Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ Nghiên cứu liên quan đến phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.7 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học độc
đáo, mang một số nét đặc thù, cá biệt luôn thách thức các giới hạn
tiếp nhận văn học trong lịch sử. Vì vậy, nghiên cứu tiếp nhận
hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một cách trở về với
kinh nghiệm lịch sử của quá khứ để tìm hướng tiếp cận
những hiện tượng này; đồng thời góp phần hướng đến một
góc nhìn đánh giá cởi mở, hợp lý hơn đối với các hiện tượng
văn học đương đại khác.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích sự chuyển
tiếp có tính lịch sử và sự mở rộng của các bình diện nghĩa
của hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương qua các khuynh
hướng phê bình.
2. Phạm vi đề tài và đối tượng nghiên cứu
2.1. Phạm vi đề tài
Luận án chỉ giới hạn phạm vi đề tài trong những khuynh
hướng phê bình có tác động nổi bật đến lịch sử tiếp nhận
hiện tượng văn học này. Cụ thể, luận án phân tích tiến trình
tiếp nhận của các khuynh hướng: phê bình đạo đức, phê bình
phân tâm học, phê bình của chủ nghĩa Marx.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lịch sử tiếp nhận thơ
Nôm Hồ Xuân Hương thể hiện qua các khuynh hướng phê
bình, với các công trình phê bình tiêu biểu của Ngô Tất Tố,
2
Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu, Hoài Thanh, Đỗ Lai Thúy,
Nguyễn Lộc, Trần Thanh Mại, Xuân Diệu…; và các ý kiến


tiếp nhận của Vũ Trọng Phụng, Dương Quảng Hàm, Phan Kế
Bính…. Đối tượng của luận án liên quan đến ngữ cảnh văn
hóa xã hội Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nửa cuối thế kỷ
XX.
3. Lịch sử vấn đề
a) Mô tả các tài liệu phê bình về thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Hiện có một công trình thuộc loại này. Đó là bài viết
“Sức sống thơ Hồ Xuân Hương và việc tiếp nhận” của
Nguyễn Hữu Sơn và Vũ Thanh, in trong quyển Hồ Xuân
Hương, tác gia và tác phẩm, năm 2007. Trong bài viết, tập
thể tác giả liệt kê các tài liệu và hướng tiếp cận vấn đề về tác
giả, văn bản và phê bình thơ trong lịch sử.
b) Nghiên cứu liên quan đến phê bình thơ Nôm Hồ
Xuân Hương
Hiện có hai công trình thuộc loại này. Công trình thứ nhất
là quyển Lược khảo văn học, Tập 3: Nghiên cứu và phê bình
văn học của Nguyễn Văn Trung, Nam Sơn xuất bản, tại Sài
Gòn, năm 1968. Công trình thứ hai là Phê bình văn học, con
vật lưỡng thê ấy, của Đỗ Lai Thúy, nhà xuất bản Hội Nhà
Văn ấn hành, năm 2010.
c)Nghiên cứu các hướng phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Trong hình thức này, có giá trị hơn cả là chương 1 trong
quyển Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai
Thúy, nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành, năm 1999.
Sau đó, sách này được in lại lần thứ hai có sửa chữa, tại nhà
xuất bản Văn học, năm 2010.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận án là phương
pháp lịch sử chức năng, được vận dụng để phân tích, mô tả

tiến trình mở rộng ý nghĩa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong
những chân trời tiếp nhận khác nhau theo tiến trình lịch sử.
Luận án vận dụng các thao tác phân tích, so sánh để phân
tích kết quả tiếp nhận trong mối quan hệ với bối cảnh xã hội,
lý giải mối quan hệ giữa quan điểm phê bình trong chân trời
tiếp nhận và kết quả phê bình trong văn bản phê bình.
5. Những đóng góp của luận án
Về mặt lý luận, luận án bước đầu khai triển và vận dụng
gợi ý của Jauss về mối liên hệ giữa các khái niệm: “chân
trời”, “trò chơi ngôn ngữ”, “logic của câu hỏi và câu trả lời”.
Về mặt nghiên cứu vận dụng, luận án phân tích, miêu tả
một số hướng tiếp nhận tiêu biểu về thơ Nôm Hồ Xuân
Hương tại Việt Nam trong giai đoạn hiện đại hóa đầu thế kỷ
XX, giai đoạn cách mạng hóa 1945 – 1975: phê bình đạo
đức, phê bình phân tâm học, phê bình Mác-xít.
6. Bố cục của luận án
Luận án có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Phần nội dung có bốn chương. Chương 1: Lý thuyết
tiếp nhận hiện đại và vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương. Chương 2: Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương: phê bình đạo đức. Chương 3: Vấn đề tiếp nhận thơ
Nôm Hồ Xuân Hương: phê bình phân tâm học. Chương 4:
Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương: phê bình văn
học của chủ nghĩa Marx.
4
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI VÀ
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
1.1. Lý thuyết tiếp nhận hiện đại: Khái niệm và phương pháp
1.1.1. Chân trời nhận thức cuộc sống và chân trời hiểu

văn bản
Nổi bật trong lý thuyết tiếp nhận của Jauss là khái niệm “chân
trời chờ đợi” kế thừa từ Gadamer và Karl Mannhem. Nhìn một
cách tổng quát, kế thừa Gadamer, Jauss cho rằng không chỉ người
đọc mới có một chân trời chờ đợi của mình khi đến với văn bản,
mà nơi văn bản cũng có một chân trời lịch sử đề xuất một phạm vi
diễn giải ý nghĩa gợi ý cho người đọc nó. Trong quá trình đọc,
chân trời chờ đợi nơi người đọc tự thiết lập và hiệu chỉnh liên tục
trong sự tương tác với chân trời lịch sử của văn bản. Và chính
chân trời lịch sử của văn bản khơi dậy sự chờ đợi nơi người đọc.
1.1.2. Hiểu văn bản trong trò chơi ngôn ngữ
Sự liên tưởng của Jauss về mối quan hệ giữa “chân trời” và
“trò chơi ngôn ngữ” xuất hiện trong một phần đề cập đến những
tiền giả định lý thuyết cho việc hình thành ý niệm về chân trời.
Theo Jauss, chốt cùng lại thì ý niệm chân trời “như là trò chơi
ngôn ngữ trong triết học phân tích ngôn ngữ giai đoạn hậu kỳ của
Wittgenstein, chính trò chơi ngôn ngữ về cơ bản đã giúp cho toàn
bộ việc hiểu nghĩa có thể có được, và do vậy, nó đã làm được việc
trước đây hình thức logic của ngôn ngữ chính xác thuộc về việc
miêu tả thế giới đã làm”
1
. Ở đây, Jauss đặt khái niệm “chân trời”
1
Hans Robert Jauss (1991), Ästhetische Erfahrung und literarische Hermeneutik, Suhrkamp,
Frankfurt am Main, tr 659.
5
trong quan hệ với khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” của
Wittgenstein, hay là đã liên hệ đến việc nhìn nhận vấn đề chân
trời của thông diễn học trong phạm vi triết học phân tích ngôn ngữ
ngày thường của Wittgenstein.

1.1.3. Logic câu hỏi và câu trả lời của các trò chơi ngôn ngữ
Jauss kế thừa tư tưởng của Collingwood và Gadamer nhưng
khi phát triển một cách tổng hợp vấn đề “logic của câu hỏi và câu
trả lời” và vấn đề các tiền giả định, ông xem nó như là vấn đề
“biện chứng của câu hỏi và câu trả lời”, một vấn đề trụ cột của
thông diễn học văn học. Phê bình Gadamer về việc chú trọng đến
câu hỏi của văn bản trong lịch sử đặt ra cho người lý giải, Jauss
cho rằng văn bản trong lịch sử không thể tự nó xuyên qua các thời
đại đặt cho người lý giải nó câu hỏi, mà truyền thống văn học
tồn tại qua biện chứng của câu hỏi và câu trả lời được tiếp
nối từ “mối quan tâm hiện tại” của người lý giải.
1.1.4. Phương pháp trò chơi ngôn ngữ trong nghiên cứu
tiếp nhận văn học
Khi nỗ lực đi sâu vào tính chất phức tạp của khái niệm kinh
nghiệm thẩm mỹ, Jauss cũng bắt đầu cảm nhận được tính chất
phức tạp của vấn đề thưởng thức nghệ thuật, vốn vượt ra khỏi
phạm vi khái niệm chân trời chờ đợi mà ông đặt ra giai đoạn đầu.
Một liên hệ thoáng qua giữa khái niệm chân trời và khái niệm trò
chơi ngôn ngữ đã cho thấy điều đó. Và ông cũng chỉ dừng lại ở đó,
không khai triển và làm rõ thêm ý tưởng của mình.
Từ góc nhìn này của Jauss, có thể đề ra một phương pháp
nghiên cứu tiếp nhận: phân loại và phân tích những trường hợp
phê bình mà tất cả các văn bản phê bình xoay chung quanh hay bị
chi phối từ các quy tắc và quy ước cụ thể. Phân tích sự tạo lập các
quy tắc, quy ước tham gia chi phối các tiêu chí đánh giá của
trường hợp phê bình. Bên cạnh đó, để chỉ rõ và phân tích những
tác động của các quy tắc và quy ước này, cần phải đặt nó trong
6
các hình thức cuộc sống nhất định, cùng với việc chỉ ra các mục
đích của phát ngôn phê bình, khi chúng tuân theo hoặc bác bỏ các

quy tắc và quy ước được tạo lập trong hình thức cuộc sống ấy.
1.2.Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương
1.2.1. Vấn đề văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ
góc độ tiếp nhận văn học
Quan điểm thứ nhất, chủ yếu thịnh hành trong dân gian là
quan điểm tuyển lựa tất cả những bài thơ mang bóng dáng, hay
được “truyền tụng” là của Hồ Xuân Hương. Số lượng những bài
thơ theo quan điểm này không ngừng tăng lên theo thời gian: từ
năm 1913 đến 1930 số lượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ 62 đến
139 bài.
Quan đểm thứ hai xuất phát từ quan niệm cho rằng có một
phong cách tương đối thống nhất trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
để lựa chọn và thu hẹp phạm vi thơ của hiện tượng này. Tiêu biểu
cho quan điểm này là Nguyễn Lộc. Ông căn cứ vào sự thống nhất
của phong cách thơ, cho rằng có khoảng trên 30 bài thơ là của Hồ
Xuân Hương.
Quan điểm thứ ba căn cứ vào nội dung thơ, tính tư tưởng trong
thơ để phân loại pham vi những bài thơ có tính tư tưởng cao với
những bài thơ tục, nhảm. Tiêu biểu cho quan điểm này là Trần
Thanh Mại.
1.2.2. Phạm vi tiếp nhận phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Cho đến năm 2007, theo thống kê (còn chưa đầy đủ) của
Nguyễn Hữu Sơn và Vũ Thanh, đã có 246 đề mục các văn bản lưu
truyền, các tập thơ, các công trình, bài viết, giáo trình… trong lẫn
ngoài nước bằng tiếng Việt viết về hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân
Hương.
Có thể nhận thấy, tuy là một hiện tượng văn học với dung
lượng và số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng thơ Hồ Xuân
7
Hương luôn thu hút các cách diễn giải về nó từ những hướng khác

nhau.
1.2.3. Ảnh hưởng thơ Hồ Xuân Hương trong sáng tác nghệ thuật
Thơ Hồ Xuân Hương từ lâu đã đi vào giai thoại dân gian,
được dân gian lưu giữ, sáng tác, mô phỏng Những giai thoại về
thơ Nôm của nữ sĩ do Hoàng Ngọc Phách, Vũ Ngọc Khánh, Kiều
Thu Hoạch sưu tầm cũng thể hiện lòng yêu mến của dân gian về
con người và tính cách của nhà thơ tài năng.
Trong thời hiện đại, đầu thế kỷ, hình tượng Hồ Xuân Hương
đã xuất hiện trong Giai nhân dị mặc-sự tích thơ từ Hồ Xuân
Hương (1917) của Nguyễn Hữu Tiến. Tiếp theo đó là những vở
diễn sân khấu chèo và tuồng (Tuồng hát Xuân Hương khóc cay
chàng Tổng Cóc, Chèo Hồ Xuân Hương ). Những tác phẩm
truyện ngắn của Ngô Văn Phú, Trần Khải Thanh Thuỷ, Nguyễn
Huy Thiệp, tiểu thuyết về Hồ Xuân Hương của Ngô Tất Tố, Bùi
Bội Tỉnh, phim truyện Hồ Xuân Hương xây dựng hình tượng Hồ
Xuân Hương đầy tính cách.
8
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG:
PHÊ BÌNH ĐẠO ĐỨC
2.1. Chân trời phê bình
1
2.1.1. Nho giáo và phê bình đạo đức
Tại Việt Nam, phê bình đạo đức có nguồn gốc chủ yếu trong
quan niệm đạo đức của Nho giáo. Trong văn học trung đại Việt
Nam, quan niệm văn chương như tấm gương đạo đức để giáo hóa
con người xuất hiện từ khi nho giáo trở thành học thuyết chính trị
xã hội chính thống, quan niệm này chi phối cả cách đánh giá,
thẩm bình tác phẩm.
Trong bối cảnh giao thời và có sự chuyển biến của quan niệm

văn chương và thẩm mỹ đầu thế kỷ XX, phê bình đạo đức truyền
thống tuy không còn chiếm địa vị nổi bật, nhưng lại trở thành một
hiện tượng cho thấy một đặc điểm của tiến trình hiện đại hóa: sự
phản ứng của quan niệm thẩm mỹ truyền thống phương Đông
trước bối cảnh tiếp xúc và tiếp thu văn hóa phương Tây.
2.1.2. Đặc điểm của phê bình đạo đức
Nhìn một cách khái quát nhất, phê bình đạo đức dựa trên tiền
đề cho rằng có một mối quan hệ giữa tác giả và người đọc thông
qua tác phẩm văn học. Bằng hình thức sử dụng ngôn ngữ đặc thù
để thể hiện nội dung tư tưởng tình cảm của tác giả, tác phẩm văn
học có thể gợi nên những cảm xúc, sự đồng cảm, tác động đến
tâm hồn, đạo đức và do đó chi phối hành động của người đọc,
đồng thời qua đó tác động đến thực tiễn đời sống xã hội
2
. Vì vậy,
nhà văn phải có trách nhiệm với hành vi sáng tạo của mình theo
1
Vì chủ yếu khảo sát và phân tích hiện tượng tiếp nhận ở góc độ khuynh hướng phê bình, nên luận
án sử dụng khái niệm “chân trời phê bình” thay cho khái niệm “chân trời tiếp nhận”.
9
nghĩa là họ phải sáng tạo những tác phẩm đem đến những tác
động tốt đối với người đọc, trau dồi phẩm chất đạo đức và vun bồi
tâm hồn cho người đọc.
2.2. Câu hỏi và câu trả lời
Điểm đặc trưng trong những bài thơ Nôm được xem là của Hồ
Xuân Hương là hiện tượng lưỡng nghĩa: thanh và tục. Hiện tượng
này được cấu trúc hóa ngay trong hình thức ngôn ngữ của văn bản
thơ. Trong quá trình đọc và tiếp nhận, hiện tượng này đặt người
đọc đứng trước sự lựa chọn. Người đọc phải lựa chọn nghĩa thanh
hay nghĩa tục, hay sự kết hợp cả hai. Sự lựa chọn sẽ dẫn người

đọc đến một câu hỏi khác, câu hỏi về giá trị đích thực của hiện
tượng thơ này: đây có phải là hiện tượng văn học có giá trị hay
không? Và đằng sau tất cả những câu hỏi đó là một câu hỏi nền
tảng hơn: văn học là gì, hay, thế nào là văn học? Tất cả những câu
hỏi này được cấu trúc hóa ngay trong văn bản thơ. Chính do vậy,
bằng hình thức cấu tạo ngôn ngữ đặc thù, hiện tượng thơ này luôn
từng bước phá vỡ những chân trời chờ đợi có trước của người
đọc, để đem đến những tác động thẩm mỹ và tác động đạo đức.
2.2.1. Song đề của nghệ thuật và đạo đức
Nhìn một cách tổng quát, câu trả lời của các nhà nho theo
quan điểm phê bình đạo đức là câu trả lời có tính chất song đề:
khen ngợi tài thơ, nhưng phê phán nội dung thơ. Trước hết, các
nhà phê bình theo quan điểm đạo đức nho giáo truyền thống luôn
phê phán nội dung thơ là “lả lơi”, “tục tĩu”, “bỉ ổi”. Nhưng mặt
khác, từ góc độ kinh nghiệm thẩm mỹ, họ không thể phủ nhận
những điểm độc đáo trong cách thức sử dụng ngôn từ của “bà
chúa thơ Nôm”.
Nhận xét sớm nhất và có ít nhiều thái độ đối với thơ ca và con
người nữ sĩ là lời nhận xét của một nhà biên chép vô danh trong
2
Peter Childs, Roger Fowler (2006), The Routledge Dictionary of Literary Terms, Routledge,
London & NewYork, tr 75.
10
bản Hồ Xuân Hương nương thi được Kiều Thu Hoạch dẫn lại:
“Nàng người tỉnh Hà Nội, tục truyền là yêu tinh biến làm người,
đặc biệt giỏi làm thơ từ quốc âm”
1
. Thoạt nhìn qua, lời nhận xét
nêu trên về con người Hồ Xuân Hương mang màu sắc của truyện
truyền kỳ dân gian, nhưng chính nó đã bao hàm một trong những

đặc điểm chủ chốt trong tiếp nhận hiện tượng thơ này. Đó là tính
hai mặt trong thái độ đánh giá ngôn ngữ và nội dung thơ: một mặt
ngợi khen tài thơ, nhưng mặt khác có thái độ “kính nhi viễn chi”
với nội dung thơ của nữ sĩ.
Những nhận xét phê bình được đưa vào nhà trường cũng thể
hiện rõ khía cạnh hai mặt trong các nhìn nhận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương đầu thế kỷ XX. Dương Quảng Hàm tiêu biểu cho hướng
nhìn nhận này. Nhìn chung, cái nhìn của Dương Quảng Hàm
tương đối mở, nhưng vẫn trong phạm vi câu trả lời có tính chất
song đề giữa nghệ thuật và đạo đức. Là nhà phê bình trong nhà
trường, hay là phê bình giáo khoa, nhưng ông không chỉ phát hiện
được khía cạnh lưỡng nghĩa trong hiện tượng thơ này mà còn yêu
cầu phân tích nó như một thủ pháp nghệ thuật, nhưng cũng kín
đáo thể hiện sự không nhất quán, thái độ ngập ngừng, dè dặt, biểu
hiện cho câu trả lời có tính chất song đề.
Ngô Tất Tố (1894 – 1954) là một ví dụ điển hình cho câu trả
lời có tính chất song đề trong tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương
của một nhà nho đã ý thức được tiến trình hiện đại hóa. Một mặt
ông phê phán nặng nề những vần thơ có giá trị của nữ sĩ, nhưng
mặt khác, trong một quyển tiểu thuyết, ông lại bênh vực cho thơ
nữ sĩ trước những lời phê phán của các nhà nho.
2.2.2. Đạo đức cá nhân và trách nhiệm xã hội
Theo quan niệm của Phan Kế Bính , những vần thơ của Hồ
Xuân Hương có một nội dung tình cảm “lả lơi”, không nằm trong
khuôn khổ đạo đức nho giáo của người phụ nữ đức hạnh. Đó cũng
1
Đỗ Thị Hảo chủ biên (2010), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam, Khoa học xã hội, Hà Nội, tr
357.
11
là một tiếng thơ mà hình ảnh, từ ngữ… “thô bỉ”, hoàn toàn đi

ngược lại với quan niệm thẩm mỹ về văn chương “có ý nhị, có
văn hoa”, “lời óng chuốt”… mà ông đã nêu lên ở tiết I
1
. Do vậy,
những vần thơ đó “không có thể làm phép cho nhà thơ”, nghĩa là
không thể làm khuôn phép cho người đời sau bắt chước, học tập.
Quan niệm đánh giá của Vũ Trọng Phụng, một nhà văn tiêu
biểu của giai đoạn hiện đại hóa, cho thấy bản thân góc nhìn có
tính chất đạo đức trong phê bình văn học vẫn là một chiều kích
nội tại, mà những giới hạn của nó tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa
xã hội và những khuynh hướng của ý thức thẩm mỹ trong văn
học. Một quan niệm như trên ít nhiều còn thể hiện trong giai đoạn
cách mạng hóa của phê bình văn học tại miền Bắc, khi nó đòi hỏi
mỗi nhà văn phải phê phán giai cấp thống trị, nói lên tiếng nói của
giai cấp lao động, để phục vụ cho nhiệm vụ góp phần xây dựng xã
hội tương lai.
1
Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, bản in lại, Mặc Lâm, Sài Gòn, tr 12.
12
CHƯƠNG 3
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG:
PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC
3.1. Chân trời phê bình
3.1.1. Sự khám phá cái cá nhân
Sự tìm tòi khám phá cái cá nhân trong văn học, vốn gắn liền
với sự xuất hiện và ý thức về gía trị của cái cá nhân trong
lịch sử
1
. Sự tìm tòi khám phá này thể hiện qua tiếng nói của
cái tôi cá nhân trong văn học. Nhưng sự biểu hiện và sự ý

thức của cái cá nhân trong sáng tác văn học không phải là
một hiện tượng nhất thành, trọn vẹn và bất biến, nó là một
tiến trình.
3.1.2. Đặc điểm của phê bình phân tâm học
Từ góc độ lý thuyết, khó có một định nghĩa chung nào
cho phê bình phân tâm học. Nhìn chung, phê bình phân tâm
học chú trọng đến mối quan hệ giữa văn bản văn học và tâm
lý người sáng tạo ra nó, hay theo nghĩa rộng hơn, chú trọng
vào “các mối liên kết giữa bản thân nhà nghệ sĩ và những
sáng tạo của họ”
2
. Rainer Emig cho rằng sở dĩ phân tâm học
được vận dụng vào phê bình văn học vì giữa phân tâm học và
phê bình văn học có mối quan tâm chung về các sáng tạo
hình ảnh và các hình thức biểu tả của con người
3
. Mặt khác,
cũng theo ông, bản thân phương pháp phân tâm học cũng là
1
Chúng tôi tạm phân biệt: 1/ “cái cá nhân” đối lập với tập thể hay cộng đồng, xét ở phương diện nhân học, xã hội
học và triết học, 2/ “cái tôi cá nhân” như là tính chủ thể trong sáng tác văn học. Tiếng nói của cái tôi cá nhân thể
hiện quan niệm và sự ý thức về cái cá nhân.
2
J. A. Cuddon (1999), The Penguin Dictionary of Literary Terms and Literary Theory, Penguin, tr 332.
3
Rainer Emig (2008), “Literary criticism and psychoanalytic positions”, Cambridge History of Literary
Criticism, Volume 9 (Twentieth-Century Historical, Philosophical and Psychological Perpectives), Cambridge
University Press, New York, tr 175.
13
một lý thuyết lý giải dựa vào “tính liên văn bản” trong quan

hệ với các văn bản khác, như các chấn thương tâm lý có
trước (previous traumas), các hình ảnh mẫu gốc (archetypal
images), và các tự sự có quan hệ chặt chẽ với huyền thoại
1
.
Do mong muốn khoa học hóa phê bình văn học, phản ứng
lại với phê bình truyền thống, nên những công trình đầu tiên
của phê bình phân tâm học tại Việt Nam đã viện dẫn phương
pháp giải thích của khoa học tự nhiên để vận dụng vào phê
bình các hiện tượng văn học như thơ Nguyễn Công Trứ, Nôm
Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều.
3.2. Câu hỏi và câu trả lời
Trong một chân trời khao khát hướng đến cái tôi cá nhân
thì thơ Nôm Hồ Xuân Hương trở thành những câu hỏi thôi
thúc được trả lời: ở mức độ nào thì cái cá nhân sâu thẳm nhất
trong thơ được phép tồn tại? Hay nói cách khác, cái cá nhân
thành thực và táo bạo trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có
phải là một giá trị? Những câu hỏi ấy được đặt ra cho chân
trời mới, nhưng trên cơ sở của những văn bản thơ.
Những văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói lên tiếng
nói của một cái cá nhân táo bạo và chân thành. Tiếng nói ấy
thể hiện trong cách tự biểu hiện chính con người trong thơ,
trong việc nhìn nhận tự nhiên và xã hội, thông qua những
hình ảnh. Ở chiều sâu xa, tiếng nói ấy khẳng định giá trị của
cái cá nhân trên những phương diện mới mẻ, độc đáo chưa
từng thấy trước đó: giá trị thân thể và những khao khát bản
năng.
3.2.1.Sự viện dẫn phương pháp khoa học
Câu hỏi “các văn bản thơ Nôm được cho là của Hồ Xuân
Hương có giá trị văn học hay không?” trong bối cảnh hiện

1
Có nhiều cách dịch “archetype”, chúng tôi dùng cách dịch của Đỗ Đức Hiểu là “mẫu gốc”.
14
đại hóa của hình thức cuộc sống mới đòi hỏi những câu trả
lời có tính khách quan khoa học, nghĩa là phải có phương
pháp, có hệ thống, có tính toàn thể như là những tiêu chí của
một trò chơi ngôn ngữ phê bình văn học hiện đại. Điều này
làm cho các công trình muốn biện hộ cho thơ Nôm Hồ Xuân
Hương phải chứng minh tính hợp lý của hiện tượng thơ này
bằng cách viện dẫn phương pháp khoa học, nỗ lực tìm trong
văn bản những bằng chứng để biện minh cho nội dung trữ
tình. Và chính ở đây, những đặc điểm của phương pháp khoa
học đã trở thành những quy tắc chi phối sự tiếp nhận phê
bình.
Công trình Hồ Xuân Hương. Tác phẩm. Thân thế và văn
tài của Nguyễn Văn Hanh là một “ca” tiêu biểu cho sự
chuyển hướng đầy trăn trở của phê bình tiếp nhận tại Việt
Nam trên tiến trình hiện đại hóa: viện dẫn phương pháp giải
thích của khoa học tự nhiên vào phê bình văn học để phê
phán các hướng tiếp nhận trước đó và bênh vực cho thơ Nôm
Hồ Xuân Hương.
Nhìn nhận tổng quát, trong quyển Văn nghệ bình dân Việt
Nam, Trương Tửu vừa kế thừa những góc nhìn đã có, vừa
phát triển ở một mức độ mới. Trừ những sơ lược và ngộ
nhận, điểm mới mẻ và khả thủ nhất trong góc nhìn của ông là
những phân tích về vẻ đẹp thẩm mỹ hiện lên qua nhãn quan
thấm đẫm sắc dục của thơ Hồ Xuân Hương. Ông nhìn thấy
không chỉ vẻ đẹp gợi tình, mà còn sức sống linh động, mãnh
liệt trong thơ. Mặt khác, nỗ lực phân tích lý giải của Trương
Tửu về hiện tượng thơ này không chỉ dừng lại ở những căn

bệnh như cách lý giải của Nguyễn Văn Hanh, mà còn viện
dẫn đến hoàn cảnh xã hội, đấu tranh giai cấp. Đó cũng chính
là điểm khác trong góc nhìn của ông so với những công trình
phê bình phân tâm học cùng thời.
15
Đỗ Lai Thúy, theo lời ông, tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương trong sự phối hợp giữa tín ngưỡng phồn thực và phê
bình mẫu gốc của Karl Gustav Jung. Từ góc độ tín ngưỡng
phồn thực, ông “xây dựng cho mình một “hệ pháp” nghiên
cứu: thơ Hồ Xuân Hương -> văn hóa dâm tục - > tục thờ
cúng phồn thực -> tín ngưỡng phồn thực để đưa cái dâm cái
tục trong thơ nữ sĩ trở về với ngọn nguồn của nó, tín ngưỡng
phồn thực, thuở cái thiêng cái tục là một: tục là thiêng,
thiêng là tục”
1
. Nhưng trở về với tín ngưỡng phồn thực
không phải là để đặt hiện tượng thơ này trong bối cảnh của
“văn hóa thờ sự sinh đẻ” như Trương Tửu đã quan niệm, mà
qua đó, theo Đỗ Lai Thúy, để thấy được các biểu tượng phồn
thực, vốn đã bị đẩy lùi vào vô thức tập thể, “giáng lâm” trở
lại trong các sáng tạo văn hóa, sáng tạo nghệ thuật, cụ thể là
trong hiện tượng thơ này như thế nào.
3.2.2. Nỗi đau từ vô thức
Là một nhà phê bình thơ độc đáo, tài hoa, hoạt động phê
bình của Hoài Thanh bao trùm một phạm vi rộng lớn, và như
một tất yếu, ông đã không bỏ qua một tài thơ độc đáo vô
song như Hồ Xuân Hương.
Điều đáng chú ý ở đây là Hoài Thanh đã thấy được những
đau đớn, những tổn thương của tâm hồn đằng sau những hình
ảnh sống động của thiên nhiên. Đó là một phát hiện độc đáo,

một cái nhìn mang tính chất phân tâm học sâu sắc. Những ẩn
ức trong tâm lý không thể hiện trên bề mặt của hình ảnh,
ngôn từ, mà mượn chính những hình ảnh ngôn từ làm hình
thức tái diễn lại những nỗi đau quá khứ, những chấn thương
tinh thần không nguôi lành trong tâm tư chủ thể. Chừng như
ở đây nhà phê bình đã chạm tới được khía cạnh vấn đề mà
những nhà phê bình phân tâm học giai đoạn sau, tiêu biểu là
Cathy Caruth, đã đặt ra: khía cạnh những biểu hiện của chấn
1
Đỗ Lai Thúy (2011), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr 229.
16
thương tinh thần trong văn bản văn học. Ông đã đi vào phân
tích những ẩn ức tâm lý xuất hiện một cách vô thức trong các
hình ảnh, ngôn từ của thi phẩm, chứ không phải xuất hiện
một cách có chủ ý qua các thủ pháp xây dựng hình ảnh ngôn
từ như Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu quan niệm. Cách
nhìn nhận này đã hé mở ra một góc nhìn mới cho hướng tiếp
cận những ý nghĩa của hình ảnh trong thế giới thơ Nôm Hồ
Xuân Hương. Nhưng đáng tiếc là ông đã không tiếp tục suy
nghĩ đầy đủ và sâu sắc hơn về nó.
Nhìn tổng thể, cách trả lời câu hỏi của phê bình phân tâm
học đã đem đến những tác động lớn đối với phê bình thơ
Nôm Hồ Xuân Hương tại Việt Nam. Lần đầu tiên, phê bình
văn học đưa yếu tố thân xác, tính dục “lên bàn nghị sự”. Nó
không né tránh, phê phán như phê bình đạo đức, mà đề ra
một cách lý giải, tiếp cận. Có thể chưa đồng ý ở chỗ này, chỗ
khác, nhưng phải thừa nhận là cách đặt câu hỏi của phê bình
phân tâm học đã đưa phê bình tiếp nhận văn học vào ngay
trung tâm vấn đề của hiện tượng thơ: vấn đề hình ảnh tính
dục. Mặt khác, bằng những quy tắc viện dẫn từ phương pháp

khoa học, phê bình phân tâm học có tham vọng tìm cơ sở
biện minh cho cho sự xuất hiện của khía cạnh giới tính, nhục
thể trong hiện tượng thơ này. Nó cho thấy đây là những biểu
hiện xuất phát từ thế giới nội tâm của con người cá nhân, và
vì vậy, rất cần có sự thông cảm, chia sẻ.
17
CHƯƠNG 4
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG:
PHÊ BÌNH VĂN HỌC MÁC-XÍT
4.1. Chân trời phê bình
4.1.1. Ngôn ngữ chính trị trong phê bình văn học Mác-xít
Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề mối quan hệ giữa văn học và
đời sống xã hội chính trị là một vấn đề hệ trọng, gắn bó tự bề sâu
trong ý thức văn hóa của đất nước Việt Nam, một đất nước luôn
phải thường trực chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược.
Do bối cảnh chính trị xã hội đặc thù, cùng với sự ảnh hưởng
của phong trào cách mạng và đấu tranh giai cấp lan rộng tại Châu
Âu, quan điểm phê bình văn học Mác-xít ở Việt Nam không chỉ
biểu hiện cho một bước chuyển biến hiện đại hóa của bản thân
văn hóa, mà nó còn biểu hiện cho một bước ngoặt của ý thức
chính trị xã hội. Một số nhà phê bình Mác-xít chủ chốt đã
quy chiếu nhiệm vụ của họ vào mục đích và nhiệm vụ chính
trị, đó là truyền bá chủ nghĩa Marx tại Việt Nam, như là hình
thức truyền bá tư tưởng chủ nghĩa xã hội, làm điểm tựa và vũ
khí để giải phóng dân tộc. Do đó, ngay từ đầu, phê bình văn
học Mác-xít, một cách mặc nhiên, đã đặt tiền đề trong một
trò chơi ngôn ngữ khác: viện dẫn ngôn ngữ chính trị vào phê
bình văn học.
4.1.2. Đặc điểm của phê bình văn học Mác-xít
Về mặt nguồn gốc, hệ thống quan niệm phê bình này bắt

nguồn từ quan niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx
– Engels, từ quan niệm về tính Đảng và phản ánh luận của
Lenin. Về mặt lịch sử, hệ thống quan niệm này chịu ảnh
hưởng bởi những tài liệu nghiên cứu từ Liên Xô vốn nhấn
18
mạnh phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, bài nói
chuyện văn nghệ tại Diên An của Mao Trạch Đông năm 1942
đề cao quan niệm văn học phục vụ chính trị.
Về mặt đặc điểm, từ những phát biểu trên, có thể đồng ý
với khái quát của Trần Đình Sử về mấy đặc điểm sau của phê
bình văn học Mác-xít
1
: văn học phục tùng và phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị của Đảng Cộng sản và nhân dân lao động,
hệ thống quan niệm văn học xem trọng thế giới quan và vốn
sống, hệ thống văn học lấy phương pháp sáng tác hiện thực
xã hội chủ nghĩa làm kim chỉ nam.
4.2. Câu hỏi và câu trả lời
Câu hỏi về giá trị thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong chân
trời của phê bình Mác-xít trở thành câu hỏi về nội dung tư
tưởng, về giá trị hiện thực liên quan đến nhận thức xã hội về
đấu tranh giai cấp và thái độ phê phán giai cấp thống trị. Nói
cách khác, vấn đề giai cấp trở thành vấn đề trung tâm để
thẩm định giá trị hiện tượng thơ này.
Thực tế văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương cho thấy trong
thơ luôn nói tiếng nói chủ động và cá tính, thể hiện một góc
nhìn sắc sảo về cuộc sống, xã hội, và những loại người khác
nhau. Đặc biệt, tiếng nói ấy luôn thể hiện sự thấu hiểu hoàn
cảnh và tâm trạng và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Như vậy là câu hỏi về giá trị thơ Nôm nữ sĩ từ góc độ phê

bình Mác-xít đã tìm thấy cơ sở cho câu trả lời của nó trong
văn bản. Nó cũng tạo tiền đề cho góc nhìn mới hơn, gây
nhiều tranh luận, đôi khi trái ngược nhau, thể hiện tính chất
phức tạp của chân trời tiếp nhận mới.
1
Trần Đình Sử (2004), “Lý luận, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX”, Văn học Việt Nam thế
kỷ XX, Giáo dục, Hà Nội.
19
4.2.1. Vũ khí đấu tranh giai cấp
Là một nhà phê bình vận dụng và tiếp thu nhiều quan
điểm phê bình phương Tây, Trương Tửu đã kết hợp phê bình
phân tâm học và phê bình Mác-xít khi giải thích tiếng nói
chống phong kiến trong thơ Hồ Xuân Hương. Vì vậy, đối với
ông, tiếng nói chống phong kiến của thơ nữ sĩ “tiêu biểu rất
sâu sắc cái ý thức chống phong kiến ở địa hạt tình cảm và
sinh lý của bình dân Việt Nam của những tầng lớp nghèo cực
bị áp bức trong xã hội xưa”
1
. Dường như ở đây, ông đã đến
gần với những luận điểm của lý luận nghiên cứu văn hóa hiện
đại về vấn đề diễn ngôn tính dục ra đời như là hình thức
chống đối lại với quyền lực thể chế phong kiến. Tuy nhiên,
trong bối cảnh bấy giờ, cách giải thích của ông không kém
phần khiên cưỡng khi quy cho toàn bộ nội dung trữ tình của
tiếng nói giai cấp vào hình thức bộc lộ của tâm sinh lý cá
nhân.
Trong quyển sách gây nhiều tranh luận, Hồ Xuân Hương
– nhà thơ cách mạng, Hoa Bằng sử dụng phương pháp phân
tích đối chiếu để chỉ ra đối tượng của lời phê phán. Hầu như
ở mỗi chương phân tích biểu hiện của tinh thần chống phong

kiến trong thơ, ông đều dựa trên những căn cứ xã hội học để
đối chiếu với chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm. Tuy cách đối
chiếu của phần nhiều là còn thô lược, nhưng Hoa Bằng lại có
những góc nhìn mới về hình thức nghệ thuật thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, khi ông xem những cách nói lấp lửng là vũ khí
của văn chương chống phong kiến.
Là một nhà nghiên cứu lâu năm về văn học trung đại,
Nguyễn Lộc đã dành cho hiện tượng thơ “độc đáo vô song”
này một mối quan tâm lâu dài, bền bỉ. Những trang viết của
ông trong phạm vi phê bình Mác-xít luôn tinh tế và tràn đầy
1
Trương Tửu (2007), Trương Tửu-Tuyển tập nghiên cứu phê bình, Lao động, Hà Nội, tr 845.
20
cảm hứng. Bên cạnh việc hoàn toàn nằm trong phạm vi phê
bình văn học Mác-xít, ông cũng là người đầu tiên tiếp cận
vấn đề phong cách thơ, khẳng định Hồ Xuân Hương là nhà
thơ độc đáo.
Nhìn chung, qua trường hợp tiếp nhận của Nguyễn Lộc, ta
thấy quan niệm và khái niệm điển hình trong phê bình văn
học Mác-xít đã cung cấp một chìa khóa lý thuyết cho các nhà
phê bình tiếp cận được không chỉ nội dung xã hội của văn
bản, còn là nội dung tâm trạng của con người. Nó đòi hỏi nhà
phê bình phải thoát ly chân trời hiện tại của chính mình, để
chuyển vị bản thân vào chân trời và ngữ cảnh của tác phẩm,
hay tính khác biệt của tác phẩm. Có thể nói, ở góc độ này, nó
đáp ứng được yêu cầu có tính lý thuyết của quá trình tiếp
nhận. Điều mà nhà phê bình đối diện, không phải là hệ thống
ký hiệu tự trị, mà chính là tâm trạng, số phận hay những thân
phận con người của quá khứ. Yêu sách về thái độ giai cấp,
tình cảm giai cấp ngầm ẩn trong quan điểm phê bình Mác-xít

cũng đòi hỏi nhà phê bình thực sự thấu hiểu tác phẩm như
một sản phẩm tinh thần viết cho và viết từ những thân phận
con người thời đại quá khứ.
Vì vậy, trong phạm vi này, phê bình văn học Mác-xít đã
thoát ra khỏi hình thức giải thích của khoa học tự nhiên mà
phê bình phân tâm học trước đó vẫn còn lệ thuộc để thực
hiện một cuộc trở về gặp gỡ những thế giới tâm hồn con
người trong quá khứ. Đồng thời, một cách kín đáo, nó cũng
gắn kết tự bề sâu với phê bình văn học thời trung đại, vốn
chủ yếu hướng đến sự đồng cảm, tri âm. Nhưng sâu hơn cả là
bản thân phương pháp và góc độ tiếp cận của nó cũng mang
tính nhân văn trong quan niệm về văn bản văn học. Văn bản
văn học không chỉ là một hệ thống ký hiệu, nó là một hệ
thống ký hiệu gởi đi một thông điệp tinh thần từ quá khứ, đòi
hỏi con người hiện tại không chỉ giải mã, lý giải với tư cách
21
nhà khoa học, mà còn thấu hiểu và đồng cảm với tư cách một
con người. Do những khía cạnh chính đáng đó, phê bình văn
học Mác-xít có sức thuyết phục, sức ảnh hưởng mạnh mẽ, và
cũng đạt được nhiều giá trị. Tuy nhiên, do về bản chất là sự
viện dẫn đại tự sự chính trị xã hội vào ngôn ngữ phê bình văn
học, nên phê bình văn học Mác-xít, ở mặt khác của nó, đã có
sự chồng chéo phức hợp giữa các quy tắc và quy ước của
ngôn ngữ chính trị xã hội với những quy tắc và quy ước của
ngôn ngữ phê bình văn học.
4.2.2. Sự viện dẫn đại tự sự
1

Một trong những dẫn chứng tiêu biểu cho sự viện dẫn đại
tự sự để khẳng định giá trị đồng thời bênh vực cho thơ Nôm

Hồ Xuân Hương là luận điểm về “một dục vọng thể xác lành
mạnh và khỏe khoắn” của Ăngghen, vốn được nhiều nhà phê
bình sử dụng. Sự viện dẫn này được Nguyễn Lộc trình bày
trong mục “Hồ Xuân Hương” của công trình Văn học Việt
Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
Tuy nhiên, hình thức tiêu biểu của sự viện dẫn đại tự sự
trong trò chơi ngôn ngữ là sự chi phối và thể hiện quyền uy
của nó trong các bước đi của phê bình. Vào giai đoạn thập
niên 70, 80 của thế kỷ XX, trong các bài phê bình văn học
bắt đầu xuất hiện tiêu chí đánh giá thơ Nôm Hồ Xuân Hương,
đặc biệt là đánh giá vấn đề hình ảnh thân thể và tính giao, từ
góc độ “tính tư tưởng”. Khái niệm “tư tưởng” trong giai đoạn
này, như đã phân tích, cho thấy có sự viện dẫn các quy ước
và quy tắc của trò chơi ngôn ngữ chính trị vào trò chơi ngôn
ngữ phê bình văn học. Khởi đầu là bài viết của Trần Thanh
Mại mà chúng tôi sẽ phân tích sau, tiếp đến là phần viết về
1
Đại tự sự là khái niệm do Lyotard đặt ra để chỉ các hệ thống lý thuyết đóng vai trò như là các
“siêu ngôn ngữ”, hay “siêu tự sự” để chứng thực và mang lại sự hợp thức hóa cho tri thức. Theo
Lyotard, có các đại tự sự: phép biện chứng của Tinh thần, Thông diễn học về ý nghĩa và sự giải
phóng cho chủ thể lý tính và chủ thể lao động. Xem thêm: Lyotard, 2007, Hoàn cảnh hậu hiện đại,
Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb Tri thức.
22
Hồ Xuân Hương của Lê Hoài Nam trong giáo trình Lịch sử
văn học Việt Nam mà chúng tôi đã đề cập, ngoài ra còn các
bài báo riêng lẻ trực tiếp hay gián tiếp đều dùng khái niệm
này soi chiếu vào hiện tượng trên. Nhưng tiêu biểu và có tác
động nhiều nhất trong lịch sử tiếp nhận giai đoạn này là bài
viết của Trần Thanh Mại: Thử bàn lại vấn đề tục và dâm
trong thơ Hồ Xuân Hương, đăng trên Tạp chí Văn học, số 4.

Đây là bài đầu tiên trong chuỗi những bài nghiên cứu phê
bình đầy ảnh hưởng của ông về thơ Nôm nữ sĩ.
Trong giai đoạn đầu, phê bình văn học Mác-xít đã vượt
qua phê bình văn học theo quan điểm phân tâm học của
Freud ở khía cạnh nó đặt câu hỏi mới, tìm kiếm những câu
trả lời mới hơn, phù hợp với sự chuyển biến lịch sử xã hội
của thời đại. Câu hỏi và câu trả lời trong phê bình văn học
Mác-xít không chỉ quan tâm đến hoàn cảnh xã hội mà còn đi
sâu vào đời sống nội tâm, với những cảm xúc, nỗi niềm thân
phận của người phụ nữ. Nó cũng đã vượt ra khỏi quan điểm
giải thích của khoa học tự nhiên, để hoàn toàn nằm trong
phạm vi của khoa học tinh thần, tuy đôi lúc còn khiên cưỡng.
Ở giai đoạn sau, do hoàn cảnh xã hội chính trị đặc thù của
đất nước, phê bình văn học Mác-xít - vốn đã tự thân, và giờ
ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với đời sống chính trị - đã
viện dẫn các quy tắc và quy ước của chính trị vào phê bình
văn học. Vì vậy, câu hỏi và câu trả lời của nó trở nên không
còn hợp thức và vì vậy, đòi hỏi một cách đặt câu hỏi mới và
những câu trả lời khác trong bối cảnh đời sống xã hội chuyển
biến sang thời kỳ Đổi mới của thập niên 90 trong thế kỷ XX.
23
KẾT LUẬN
Phân tích hiện tượng tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương,
luận án làm rõ sự chuyển tiếp có tính lịch sử giữa những khuynh
hướng phê bình tiếp nhận từ góc độ logic của câu hỏi và câu trả
lời.
Từ chân trời chịu ảnh hưởng truyền thống nho giáo, phê bình
đạo đức đã đưa ra câu trả lời phủ định nội dung thơ, nhưng lại
khen ngợi tài thơ nữ sĩ. Bằng hình thức ngôn ngữ độc đáo, đa
nghĩa, thanh mà tục, hiện tượng thơ này đã cho thấy sự bất cập

trong quan niệm văn học, quan niệm về ngôn từ nghệ thuật của
phê bình văn học truyền thống vốn bị ràng buộc bởi đạo đức nho
giáo.
Trong một chân trời hiện đại hóa, phê bình phân tâm học đã
khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật thơ. Nhưng trong nỗ lực
chứng minh tính hợp lý của hiện tượng này, phê bình phân tâm
học đã viện dẫn phương pháp trong khoa học tự nhiên cho trò chơi
ngôn ngữ phê bình. Và theo đó, cách thức xem ngôn từ nghệ thuật
là những bằng chứng giải thích đã hiện ra sự bất cập, cơ giới trong
quan niệm về văn học nghệ thuật của khuynh hướng phê bình này,
đồng thời đòi hỏi một câu trả lời hợp lý hơn.
Trong một chân trời mới, phê bình Mác-xít đã khẳng định giá
trị nội dung và hình thức nghệ thuật có vai trò như vũ khí phê
phán phong kiến của hiện tượng thơ này. Nhưng trong một số câu
trả lời viện dẫn đại tự sự có tính chất chính trị, nó lại phủ nhận giá
trị thẩm mỹ của những hình ảnh có tính cách tân trong thơ Nôm
Hồ Xuân Hương, bằng cách đặt những hình ảnh này vào ngữ cảnh
hiện thực của đời sống, thay vì ngữ cảnh hư cấu của văn học.
Điểm đáng chú ý là, đối với một số nhà phê bình, để khẳng định
lại giá trị cho những hình ảnh cách tân ấy, họ đã buộc phải tuân
24
theo trò chơi ngôn ngữ phù hợp với hình thức đời sống đặc thù,
bằng cách viện dẫn đại tự sự quyền uy làm điểm tựa cho lập luận
phê bình.
Như vậy là bằng hình thức ngôn ngữ đa nghĩa, tạo dựng nên
lớp nghĩa thứ hai liên quan đến hình ảnh thân thể và tính giao, thơ
Nôm Hồ Xuân Hương làm hiện ra giới hạn của những quan niệm
văn học. Bằng việc luôn yêu sách câu trả lời mới hơn, hiện tượng
thơ này cũng góp phần làm rạn vỡ những chuẩn mực thẩm mỹ,
thúc đẩy sự vận dụng các lý thuyết phê bình mới, đồng thời thúc

đẩy tiến trình hiện đại hóa của phê bình văn học.
Trường hợp tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương cho thấy quá
trình hiện đại hóa, với sự tiếp thu các quan niệm văn học và phê
bình văn học phương Tây, đã tạo ra một sự chuyển đổi hệ hình
của phê bình văn học. Đó là, từ quan điểm phê bình đạo đức Nho
giáo có tính chất thưởng thức, bình điểm của phê bình truyền
thống, tiến đến quan điểm phê bình hiện đại, dân chủ, xem trọng
tiếng nói cá nhân và có tính hệ thống, tính khoa học.

×