín (dao, thớt, rổ, rá, nồi, xoong ) các loại thực

phẩm rửa sạch rồi mới thái nhỏ, thái trên bàn sạch sẽ, dụng cụ chế biến thực
phẩm xong phải rửa ngay, tráng nước sôi, thực phẩm đi theo một chiều từ thực
phẩm sống, làm sạch, rửa, thái nhỏ, nấu chín, chia ăn.
Cách nấu và chế biến thực phẩm cần đảm bảo thức ăn còn đầy đủ các chất
dinh dưỡng, không để lại bệnh tật gì do ăn uống, đề phòng thức ăn bị ô nhiễm từ
giai đoạn thức ăn sống được nấu chín và đưa đến trẻ sử dụng.
• Một số nguyên tác chung:
Nấu để diệt các vi trùng gây bệnh, các vi trùng gây bệnh như trứng ký sinh
trùng (giun, sán ) đều bị tiêu diệt ở nhiệt độ 100
o
C,
Nấu còn giúp cho thức ăn dễ tiêu hoá, hấp thụ do làm biến đổi chất đạm,
do sự hút nước và nở của tinh bột sự phá huỷ màng tế bào, nhuyễn hoá các chất
keo, đồng thời với các ưu điểm trên trong quá trình nấu luôn gây những mất mát
các chất dinh dưỡng, cần hạn chế tối đa những sự hao hụt này.
Cách chế biến: Các cô nuôi phải biết cách chế biến các thực phẩm sao cho
thực phẩm phải ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, hấp dẫn, gây được sự thèm ăn
của trẻ, cụ thể như sau:
Cách nấu cơm:
Vo gạo để loại bớt các tạp chất, cát, sạn là cần thiết, tuy nhiên vo gạo cũng
làm thoát các chất dinh dưỡng B1 hao hụt từ 20-30%, chất đạm 25%. Chất béo
42,6%, chất bột đường 2%, muối khoáng có thể mất tới 70%.
Nấu cơm hạn chế tối đa mất B1: Vo gạo bằng rá trong chậu nước, nhặt
thóc, sạn, nước nấu sôi mới bỏ gạo vào, cho nước vừa đủ, không chắt nước cơm.
10
Cách chế biến rau:
Nhặt sạch rau, rửa nhẹ nhàng, rửa dưới vòi nước sạch, khi nào nấu mới
cắt rau và nấu liền, để lâu sẽ bị mất vitamin, khi nấu cho rau vào nước đã sôi
nêm muối, hao hụt sẽ ít hơn, tránh nấu lâu, nấu xong cho trẻ dùng ngay, nên cho
trẻ ăn cả rau lẫn nước. Nấu rau cùng với thịt, cá, mỡ giữ các vitamin tốt hơn, chế

biến đúng cách thì chỉ mất khoảng 59% vitamin C, 30% vitaminB1, 20% vitamin
B2, Nếu chế biến và nấu không đúng cách có thể mất hoàn toàn vitamin C.
Cách chế biến thịt, cá:
Thịt, cá rửa sạch, bỏ xương, xay nhỏ, ướp mắm, muối sau đó phi hành mỡ
thơm cho thịt, cá vào đảo đều vừa chín mềm, có mùi thơm ngọt cho trẻ ăn ngay.
Cô cấp dưỡng phải được tập huấn các lớp chế biến các món ăn cho trẻ,
nắm vững cách chế biến các món ăn của trẻ và thực hiện đúng 10 nguyên tắc
vàng để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ví dụ chế biến bữa phụ : Cháo thập cẩm:
Nguyên liệu cho 10 suất ăn
Gạo nếp, gạo tẻ: 500g, tôm: 100g, cua: 200g
Thịt lợn nạc vai: 100g, hành, mùi: 50g, cà rốt: 100g
Khoai tây: 200g, dầu thực vật: 100g
Mắm, muối; vừa đủ, nước sạch: 400ml
Cách làm:
Rau nhặt, rửa sạch, thái nhỏ,
Gạo vo, đãi sạn, thóc, để ráo nước
Tôm lột vỏ, bỏ đầu, bỏ chỉ đen trên lưng, thái nhỏ, ướp mắm, muối, hành
khô.
Phi thơm hành, dầu, cho tôm vào xào chín, nêm vừa mắm, nuối
Nước đong vừa đủ 1/3 để nấu chín, 2/3 để lọc cua
Cua ngâm nước, rửa sạch đất, bỏ mai, yếm miệng, để ráo nước, khều gạch
của ra bát, cho cua vào xay nhỏ, cho một ít muối, đổ nước lạnh vào bốp, lọc lấy
nước.
Đun sôi nước cua, thả hành khô đã nướng, đập dập vào, khi cái cua nổi,
đông chắc vớt cái cua ra bát, dầm nhỏ.
Phi thơm hành dầu, chưng gạch cua.
Thịt rửa sạch thái nhỏ, xay nhỏ, ướp mắm muối chừng 15 phát, sau đó phi
thơm hành dầu, cho thịt vào xào chín.
Cà rốt tươi, ngon, khoai tây gọt vỏ, rửa sạch, thái hạt lựu, bỏ vào nồi đun

sôi, sau đó cho giạo vào, khi hạt gạo nở làm đôi cho nước cua đã đun sôi vào đun
tiếp đến khi cháo nhừ, cho thịt, tôm đã xào vào đun sôi một lúc, nêm vừa mắm
muối bắc nồi ra khỏi bếp, cho hành, mùi vào.
Yêu cầu thành phẩm:
Cháo sánh, nhừ, vừa ăn, thơm ngon, ngọt
11
Thức ăn nấu xong đậy kín, tránh ruổi, bụi bẩn và chia ăn ở trên bàn chia
ăn.
2.4. Tổ chức tốt bữa ăn và hình thành nề nếp thói quen trong
giờ
ăn cho trẻ tại trường:
Ăn uống hợp lý là một trong những điều kiện cơ bản nhằm đảm bảo tới sự
phát triển thể lực và tầm vóc của trẻ.
Việc lên thực đơn tính toán trên cơ sở khoa học cải tiến chế biến thức ăn
đảm bảo cho trẻ ăn ngon, ăn bổ và đầy đủ cả về lượng và chất hấp dẫn đối với
trẻ, giá thành rẻ là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được trong việc tổ
chức tốt bữa ăn cho trẻ, Thức ăn là nguồn gốc tạo năng lượng và chất liệu tạo
hình để xây dựng tế bào thần kinh não điều đó đặc biệt quan trọng tới sự phát
triển của cơ thể trẻ. Trong thức ăn cần phối hợp tất cả các chất cần thiết cho hoạt
động sống của cơ thể: Prôtít, lipít, gluxit, muối khoáng và vitamin.
Chế biến thực phẩm cần lựa chọn thực phẩm tươi sống hợp vệ sinh đảm
bảo các chất dinh dưỡng, các loại rau, củ, quả cho trẻ ăn phải là rau củ quả sạch
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm đặc biệt của cô nuôi nói
riêng và của toàn xã hội nói chung, để có được nguồn thực phẩm đáng tin cậy
như nhà trường trồng các loại rau, củ, quả tại trường, tuyên truyền vận động các
bậc phụ huynh cung cấp thực phẩm sạch cho nhà trường như rau, củ, quả, thịt,
cá, tôm, trứng
Ngoài việc tổ chức cho trẻ có bữa ăn tốt việc hình thành cho trẻ một số
thói quen vệ sinh văn minh trong bữa ăn là việc làm cần thiết trước khi ăn phải
rửa tay sạch bằng xà phòng, biết mời cô giáo, bạn, trong khi ăn không được nói

chuyện riêng, ăn chậm, nhai kỹ, không xúc cơm của mình đổ cho bạn, không làm
vãi cơm ra bàn ăn, biết sử dụng một số đồ dùng ăn uống, biết cách ăn sạch, ăn
đủ, đảm bảo vệ sinh, sau khi ăn lau miệng (đánh răng đối với trẻ mẫu giáo).
Sau khi trẻ ăn xong cho trẻ uống nước, tập cho trẻ uống từ từ từng ngụm
một, mùa đông cho trẻ uống nước ủ nóng.
Tổ chức cho trẻ ăn đúng giờ qui định tạo hứng thú cho trẻ trong khi ăn,
động viên trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất.
• Chỉ đạo giáo viên tổ chức bữa ăn tại lớp:
Phân công sắp xếp công việc giữa các giáo viên một cách hợp lý, cần tạo
cho trẻ ăn, uống hợp vệ sinh, chuẩn bị trước bữa ăn quét dọn phòng ăn sạch sẽ,
bàn ghế sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp, lau sạch bàn chia thức ăn, bát, thìa, đĩa
tráng nước sôi để dùng cho bữa ăn, đồ dùng ăn uống sạch sẽ, khô ráo, bầy xếp
đẹp mắt, sẽ gây được phản xạ kích thích trẻ thèm ăn, hứng thú ăn ngon miệng,
ăn hết xuất, sắp xếp chỗ ngồi ăn của trẻ phải thoải mái, tránh ngồi quá chật trẻ bị
gò bó, ăn mất ngon hoặc gây vướng sẽ bị đổ cơm, bố trí cho trẻ có chỗ ra vào, cô
chia ăn phải rửa tay bằng xà phòng, đeo khẩu trang, đi găng tay, mặc tạp dề chia
12
thức ăn, chia cơm chia xong cho trẻ ăn ngay, trẻ rửa tay bằng xà phòng mới vào
bàn ăn.
Chăm sóc trẻ trong bữa ăn: Cho trẻ ăn phải thực hiện đúng gìơ, đúng qui
định vệ sinh, cô rửa tay bằng xã phòng trước khi chia thức ăn và cho trẻ ăn, khi
trẻ ăn cô đến gần trẻ nhẹ nhàng, ân cần, khéo léo giới thiệu món ăn là biện pháp
tâm lý gây cảm giác thèm ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất.
Cô giáo cần theo dõi sự ăn uống của trẻ biết được món ăn nào hợp khẩu
vị và đặc điểm riêng của từng trẻ, phải chú ý tìm hiểu nguyên nhân những trẻ bỏ
ăn vì không hợp khẩu vị hay trẻ bị ốm báo với ban giám hiệu nhà trường để có
biện pháp giải quyết đúng.
Đối với trẻ mẫu giáo trẻ ăn xong đem bát thìa bỏ vào xô, sau đó dọn ghế
của mình xếp vào nơi qui định, cô nhắc trẻ rửa tay, lau miệng, uống nước.
Vệ sinh sau khi ăn: Trẻ ăn xong cô thu dọn bàn ghế ngay, lau bàn bằng

khăn ướt, giặt khăn phơi ngoài nằng cho khô, lau sàn nhà sau mỗi bữa ăn, rửa
bát thìa bằng nước rửa bát tráng lại nước sạch sau đó tráng nước sôi hoặc phơi
nắng cho khô rồi xếp vào nơi qui định.
Ban giám hiệu thường xuyên dự giời chăm sóc và giáo dục dinh dưỡng
chặt chẽ để kịp thời khen thưởng giáo viên và học sinh hàng tháng, học kỳ, nhằm
nâng cao tinh thần ý thức trách nhiệm chăm sóc và giáo dục dinh dưỡng của giáo
viên và trẻ.
Tóm lại: Việc tổ chức ăn uống và hình thành tốt nề nếp thói quen ăn uống
cho trẻ góp phần quan trọng bảo vệ, nâng cao thể lực và giáo dục đạo đức, hành
vi văn minh cho trẻ, ban giám hiệu nhà trường lập kế hoạch chỉ đạo sát sao, kiểm
tra đôn đốc việc thực hiện của giáo viên theo nội qui nhà trường đề ra phối hợp
chặt chẽ với các bậc phụ huynh học sinh trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ,
giáo dục những thói quen văn minh trong ăn uống, chỉ có thể đạt kết quả vững
chắc khi nó là công việc chung của nhà trường và gia đình.
2.5. Giáo viên tổ chức giấc ngủ cho trẻ:
Ngoài vấn đề đảm bảo ăn uống thì đảm bảo giấc ngủ cho trẻ là một trong
những điều kiện cần thiết giúp sức khoẻ trẻ phát triển, nên tôi luôn nhắc nhở tổ
nuôi dưỡng phải đảm bảo cho trẻ ăn đúng giờ để đảm bảo giấc ngủ cho trẻ.
Tuy không thuộc lĩnh vực dinh dưỡng, nhưng trẻ thiếu ngủ tiêu hoá hấp
thụ thức ăn sẽ khó, kém, dễ gây ức chế ăn uống sẽ kém ngon, chỉ ngủ đủ giấc thì
việc tận dụng chất dinh dưỡng để tái tạo và sinh sản tế bào mới tốt. Vì nếu ăn
uống đầy đủ mà thiếu ngủ trẻ cũng chậm lớn.
Ngược lại nếu vi phạm chế độ ngủ của trẻ sẽ dẫn đến trạng thái không cân
bằng, trẻ thay đổi tính tình, mệt mỏi, kém ăn, chất lượng chương trình học buổi
chiều sẽ bị hạn chế. Vì vậy ở trường mầm non cần coi trọng việc tổ chức giấc
ngủ không kém gì việc tổ chức ăn uống. Cần cho trẻ ngủ đúng giờ và đủ giờ (trẻ
từ 18-72 tháng ngủ 1 giấc trưa 150 phút), trẻ ngủ sâu để hình thành phản xạ đúng
13
giờ cũng như thói quen ngủ nhanh chóng thì hàng ngày cần cho trẻ ngủ đúng giờ
qui định như cho trẻ ngủ từ 11g30 phút đến 14 giờ, sớm quá trẻ chưa ngủ được

hình thành thói quen thao thức, nếu ngủ muộn quá trẻ không còn muốn ngủ nữa,
cần cho trẻ ngủ đúng giờ qui định sẽ không ảnh hưởng đến chương trình hoạt
động buổi chiều.
Làm tốt công tác vệ sinh trước khi cho trẻ ngủ. Phòng ngủ phải thoáng,
sạch sẽ, mát về mùa hè, ấm về mua đông, phải đảm bảo đủ không khí,
Chăm sóc giấc ngủ cho trẻ rất quan trọng. Cô chuẩn bị tâm lý trước cho
trẻ, tạo chỗ nằm cho trẻ thoải mái để trẻ dễ ngủ, quần áo hợp vệ sinh.
Những trẻ khó ngủ cô cần phải quan tâm gần gũi dỗ dành, kể chuyện cho
trẻ nghe hoặc hát ru cho trẻ ngủ. Trong khi trẻ ngủ cô theo dõi, quan sát trẻ
thường xuyên sửa tư thế nằm ngủ cho trẻ, cô không làm việc riêng, không nằm
ngủ cùng trẻ, cô theo dõi để uốn nắn trẻ ngủ thoải mái.
Cô giáo quan tâm đặc biệt đến những trẻ đái dầm, cần nhắc trẻ đi tiểu tiện
trước khi đi ngủ và thuyết phục làm cho trẻ tin rằng mình sẽ tỉnh dậy khi có nhu
cầu đi tiểu. mặt khác phải tìm hiểu cuộc sống của trẻ để biết được nguyên nhân
gây ra hiện tượng đó rồi cùng với cha mẹ và bác sỹ đề ra những biện pháp giúp
đỡ trẻ.
Cô giáo cần tập cho trẻ những thói quen tốt khi ngủ, ngủ ngon là tôn trọng
giấc ngủ của bạn, cần đề ra những qui định cần thiết và kiên trì yêu cầu trẻ thực
hiện để trở thành thói quen tốt.
Trẻ ăn xong tự giác đi rửa tay, lau miệng uống nước và sẵn sàng chuẩn bị
đi ngủ, cô giáo cần nhẹ nhàng bảo trẻ lên gường đi ngủ, cho trẻ nằm đúng chỗ,
để giầy dép đúng nơi qui định, nằm yên nhắm mắt ngủ, không nói chuyên riêng,
không làm ồn ào ảnh hưởng đến các bạn, khi hết giờ ngủ cô đánh thức trẻ nhẹ
nhàng, đối với trẻ mẫu giáo tập cho trẻ có thói quen gấp chăn, chiếu, mặc lại
quần áo, ra rửa mặt súc miệng sau khi ngủ dậy.
2.6. Tổ chức khám sức khoẻ và vệ sinh phòng bệnh:
Bảo vệ sức khoẻ luôn đặt lên vị trí hàng đầu trong hệ thống các nhiệm vụ
chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non. Sức khoẻ ảnh hưởng mạnh mẽ đến
điều kiện sống, đặc biệt ở trường mầm non là nơi tập trung đông trẻ nên công tác
vệ sinh phòng bệnh cần được quan tâm đúng mức, việc thực hiện chế độ vệ sinh

chăm sóc trẻ, vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh đồ dùng, đồ chơi, vệ sinh môi trường.
Giáo viên phải thực hiện nghiêm túc, ban giám hiệu phải kiểm tra thường xuyên
để đảm bảo cho trẻ luôn sống trong môi trường sạch sẽ, ngăn ngừa những tác
động bất lợi cho sức khoẻ của trẻ.
Để đảm bảo chế độ cân đo, khám sức khoẻ định lỳ cho trẻ, nhằm theo dõi
sát tình hình sức khoẻ của trẻ, phát hiện sớm bệnh tật, phối hợp nhà trường và
gia đình tham mưu với cấp uỷ, chính quyền sở tại bố trí cán bộ y tế xã thường
xuyên theo dõi sức khoẻ cho trẻ ở trường mầm non.
14
Khám sức khoẻ cho trẻ 2 lần/năm, tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin
phòng bệnh cho trẻ. Cân đo theo dõi biểu đồ tăng trưởng 1 quí/lần.
Vệ sinh phòng bệnh: Mỗi trẻ điều phải có đồ dùng riêng có ký hiệu như
(quần áo, cốc, bát thìa, khăn mặt)chăn, gối, chiếu thường xuyên giặt, phơi nắng
hàng tuần, phòng ăn, phòng ngủ hàng ngày lau chùi, mở cửa thông thoáng, đồ
dùng đồ chơi của trẻ được lau chùi cọ rửa thường xuyên.
Vệ sinh môi trường: Đảm bảo môi trường xanh sạch đẹp. Giữ nguồn nước
sạch, xử lý rác, chất thải, khơi thông cống rãnh, quét dọn sân vườn sạch sẽ,
thoàng mát. Phun thuốc diệt ruồi muỗi vào buổi chiều sau khi trẻ về với gia đình,
hàng tuần các lớp tổng vệ sinh phòng, lớp, nhà trường, tổng vệ sinh trong ngoài
khu vực trường đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp.
Vệ sinh cho trẻ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh rửa tay cho trẻ bằng xà
phòng. Vệ sinh răng miệng sau khi ăn để phòng chống sâu rằng, trẻ mẫu giáo tập
cho trẻ đánh răng, trẻ nhà trẻ cô cho trẻ súc miệng bằng nước muối.
Phối hợp các lực lượng hỗ trợ kết hợp:
• Phối hợp nhà trường và gia đìnhThống nhất phương pháp chăm sóc
giáo dục trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và giao dục trẻ
tại trường mầm non.
Công tác tuyên truyền huy động trẻ ăn bán trú tại trường góp phần giải
phóng sức lao động nói chung và phụ nữ nói riêng, yên tâm công tác đảm bảo
thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi, trẻ được ăn ngủ tại trường không phải

đi về mệt nhọc, vất vả, đảm bảo an toàn trên đường đi, tạo điều kiện cho trẻ học
tập, vui chơi, tham gia vào các hoạt động được tốt hơn.
Tuyên truyền phổ biến kiến thức cho các bậc phụ huynh đóng vai trò quan
trọng trong việc huy động trẻ ăn bán trú và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ ở trường mầm non cũng như trong cộng đồng, tôi đã thực hiện nhiều hình
thức đa dạng, phong phú như: Họp phụ huynh, bảng thực đơn, trên thông tin đại
chúng mỗi tháng 2 lần vào tối chủ nhật tuần 2 và tuân 4 hàng tháng về tầm quan
trọng và sự cần thiêt của việc tổ chức cho trẻ ăn ngủ tại trường mầm non. Để các
bậc phụ huynh nắm bắt được kiến thức cơ bản về dinh dưỡng và sức khoẻ của trẻ
như phổ biến kiến thức nuôi con theo khoa học, nuôi con khoẻ dạy con ngoan,
cách lựa chọn thực phẩm và kỹ thuật chế biến món ăn cho trẻ.
Ví dụ: Bữa ăn hợp lý thì phải ăn đúng giờ, ăn đủ các chất, hợp vệ sinh, cân
đối 5o% đạm động vật, 50% đạm thực vật, đảm bảo 4 nhóm thực phẩm như chất
đạm, chất béo, chất bột đường, vitamin và muối khoáng, định lượng calo cần cho
cơ thể trẻ trong ngày trẻ từ 1 -36 tháng tuổi năng lượng cả ngày là 1.180
kcal/trẻ/ngày nhu cầu năng lượng tại trường mầm non là 708-826 kcal/trẻ/ngày,
trẻ từ 36-72 tháng tuổi năng lượng cả ngay là 1.470 kcal/trẻ/ngày, nhu cầu năng
lượng tại trường mầm non là 735-882 kcal/trẻ/ngày.
15
Hướng dẫn giáo viên thông tin bảng tuyên truyền tại lớp, thông qua giờ
đón trẻ, trả trẻ trao đổi với phụ huynh về tinh hình sức khoẻ, chế độ ăn uống,
chăm sóc để thống nhất phương pháp chăm sóc giáo dục, đề phòng một số bệnh
theo mùa, bệnh thông thường, trao đổi kinh nghiệm chăm sóc sức khoẻ trẻ và
hinh thành nề nếp thói quen cho trẻ trong ăn, ngủ, nề nếp sinh hoạt, chế độ luyện
tập.
Mời phụ huynh đến trường xem tổ nuôi dưỡng chế biến các món ăn, tổ
chức bữa ăn cho trẻ, phân tích cho phụ huynh biết thức ăn chế biến phải đảm bảo
an toàn thực phẩm, phù hợp với hệ tiêu hoá của trẻ, phù hợp với lứa tuổi, thức ăn
của trẻ phải thái nhỏ, nấu nhừ. Thành lập ban phụ huynh chăm sóc sức khoẻ ở
trường gồm mỗi lớp hai thành viên, ban này có thể dự giờ thăm lớp, dự cách chế

biến các món ăn theo kế hoạch tuần, tháng, đột xuất và từ đó góp ý xây dựng cho
giáo viên, cho trường để nhà trường kịp thời sửa sai và điều chỉnh về chế độ dinh
dưỡng cho trẻ. Mở hội thi cô nuôi giỏi, nhà trường mời phụ huynh tham dự để
giúp cho sự nâng cao về nhận thức nuôi dưỡng, tổ chức hội thi dinh dưỡng của
bé, bé tập làm nội trợ, thành phần gồm có giáo viên, phụ huynh, trẻ.
• Kết hợp với các đoàn thể, lực lượng xã hội khác:
Kết hợp với trạm y tế xã khám sức khoẻ định kỳ trẻ 2 lân/năm để phát
hiện trẻ có bệnh kịp thời phối hợp cùng gia đình điều trị cho trẻ, tiêm chủng các
loại vắc xin phòng chống những bệnh nguy hiểm ở trẻ, tuyên truyền công tác sức
khoẻ đến các bậc phụ huynh, học sinh.
Phối hợp cùng hội phụ nữ, ban văn hoá xã tổ chức tuyên truyền kiến thức
nuôi dạy con theo khoa học đến các bậc phụ huynh trên thông tin đại chúng, qua
các buổi sinh hoạt, hội họp địa phương tổ chức, kết hợp cùng nhà trường để tổ
chức các hội thi cho trẻ như bé khoẻ bé ngoan, nuôi con khoẻ, gia đình dinh
dưỡng trẻ thơ.
PHẦN THỨ BA:
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Kết quả đạt được:
Trong quá trình làm công tác quản lý bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số
biện pháp về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường để đưa vào thực tế của
trường mầm non Quảng tâm. Để khằng định các biện pháp trên có đạt được kết
quả chăm sóc nuôi dưỡng hay không, tiến hành đánh giá công tác chăm sóc nuôi
dưỡng cuối năm học 2010-2011 để so sánh và để từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm trong quả trình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường.
kết quả khảo sát:
Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng sau khi vận dụng các biện pháp trên vào
công tác chăm sóc nuôi dưỡng tai trường mầm non đã thu được những kêt quả
sau.
16
Năm học

Nội dung
Năm học
2009- 2010
Năm học
2010- 2011
1. Chất lượng chăn sóc
Tổng số trẻ đến trưòng 400 432
Tổng số trẻ ăn bán trú 315 =78,8% 398 = 92,1%
Bé chăm 365= 91,3% 405 = 93,7%
Bé ngoan 362 = 90,5% 400 = 92.5%
Bé sạch 380 = 95% 422 = 97,6%
2. Chất lượng nuôi dưỡng
Trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất 280/315= 88,8% 371/398= 93,2%
Trẻ ăn chưa ngon miệng, chưa hết suất 35/315= 11,2% 27/398 = 6,8%
Trẻ biết rửa tay trước khi ăn, sau khi
đi vệ sinh bằng xà phòng .
334/400= 83,5% 415/432= 96%
Trẻ có nề nếp thói quen trong giờ ăn,
giờ ngủ.
317/400= 79,3% 417/432 = 96,5%
Trẻ phát triển bình thường 360/400= 90% 420/432 =97,2%
Trẻ suy dinh dưỡng 40/400= 10% 12/432 =2,8%
Trẻ thấp còi 45/400= 11,3% 19/432 =4,4%
So sánh kết quả khảo sát giữa bảng một và bảng hai ta thấy việc huy động
trẻ ăn bán trú, chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ ngày càng đạt kết quả cao đặc
biệt là năm học 2010-2011 nhà trường đã huy động trẻ ăn bán trú cao hơn
13.7%. Do đó kết quả chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường được nâng lên rõ rệt
đó là: số trẻ phát triển binh thường 97,2%, số trẻ thấp còi giảm còn 4,4%, tẻ suy
dinh dưỡng giảm xuống còn 2,8%, số trẻ mắc các bệnh giảm rõ rệt, số trẻ có nề
nếp trong ăn, ngủ, vệ sinh được nâng cao.Do đó đối với trẻ mầm non cần phải

được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo, đầy đủ để có cơ thể khoẻ mạnh, cân đối hài
hoà, thông minh, hoạt bát và để cho trẻ có một sự phát triển toàn diện trong đó
phát triển thể lực là yếu tố hàng đầu.
2. Kết luận:
Trong xã hội ta hiện nay đòi hỏi con người phải có sức khoẻ tốt để phục
vụ công việc được giao phó. Một xã hội phát triển đòi hỏi con người phải có đủ
đức, trí, thể, mĩ, đặc biết sức khoẻ và trí tuệ luôn đi đôi với nhau và luôn luôn hỗ
trợ cho nhau.
Đối với trường mầm non việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ là một công việc
khó khăn là vấn đề thiết thực đến lợi ích trước mắt và mãi mãi về sau của thế hệ
trẻ, là đường lối của Đảng, là nguyện vọng thiết tha và chính đáng của các bậc
làm cha làm mẹ. Như chúng ta đã biết Giáo dục mầm non là một bộ phận của
hệ thống giáo dục quốc dân, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách trẻ, ở lứa
17
tuổi này trẻ rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh, ngay thơ, các cháu như một tờ giấy trắng.
Vì vậy mà nhà trường phải nuôi dạy các cháu theo khoa học.
Bởi vì: “Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
Trẻ em như búp măng non đang cần sự bao bọc, che chở của cành lá, các
em rất cần sự quan tâm chăm sóc của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội.
Việc chăm sóc các cháu tốt là giúp các cháu phát triển toàn diện.
Vì vậy việc chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng là một việc
làm thiết thực, đáp ứng được lòng mong mỏi của Đảng, của ngành và của xã hội.
3. Bài học kinh nghiệm
Sau một thời gian nghiên cứu bản thân tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm
như sau:
Một là: Người quản lý phải ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình
không ngừng nghiên cứu, tìm hiều, học hỏi đồng nghiệp về kiến thức chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng qua các phương tiện
truyền hình, tài liệu, tạp chí, sách báo để đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng

và giáo dục trẻ.
Hai là: Giáo viên phải nắm vững kiến thức, kỹ năng chăm sóc nuôi
dưỡng, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phải có tấm lòng người mẹ thứ
hai để chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, không ngừng nâng cao bồi dưỡng nghiệp vụ
chăm sóc nuôi dưỡng. Đối với giái viên nuôi dưỡng luôn cập nhật hoá các
phương pháp chế biến món ăn, vệ sinh an toàn thực phẩm, chế biến thực phẩm
đảm bảo ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, hợp khẩu vị, trẻ ăn hết khẩu phần của
mình, giúp trẻ tăng cân đều hàng tháng, luôn thay đổi cách chế biến các món ăn
theo mùa phù hợp với địa phương.
Ba là: Làm tốt công tác tuyên truyền đến nhân dân, các bậc phụ huynh học
sinh kiến thức nuôi con theo khoa học, làm cho mọi người nhận thức được về
vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non là rất cần thiết. Mặt khác
tạo niềm tin cho các cấp lãnh đạo địa phương, các bậc phụ huynh qua từng việc
làm cụ thể trong nhà trường.
Bốn là: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để phát huy sức mạnh tổng
hợp của các thành viên trong trường, tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, các tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể để hỗ trợ kinh phí và tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Đặc biệt là các
bậc phụ huynh học sinh thống nhất yêu cầu, nội dung, biện pháp và phương pháp
chăm sóc nuôi dưỡng hình thành cho trẻ những thói quen văn minh trong ăn
uống, giao tiếp ở trường cũng như ở gia đình và ngoài xã hội.
Năm là: Ban giám hiệu có kế hoạch thường xuyên kiểm tra giám sát việc
thực hiện công tác chăm sóc nuôi dưỡng như chế biến các món ăn, tổ chức bữa
18
ăn, tổ chức giấc ngủ, hình thành nề nếp thói quen vệ sinh văn minh trong ăn
uống, học tập, vui chơi đối với trẻ.
Sáu là: Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên
về mọi mặt phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, hội thảo sáng kiến kinh
nghiệm, học hỏi kinh nghiệm của các trường điểm, cung cấp tài liệu, tạp chí, tập
san về giáo dục mầm non cho giáo viên học tập nghiên cứu, đặc biệt là khâu nuôi

dưỡng cách chọn mua thực phẩm đúng hợp đồng tươi ngon, đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm.
Bảy là: Nhà trường tổ chức làm rau sạch phục vụ cho ăn bán trú, động
viên giáo viên, phụ huynh cung cấp lương thực, thực phẩm sạch cho nhà trường.
Tám là: Nhà trường phối hợp với hội phụ huynh học sinh thành lập ban
kiểm tra để thường xuyên theo dõi giám sát công tác chăm sóc nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ tai trường, có những phản ánh kịp thời cho ban giám hiệu để từ đó có
những uốn nắn kịp thời.
Chín là: Cân đo khám sức khoẻ cho trẻ theo định kỳ để báo cáo tình hình
sức khoẻ của trẻ cho nhà trường và gia đình để có biện pháp chăm sóc giáo dục
kịp thời.
Với những kinh nghiệm trên tôi đã thực hiện trong quá trình chỉ đạo chăm
sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tại trường đạt được một số kết quả góp phấn nhỏ bé
vào sự nghiệp giáo dục trẻ ở trường mầm non.
4. Ý kiến đề xuất:
Trong những năm gần đây ngành học mầm non đã được các cấp quan tâm
nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ
dùng phục vụ cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng.
Đề nghị với các cấp lãnh đạo quan tâm hỗ trợ kinh phí cho các trường
mầm non tổ chức bán trú một số đồ dùng phục vụ công tác chăm sóc bán trú.
Đề nghị với các cấp lãnh đạo chuyển đổi các trường mầm non vùng nông
thôn vào công lập như các cấp học khác.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ trong trường mầm non rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa
học các cấp để bản thân tôi rút ra được kinh nghiệm, làm tốt hơn nữa trong công
tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non
Quảng Tâm nói riêng và các trường mầm non trong huyện nói chung đạt kết quả
cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Quảng Tâm, ngày 20 tháng 4 năm 2011

Người viết sáng kiến
Hoàng Thị Nhuần
19

×