ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o
ỨNG DUY ĐÔNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG VIỆT NAM THỊNH VƢỢNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Chuyên ngành: Tài Chính và Ngân Hàng
Mã số : 60 34 20
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG ĐỨC SƠN
Hà Nội - 2014
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục bảng ii
Danh mục hình vẽ iii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU
QUẢ KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI. 5
1.1. Cơ sở lý luận về kiểm toán nội bộ 5
1.1.1. Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ 5
1.1.2. Nội dung kiểm toán nội bộ 8
1.2. Hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại
11
1.2.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng 11
1.2.2. Hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại
14
CHƢƠNG 2 : HIỆU QUẢ KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 21
2.1. Khái quát chung về VPBank và quy trình cấp tín dụng tại VPBank 21
2.1.1. Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức của VPBank 21
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng VPBank. 26
2.1.3. Quy trình tín dụng tại VPBank 27
2.2. Tổ chức kiểm toán nội bộ tại VPBank 29
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển Phòng Kiểm toán nội bộ -VPBank
29
2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Kiểm toán nội bộ - VPBank 31
2.2.3. Thực trạng kiểm toán hoạt động tín dụng tại VPBank 32
2.3. Đánh giá hiệu quả kiểm toán hoạt động tín dụng tại VPBank 48
2.3.1. Đánh giá hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại VPBank 48
2.3.2. Những kết quả đạt được 50
2.3.3. Những hạn chế và nguyên nhân. 52
CHƢƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VPBANK. 56
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả kiểm toán hoạt động tín dụng tại
VPBank 56
3.1.1 Định hướng phát triển của VPBank 56
3.1.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín
dụng tại VPBank 57
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín
dụng tại VPBank. 59
3.2.1. Chuyển đổi từ kiểm toán tuân thủ sang kiểm toán định hướng rủi ro . 59
3.2.2. Hoàn thiện qui trình kiểm toán nội bộ 64
3.2.3. Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm
toán nội bộ 73
3.3. Một số kiến nghị 74
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
PHỤ LỤC 81
i
Danh mục các chữ viết tắt
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
BCTC
Báo cáo tài chính
2
HTKSNB
Hệ thống kiểm soát nội bộ
3
KTNB
Kiểm toán nội bộ
4
KTVNB
Kiểm toán viên nội bộ
5
NHNN
Ngân hàng nhà nước Việt Nam
6
NHTM
Ngân hàng thương mại
7
TCTD
Tổ chức tín dụng
8
TMCP
Thương mại cổ phần
9
TSBĐ
Tài sản bảo đảm
10
VPBank
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
ii
Danh mục bảng
STT
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1
Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của VPBank
26
2
Bảng 2.2
Cơ cấu dư nợ của chi nhánh X trong giai đoạn kiểm toán
35
3
Bảng 2.3
Cơ cấu sản phẩm vay của chi nhánh X
36
4
Bảng 2.4
Cơ cấu kỳ hạn vay của chi nhánh X
37
5
Bảng 2.5
Cơ cấu loại TSBĐ tại chi nhánh X
37
6
Bảng 2.6
Bảng tổng hợp các vi phạm tại chi nhánh X
47
7
Bảng 2.7
Bảng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả KTNB hoạt động tín dụng
48
8
Bảng 3.1
Hồ sơ và thủ tục kiểm toán dựa trên định hướng rủi ro
62
iii
Danh mục hình vẽ
STT
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Hình 2.1
Mô hình tổ chức bộ máy VPBank
25
2
Hình 2.2
Mô hình tổ chức Phòng KTNB – VPBank trước 2009
29
3
Hình 2.3
Mô hình tổ chức Phòng KTNB – VPBank hiện nay
30
4
Hình 2.4
Phần mềm hệ thống T24 của VPBank
34
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế mỗi quốc gia, với tư cách là một định chế tài chính trung gian, hệ thống
ngân hàng sẽ thực hiện việc lưu chuyển tiền trong nền kinh tế linh hoạt và
hiệu quả hơn thông qua việc huy động, phân phối nguồn vốn trong xã hội,
đặc biệt là trong điều kiện thì trường tài chính chưa phát triển hoàn thiện
như ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại mang tính đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy đòi hỏi
phải có những cơ chế kiểm tra giám sát nhằm đảm bảo các ngân hàng hoạt
động an toàn, lành mạnh. Một trong những cơ chế giám sát đó là bộ phận
kiểm toán nội bộ trong mỗi ngân hàng. Đây là cơ quan có chức năng giám
sát, tư vấn, báo cáo những vấn đề rủi ro cao trong các hoạt động nghiệp vụ
của ngân hàng thương mại.
Hiện nay hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số
các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là đối với ngân hàng vừa và
nhỏ như Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank). Trong quá trình hoạt
động, VPBank đã có giai đoạn bị rơi vào trạng thái bị kiểm soát đặc biệt do
thiếu những cơ chế giám sát, kiểm tra đối với những khoản vay sai đối tượng,
sơ hở về thủ tục pháp lý không thể thu hồi. Vì vậy, việc hoàn thiện bộ máy
KTNB và nâng cao hiệu quả kiểm toán tín dụng có vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của VPBank trong tương lai. Nhận thức được điều đó và thông
qua thực tế công tác và kiến thức học tập tại trường ĐHKT, tác giả đã lựa
chọn đề tài “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt
động tín dụng tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng”
2
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về kiểm toán nội bộ
của nhiều tác giả khác nhau. Trong đó có một số tác giả nổi tiếng như Victor
Z. Brink, trong tác phẩm Modern Internal Auditing năm 1942 đã đưa ra
những quan điểm mới về vai trò hỗ trợ cho các nhà quản lý của KTNB, tác
giả Robert Moeller với tác phẩm Brink’s Modern Internal Autiting (2005)
tổng kết những vấn đề quan trọng nhất mà kiểm toán viên nội bộ cần biết để
thực hiện kiểm toán hiệu quả, quy trình KTNB, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa
của việc đánh giá rủi ro đối với KTNB. Ngoài ra còn có tác phẩm Risk –
Based Auditing, 2005 của Phil Griffiths liên quan đến vai trò của KTNB
trong quản lý rủi ro. Trong nghiên cứu ngày, Griffhs chỉ ra rằng kiểm toán rủi
ro cần dựa trên mục tiêu của tổ chức, và những rủi ro có thể ảnh hưởng tới
mục tiêu đó để tập trung nguồn lực để kiểm soát, quản lý những rủi ro đó.
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về KTNB bắt đầu được quan
tâm nghiên cứu từ năm 1997. Tác giả Nguyễn Quang Quynh (1998) có đề tài
nghiên cứu về “ Xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát trong quản lý vĩ mô và
vi mô ở Việt Nam” đã phân tích thực trạng chung của hệ thống kiểm soát và
chỉ ra rằng KTNB là một yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu khác về KTNB trong
giới hạn của các tổ chức lớn hoặc đơn vị cụ thể. Đề tài luận án “ Hoàn thiện tổ
chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Hồng Thúy (2010), trong đó đề cập đến những đặc trưng cơ bản của các
tập đoàn kinh tế, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh
tế Việt Nam, từ đó tác giả đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB
trong các tập đoàn kinh tế theo hướng thay đổi phương thức kiểm toán và
hoàn thiện cơ cấu tổ chức. Tác giả Lê Thị Thu Hà (2011) với luận án “ Tổ
chức kiểm toán nội bộ trong các công ty tài chính”. Thông qua nghiên cứu
3
những đặc trưng cơ bản ảnh hưởng đến công tác kiểm toán của công ty tài
chính, phân tích đánh giá công tác tổ chức KTNB tại các công ty tài chính, tác
giả đã đưa ra một số giải pháp về phương pháp, kỹ thuật kiểm toán cũng như
hoàn hiện bộ máy KTNB, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KTVNB trong
các công ty tài chính.
Trong giới hạn nghiên cứu về KTNB trong lĩnh vực ngân hàng, tín
dụng có đề tài nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Minh (2007) về ” giải pháp
nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng
tại ngân hàng công thương Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu phân tích thực trạng
của HTKSNB, KTNB tại ngân hàng công thương Việt Nam, đánh giá những
kết quả đạt được và những mặt hạn chế, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng của công tác KTNB đối với hoạt động tín dụng tại ngân
hàng công thương Việt Nam.
Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu mang tính khái quát về thực
tiễn công tác KTNB nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng tại
ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng. Vì lý do nêu trên, luận văn tập trung
nghiên cứu vào những rủi ro trong hoạt động tín dụng và hiệu quả kiểm toán
nội bộ hoạt động tín dụng tại VPBank.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài luận văn nhằm hệ thống lại những lý luận
cơ bản về KTNB, rủi ro tín dụng và KTNB hoạt động tín dụng. Từ đó áp dụng
vào thực tiễn để phân tích hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại
ngân hàng VPBank, đánh giá những kết quả đạt được và những những mặt
còn tồn tại để có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả KTNB
hoạt động tín dụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
tại VPBank trong giai đoạn từ năm 2010 – 2013. Phạm vi nghiên cứu tập
4
trung chủ yếu vào kiểm toán hoạt động tín dụng tại các chi nhánh, đơn vị kinh
doanh của VPBank
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thu thập tài liệu thứ cấp về các công
trình nghiên cứu liên quan đến kiểm toán nội bộ và KTNB đối với hoạt
động tín dụng trong các tổ chức tín dụng. Từ đó phân tích và và làm rõ
một số khái niệm, lý luận liên quan đến đề tài trong các công trình
nghiên cứu này.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống: phân tích, đánh giá theo chiều dọc
và theo chiều ngang các thông tin thứ cấp trong tình huống công việc
thực tế nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
Thông qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài đưa ra
một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán hoạt động
tín dụng tại VPBank, từ đó góp phần tăng cường chất lượng công tác quản trị
và kiểm soát rủi ro trong hoạt động tín dụng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của đề tài được kết cấu thành 3 chương như sau
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nội bộ hoạt động
tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại VPBank.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt
động tín dụng tại VPBank.
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ
KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI.
1.1. Cơ sở lý luận về kiểm toán nội bộ
1.1.1. Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
1.1.1.1.Khái niệm kiểm toán nội bộ
KTNB ra đời nhằm thỏa mãn các yêu cầu quản lý của các doanh
nghiệp, các tổ chức chính phủ và cả các tổ chức phi lợi nhuận. Trong thời kỳ
đầu trọng tâm công việc KTNB ra đời nhằm thỏa mãn các yêu cầu quản lý
của các doanh nghiệp, các tổ chức; nhiệm vụ chính của KTVNB là những vấn
đề về tài chính kế toán. Ủy ban chứng khoán của nhiều nước đòi hỏi các nhà
quản lý của các công ty cổ phần có yết giá ở thị trường chứng khoán phải có
trách nhiệm cao hơn về độ tin cậy của các báo cáo tài chính được công bố,
nên đã dẫn đến sự mở rộng vai trò trách nhiệm của KTNB. Từ đó công việc
của họ bao gồm cả việc phân tích và đánh giá hệ thống kiểm soát, cũng như
kiểm tra các thông tin kế toán giữa kỳ và những thông tin không được xem xét
bởi các kiểm toán viên độc lập khi thực hiện kiểm toán hàng năm. Dần dần vai
trò của KTNB được mở rộng nhằm hoàn thiện các chính sách và thủ tục kiểm
soát đối với toàn bộ họat động của đơn vị, độ tin cậy của các báo cáo hoạt động
được chú trọng. Cho đến nay KTNB có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong các chuẩn mực hành nghề KTNB, ban hành tháng 5 năm 1978
của Viện KTNB Hoa Kỳ (IIA) có định nghĩa sau đây: “KTNB là một chức
năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét đánh
giá các hoạt động của tổ chức, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó”.
Tháng 6 năm 1999, cũng chính Viện KTNB Hoa Kỳ đã đưa ra định
nghĩa hoàn chỉnh hơn về KTNB thì “Kiểm toán nội bộ là hoạt động đánh giá
6
và tư vấn độc lập trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm
tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó. Giúp tổ chức đạt được các mục
tiêu bằng việc đưa ra một phương pháp tiếp cận mang tính chuẩn mực để
đánh giá và nâng cao tính hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát và
quản trị.”.
Như vậy, quan điểm của IIA về kiểm toán nội bộ có thể hiểu như sau
Thứ nhất, KTNB là hoạt động với hai chức năng đánh giá và tư vấn. Vì
vậy, KTVNB không chỉ có năng lực chuyên môn về kiểm toán mà cần có sự am
hiểu sâu sắc về hoạt động của hệ thống để đưa ra những ý kiến tư vấn hiệu quả.
Thứ hai, mặc dù là hoạt động nội kiểm nhưng KTNB vẫn phải đảm bảo
tính độc lập trọng hoạt động.
Thứ ba, mục tiêu cuối cùng của KTNB là nhằm cải tiến và làm gia tăng
giá trị hoạt động của tổ chức.
Thứ tư, phương pháp thực hiện của KTNB là đánh giá hoạt động và
kiến nghị nhằm cải thiện hiệu lực của hoạt động quản trị và kiểm soát rủi ro.
Theo thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 Quy định về hệ
thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài thì kiểm toán nội bộ được định nghĩa là việc rà soát,
đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ; đánh giá độc
lập về tính thích hợp và tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ tục, quy
trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các hệ thống, quy trình,
quy định, góp phần bảo đảm tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả,
đúng pháp luật.
Về cơ bản thì định nghĩa trên cũng có nhiều điểm tương đồng với khái
niệm của IAA về mục tiêu, chức năng và phương pháp KTNB.
7
Tóm lại, về bản chất có thể hiểu KTNB là một bộ phận chuyên trách,
hoạt động độc lập, khách quan được thành lập trong nội bộ một tổ chức, nhằm
đưa ra những đánh giá, tư vấn đối với những hoạt động hiện tại của tổ chức từ
đó nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro cũng như giá trị nội tại của tổ chức đó.
Cũng theo như quyết định số 44/2011/TT-NHNN, thì KTNB tại các TCTD có
một số chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc như sau:
1.1.1.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ
Chức năng kiểm tra: là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để xem xét, đối
chiếu mức độ trung thực của các thông tin, tài liệu và tính hợp pháp của việc
thực hiện các nghiệp vụ hay lập các bản khai tài chính.
Chức năng đánh giá: Thông qua kiểm tra, KTNB thực hiện đánh giá tính đúng
đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin, tài liệu được kiểm tra.
Chức năng xác nhận: Thông qua kiểm tra, đánh giá, KTNB xác nhận thực
trạng của thông tin đã kiểm tra về tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của
các thông tin đó.
Chức năng tư vấn: Trên cơ sở những phát hiện trong quá trình kiểm tra, đánh
giá, KTNB đề xuất và tư vấn giải pháp để khắc phục sai sót, cải tiến và hoàn
thiện HTKSNB, giúp ngân hàng đạt được mục tiêu của mình.
1.1.1.3. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Thứ nhất, thẩm tra tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả của
HTKSNB. Từ đó để khẳng định rằng HTKSNB vận hành chính xác và có
hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã đề ra khi xây dựng hệ thống.
Thứ hai, kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh
tế, số liệu tài chính được kiểm tra.
Thứ ba, kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh
doanh, đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán,
chính sách, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc.
8
Thứ tư, kiểm tra và phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong
quản lý, trong bảo vệ tài sản của tổ chức.
Thứ năm là nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện
hệ thống quản lý và điều hành của tổ chức góp phần ngăn chặn và xử lý các
rủi ro.
1.1.1.4. Nguyên tắc của kiểm toán nội bộ
Tính độc lập: bộ phận KTNB độc lập với các đơn vị, các bộ phận điều hành,
tác nghiệp của tổ chức tín dụng; hoạt động KTNB độc lập với các hoạt động
điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng.
Tính khách quan: bộ phận KTNB, KTVNB phải đảm bảo tính khách quan,
trung thực, công bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm vụ KTNB.
Tính chuyên nghiệp: KTVNB phải là người có kiến thức, trình độ và kỹ năng
kiểm toán nội bộ cần thiết, không kiêm nhiệm các cương vị, các công việc
chuyên môn khác của tổ chức tín dụng.
1.1.2. Nội dung kiểm toán nội bộ
Theo tác giả Victor Z. Brink, nội dung và phạm vi công KTNB bao
gồm 6 điểm chính như sau:
Thứ nhất, KTNB cần xem xét, đánh giá tính đầy đủ và hiệu quả của
HTKSNB của tổ chức và chất lượng thực thi trách nhiệm được giao. Việc
thẩm tra tính đầy đủ là để xác định một cách chắc chắn liệu hệ thống được
thực thiết lập có đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu một cách có hiệu quả và
tiết kiệm hay không, mục đích của việc đánh giá tính hiệu quả là để đảm bảo
hệ thống đang hoạt động như mong muốn; còn mục đích của việc đánh giá
chất lượng là để xác định một cách chắc chắn rằng mục tiêu của tổ chức đã và
đang được thực hiện.
9
Thứ hai, KTNB phải thẩm tra tính xác thực của các thông tin tài chính,
thông tin nghiệp vụ và các phương tiện đã sử dụng để xác định, định lượng và
phân loại các thông tin đó. Như vậy, KTVNB cần kiểm tra để xác nhận thông
tin trên sổ sách, BCTC là chính xác, tin cậy đồng thời đánh giá việc kiểm soát
sổ sách ghi chép và thông tin báo cáo có đầy đủ và hiệu quả không.
Thứ ba, KTVNB cần kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, thủ tục,
pháp luật và các quy định có ảnh hưởng quan trọng tới các nghiệp vụ của tổ
chức. Nội dung công việc này bao gồm việc bảo vệ cho tổ chức trước những
chi phí phát sinh do việc không tuân thủ các quy định gây ra và tìm kiếm
những biện pháp cải tiến hệ thống kiểm soát để nâng cao mức độ tuân thủ.
Thứ tư, KTVNB cần kiểm tra các biện pháp bảo vệ tài sản của tổ chức
trước các hành vi trộm cắp, hỏa hoạn, sử dụng sai hoặc bất hợp pháp cũng
như thẩm tra sự tồn tại của những tài sản đó. KTVNB cần dựa trên mức độ rủi
ro và tổn thất của tổ chức đối với từng loại tài sản khác nhau để có đánh giá
thính hợp.
Thứ năm, KTVNB phải đánh giá tính tiết kiệm và tính hiệu quả của các
nguồn lực được sử dụng. Thông thường, KTVNB cần đánh giá xem cơ sở vật
chất có được tận dụng tối đa không, năng suất công việc, mức độ tốn kém của
các thủ tục và tình trạng thừa hoặc thiếu nhân sự tại đơn vị.
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy, nội dung của
KTNB được thể hiện thông qua một số loại hình kiểm toán dựa trên một số
tiêu chí. Nếu dựa trên đối tượng của kiểm toán, KTNB thường được chia làm
kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán liên kết.
Thứ nhất là kiểm toán tài chính: Là việc kiểm tra xác nhận tính trung
thực và tính hợp lý của các BCTC, báo cáo kế toán quản trị đồng thời xem xét
10
sự phù hợp của các loại báo cáo đó với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và
yêu cầu quản lý.
Thứ hai là kiểm toán hoạt động. Nội dung của kiểm toán hoạt động là
việc huy động, sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và tiết kiệm không, kiểm
toán hiệu quả các giai đoạn sản xuất kinh doanh, kiểm soát tính hiệu quả và
tiết kiệm của việc thực hiện các chính sách nhân sự.
Thứ ba là kiểm toán liên kết giữa kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt
động. Trên cơ sở đánh giá độ tin cậy của thông tin, chất lượng của HTKSNB,
KTNB tiến hành đánh giá hiệu quả của hoạt động, của công tác kiểm soát
cũng như của hệ thống thông tin quản lý.
Nếu dựa theo mục tiêu kiểm toán thì nội dung kiểm toán có thể bao
gồm kiểm toán thông tin: hướng đến độ tin cậy của thông tin; kiểm toán tuân
thủ: xác định mức độ tuân thủ các quy định, chính sách của pháp luật của nhà
quản lý; kiểm toán hiệu quả - hiệu năng: liên quan đến việc đánh giá mức độ
đạt được các mục tiêu hoạt động với nguồn lực sử dụng để tạo ra chúng.
Theo xu hướng phát triển của kiểm toán, nghiên cứu của tác giả cũng
cho rằng kiểm toán hoạt động và kiểm toán liên kết sẽ được quan tâm và chú
trọng nhiều hơn. Nội dung của KTNB không chỉ thực hiện với các hoạt động
tài chính mà cả đối với các hoạt động phi tài chính.
Tóm lại, về có thể thấy nội dung của công tác KTNB có thể khái quát trong 5
điểm chính như sau:
- Kiểm tra tính đầy đủ, hiệu quả, chất lượng của HTKSNB của tổ chức.
- Kiểm tra tính xác thực, độ tin cậy của các thông tin liên quan đến hoạt động
của tổ chức.
11
- Kiểm tra mức độ tuân thủ pháp luật và quy định nội bộ của tổ chức. Kiến
nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, xử lý các sai phạm, đề xuất
biện pháp hoàn thiện HTKSNB, quản lý rủi ro của tổ chức.
- Kiểm tra đánh giá tính hiệu lực của công tác quản lý rủi ro, các biện pháp
đảm bảo an toàn tài sản.
- Kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực trong việc thực
hiện các mục tiêu.
1.2. Hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
Tín dụng là việc ngân hàng thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có
hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Hoạt động tín dụng có vai trò quan trọng trọng hệ thống tài chính của
nền kinh tế. Hiện nay đây vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế, sự
tăng trưởng của nền kinh tế thương chịu tác động lớn của quy mô tăng trưởng
tín dụng. Đối với các ngân hàng thương mại thì hoạt động tín dụng vẫn là
hoạt động chính và thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong
lợi nhuận của các ngân hàng.
Tuy nhiên hoạt động tín dụng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro dẫn đến khả
năng tổn thất đối với ngân hàng trong hoạt động cho vay. Theo định nghĩa của
ủy ban Basel thì rủi ro tín dụng hiểu một cách đơn giản là khả năng mà người
vay ngân hàng hoặc đối tác không thể thực hiện được nghĩa trả nợ theo đúng
cam kết trước đó”.
12
Trong khi theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì rủi ro tín dụng là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của ngân hàng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Uni Credit thì định nghĩa rủi ro tín dụng là nguy cơ tổn thất do bên vay
không thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc do sự suy giảm chất
lượng tín dụng của bên vay. Uni Credit cũng phân loại rủi ro tín dụng thành 3
loại bao gồm
- Rủi ro cố hữu: nguy cơ tổn thất khi ngân hàng đánh giá rằng bên vay
không có khả năng thanh toán một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ tín dụng trong
khoảng thời gian từ 90 ngày trở lên.
- Rủi ro tập trung: nguy cơ liên quan đến việc khoản vay tập trung quá
lớn vào một hoặc một nhóm khách hàng có thể gây ra các tổn thất đủ lớn đe
dọa đến hoạt động cốt lõi của ngân hàng.
- Rủi ro quốc gia: nguy cơ tổn thất khi một quốc gia đóng băng các hoạt
động thanh toán ngoại hối hoặc quốc gia đó không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ trả nợ của mình.
Như vậy, rủi ro tín dụng có thể hiểu là khả năng hoặc nguy cơ tổn thất
đối với bên cho vay trong trường hợp bên vay không thể thực hiện được nghĩa
vụ như cam kết.
Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới rủi ro trong hoạt động tín
dụng, có thể kể tới số nguyên nhân như sau:
1.2.1.1. Rủi ro do yếu tố khách quan
- Những rủi ro từ môi trường thiên nhiên như thiên tai, dịch bệnh, hoả
hoạn,… ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại về tài sản cho
13
ngân hàng và khách hàng. Khi đó, khách hàng có thể mất khả năng hoàn
trả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Rủi ro luật pháp: chính sách, quy định pháp luật thường xuyên thay đổi,
không nhất quán, mâu thuẫn, không rõ ràng. Môi trường pháp lý mà cụ thể
là hệ thống văn bản pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và
tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Một hệ thống văn bản đồng
bộ, phù hợp và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động an toàn và
hiệu quả. Ngược lại, khi môi trường pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ thì
hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
- Rui ro do tác động của tình hình an ninh, chính trị trong nước và trên thế
giới. Kinh tế không ổn định, lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá biến động bất
thường, … Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc
biệt, nhạy cảm, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố kinh tế trong và ngoài
nước. Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người đi
vay và sự thành bại của họ trong kinh doanh. Trong thời kỳ kinh tế hưng
thịnh, khả năng trả nợ của doanh nghiệp được đảm bảo khi họ kinh doanh
có lãi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng thì sức mua giảm
sút, tình hình kinh doanh khó khăn khiến doanh nghiệp không trả được nợ
đầy đủ và đúng hạn.
1.2.1.2. Rủi ro do yếu tố chủ quan quan
Rủi ro do nguyên nhân từ phía khách hàng
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, chủ định lừa đảo ngân hàng để
được vay vốn. Họ cố tình cung cấp thông tin, phương án sản xuất kinh
doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả mạo hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng
với cùng một bộ hồ sơ.
14
- Năng lực quản lý yếu kém của người vay trong việc sử dụng vốn vay đầu
tư vào các phương án kinh doanh, cũng như thiếu khả năng thích ứng với
những thay đổi bất lợi từ môi trường sẽ khiến cho việc sử dụng vốn không
hiệu quả, dẫn đến việc trả nợ gặp khó khăn.
Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Rủi ro kiểm soát nội bộ: chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý,
thiếu chặt chẽ, quy định lỏng lẻo. Quy chế cho vay thiếu chặt chẽ hoặc
quá dễ dàng sẽ tạo ra những kẽ hở cho khách hàng lợi dụng để vay vốn vì
mục đích không phù hợp, hoặc khiến cho cán bộ tín dụng mắc sai lầm,
thậm chí lợi dụng quy chế để móc ngoặc với khách hàng, gây tổn thương
cho ngân hàng.
- Rủi ro đạo đức và trình độ nghiệp vụ yếu kém của nhân viên ngân hàng:
cán bộ làm công tác tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ hoặc vi phạm
đạo đức kinh doanh. Năng lực cán bộ kém dẫn đến những sai lầm trong
khâu đánh giá khách hàng dẫn tới rủi ro trong khả năng trả nợ của khách
hàng, ngược lại hành vi cố tình làm trái các quy định của pháp luật, của
ngân hàng vì những động cơ cá nhân cũng có thể gây ra tổn thất lớn đối với
ngân hàng.
1.2.2. Hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
Hiệu quả được định nghĩa là kết quả tối đa đạt được với đầu vào cố định hoặc
đầu vào tối thiểu để đạt được kết quả đề ra. Ngoài ra, hiệu quả là còn được
định nghĩa là mức độ hoàn hoàn thành mục tiêu đã được thiết lập.
15
Trong nghiên cứu về “Thực hành đo lường hiệu quả kiểm toán nội bộ” của
Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, định nghĩa chung về hiệu quả là mức độ hoàn
thành những mục tiêu đã được đề ra.
Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt, hiệu quả là kết quả mong muốn, cái
sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới.
Như vây, từ định nghĩa về hiệu quả nói chung có thể định nghĩa tương tự đối
với hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng là mức độ hoàn thành được
các mục tiêu về tín dụng đã được đề ra đối với công tác kiểm toán nội bộ.
1.2.2.2. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
KTNB hoạt động tín dụng là một nội dung quan trọng trong KTNB, vì
vậy cũng cần đảm bảo một số mục tiêu chính như sau:
- Đánh giá tính nghiêm túc, đúng đắn trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện nghiệp vụ tín dụng bao gồm các chính sách, quy trình, sản phẩm vay.
- Xác định tính chính xác, phù hợp của các khoản vay: dư nợ, tỷ lệ nợ quá
hạn, nợ xấu, mức lãi suất áp dụng, giá trị tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng.
- Phát hiện những sơ hở, gian lận trong hoạt động tín dụng, những rủi ro có
thể xảy ra trong hoạt động tín dụng, hoặc những nguy cơ từ gian lận kể trên.
- Đưa ra những kiến nghị và đề xuất nhằm cải thiện những lỗ hổng
trong chính sách, quy trình tín dụng, khắc phục những sai phạm đã được phát
hiện nhằm ngăn chặn rủi ro xảy ra đối với ngân hàng
1.2.2.3. Tiêu chí đo lường hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
Các hoạt động kinh doanh thông thường có thể dễ dàng đo lường doanh
thu và chi phí để có thể đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên,
kiểm toán nội bộ là hoạt động có thể đo lường được chi phí (ngân sách, thời
gian, nhân lực) nhưng lại khó khăn trong việc tính toán lợi ích đem lại cho tổ
16
thức. Vì vậy, cần có những tiêu chí khác để có thể đánh giá hiệu quả kiểm
toán nội bộ.
Theo các nghiên cứu về đo lường hiệu quả kiểm toán nội bộ của Viện
kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ năm 2010 có đề cập một số tiêu chí thường được sử
dụng để đánh giá hiệu quả kiểm toán nội bộ tại các tổ chức như :
- Tỷ lệ phần trăm hoàn thành kế hoạch kiểm toán.
- Tỷ lệ các khuyến nghị được chấp nhận và thực hiện.
- Đánh giá của hội đồng quản trị, ủy ban ban kiểm toán, các nhà quản lý.
- Đánh giá dựa trên các khảo sát đối tượng được kiểm toán.
- Thời gian một cuộc kiểm toán từ khi bắt đầu tới khi có dự thảo báo cáo.
Trong nghiên cứu về “Đo lường giá trị của kiểm toán nội bộ” của Jiin-
Feng Chen và Wan-Ying Lin, tác giả đã đưa ra một số tiêu chí cơ bản như sau
để đo lường hiệu quả kiểm toán nội bộ của tổ chức.
- Số cuộc kiểm toán dự kiến thực hiện trong năm
- Số cuộc kiểm toán đã hoàn thành
- Tính kịp thời của thông tin phản ánh
- Số lượng nhân viên sử dụng trực tiếp và gián tiếp
- Số cuộc kiểm toán thực hiện của một kiểm toán viên
- Thời gian và ngân sách
- Tổng thời gian của cuộc kiểm toán: tính từ khi họp triển khai đến khi
kết thúc thực địa và từ khi kết thúc thực địa đến khi phát hành báo cáo.
- Số lượng báo cáo kiểm toán phát hành so với kế hoạch kiểm toán nội bộ.
- Mức độ hài lòng của khách hàng.
17
- Mức độ hài lòng của nhân viên
- Số lượng các phát hiện kiểm toán có ý nghĩa
- Tỷ lệ phần trăm các khuyến nghị được thực hiện
- Số lượng phát hiện lặp lại
- Số lượng phát hiện có kế hoạch khắc phục
- Số lượng ý kiến kiểm toán không đạt yêu cầu
Tóm lại, có rất nhiều chỉ tiêu có thể sử dụng để đánh giá hiệu quả kiểm
toán nội bộ tại một tổ chức bao gồm cả chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định
lượng. Do vậy để đánh giá hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng có
thể sử dụng các tiêu chí định tính và định lượng như sau:
- Số cuộc kiểm toán theo kế hoạch hàng năm: tiêu chí này cho phép đo
lường tần suất thực hiện các hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán hoạt
động tín dụng nói riêng. Thông thường được thiết lập từ đầu năm trong kế
hoạch năm của kiểm toán nội bộ trước khi trình ban kiểm soát phê duyệt căn
cứ vào hồ sơ rủi ro của ngân hàng.
- Số cuộc kiểm toán đã hoàn thành: thể hiện số đợt kiểm toán thực tế
thực hiện trong một giai đoạn, có thể được đo dựa trên số lượng báo cáo kiểm
toán phát hành trong năm.
- Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch: dựa trên số cuộc kiểm toán đã thực hiện
thực tế và kế hoạch đầu năm cho phép đánh giá mức độ hoàn thành công việc
của kiểm toán nội bộ.
- Số lượng khuyến nghị về hoạt động tín dụng có ý nghĩa và được thực
hiện: các phát hiện và kiến nghị liên quan đến quy trình, chính sách hoạt động
tín dụng được ban kiểm soát, các cấp quản lý chấp nhận và được thực hiện để
hoàn thiện môi trường kiểm soát hoạt động tín dụng
18
- Số lượng vi phạm phát hiện trong hoạt động tín dụng: các sai sót, vi
phạm các quy định trong hoạt động tín dụng được kiểm toán viên phát hiện và
có biện pháp ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại được nêu trong các báo cáo
kiểm toán.
- Đánh giá của BKS về kiểm toán nội bộ: thể hiện mức độ hài lòng của
cấp quản lý đối với công tác kiểm toán nội bộ trong việc thực hiện các mục
tiêu đã đặt ra.
- Đánh giá của các đơn vị được kiểm toán về kiểm toán nội bộ: thể
hiện mức độ thỏa mãn những mong muốn của đối tượng được kiểm toán
trong việc cải thiện quy trình, chính sách tín dụng cũng như ngăn ngừa rủi ro
trong hoạt động tin dụng tại đơn vị đó.
- Thời gian thực hiện kiểm toán từ khi bắt đầu họp triển khai công việc
đến khi phát hành báo cáo chính thức: chỉ tiêu này cho phép đo lường mức độ
hiệu quả trong việc thực hiện công việc. Thời gian thực hiện kiểm toán ngắn
giúp tiết kiệm chi phí hoạt động trong khi vẫn đảm bảo được mục tiêu đề ra,
từ đó nâng cao hiệu quả kiểm toán.
1.2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kiểm toán nội bộ đối với hoạt
động tín dụng
Trong chuyên đê nghiên cứu “Bàn về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt
động kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại”, tác giả Nguyễn Lê Thanh có
đề cập đến một số yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng KTNB bao gồm
Các nhân tố chủ quan
Thứ nhất, quan điểm của các nhà lãnh đạo ngân hàng về vai trò của
KTNB. Nếu nhà lãnh đạo thiếu quan tâm coi trọng đối với hoạt động KTNB,
đầu tư không đúng mức cho hoạt động này cũng như có những cơ chế thực sự
độc lập đối với hoạt động ngân hàng thì hiệu quả kiểm toán sẽ không cao.
19
Ngược lại, nếu được quan tâm đúng mức thì KTNB sẽ phát huy được vai trò
tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Thứ hai, mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Khi quy mô
ngân hàng càng lớn, hoạt động càng đa dạng với nhiều sản phẩm và hình thức
cấp tín dụng khác nhau thì khối lượng công việc của KTNB càng tăng lên, đòi
hỏi sự thay đổi và nâng cao hiệu quả trong công tác KTNB
Thứ ba, đội ngũ cán bộ KTNB. Ảnh hưởng bởi đội ngũ cán bộ làm
công tác KTNB thể hiện về số lượng, chất lượng và mức độ đảm bảo các
nguyên tắc làm nền tảng cho hoạt động của KTNB, bao gồm: tính liên tục,
tính độc lập và tính chuyên nghiệp. Số lượng cán bộ KTNB nếu quá ít không
đảm bảo kiểm tra được toàn bộ các đơn vị trong NHTM, hoặc nếu kiểm tra
chất lượng không được đảm bảo. Ngược lại, nếu số lượng cán bộ KTNB quá
nhiều thì chi phí lớn (gồm cả chi phí tiền lương, thưởng, phụ cấp và chi phí
đào tạo), công tác kiểm toán thậm chí bị chồng chéo. Do đó cần thiết NHTM
phải có số lượng cán bộ KTNB phù hợp với quy mô và đặc điểm hoạt động
của ngân hàng. Hoạt động KTNB đòi hỏi cán bộ thực hiện phải có một trình
độ tương xứng, phải am hiểu về các hoạt động kinh doanh của ngân hàng và
các sản phẩm dịch vụ mới cũng như sử dụng thành thạo hệ thống ngân hàng
hiện đại để phục vụ yêu cầu công việc.
Thứ tƣ, phương pháp kiểm toán. Cần thiết áp dụng kết hợp cả hai
phương pháp kiểm toán: tuân thủ và định hướng rủi ro đảm bảo giảm thiểu
được thời gian thực hiện kiểm toán và kết quả thu được, mức độ phát hiện sai
phạm cao hơn. Phương pháp kiểm toán phải được áp dụng một cách có hệ
thống, cho toàn ngân hàng và cho từng hoạt động nghiệp vụ.
Thứ năm, quy trình KTNB. Quy trình cần thiết được xây dựng, cập
nhật thường xuyên, có tính hệ thống và phải được áp dụng thống nhất đối với