1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Albert Einstein (A. Einstein), nhà vật lý học vĩ đại nhất của nhân loại, người
phát minh ra thuyết tương đối và hình thành vũ trụ học hiện đại, đồng thời góp phần
khai sinh thuyết lượng tử. Thuyết tương đối và thuyết lượng tử là hai trụ cột làm
nên cuộc cách mạng trong vật lý học thế kỷ XX. A. Einstein không chỉ là nhà vật lý
học kiệt xuất, mà còn là nhà triết học nổi tiếng bởi những đóng góp quan trọng của
ông trong việc tạo dựng cơ sở khoa học tự nhiên cho các tư tưởng triết học đúng
đắn về thế giới vật chất, về vận động, tính tương đối và thống nhất của không - thời
gian, tính thống nhất vật chất của thế giới. Những phát minh vĩ đại của ông còn
khẳng định khả năng to lớn của trí tuệ con người có thể đi sâu phản ánh bản chất và
những quy luật vận động phức tạp của thực tại khách quan.
Với những tài liệu đã được công bố do chính ông viết hoặc những tác giả
khác viết về ông, thông qua những thư từ trao đổi giữa ông và nhiều người khác
chúng ta thấy rằng, ngoài một nhà khoa học vĩ đại, A. Einstein còn là một nhà triết
học với những tư tưởng có tính chất đặc biệt. Tư tưởng triết học của A. Einstein bao
quát nhiều lĩnh vực quan trọng; tư duy và hành động của ông đã kiến giải nhiều vấn
đề mang tính thời đại. Chính điều đó làm cho tư tưởng triết học của A. Einstein có
sức cuốn hút đối với nhiều người. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của
một nhà khoa học thiên tài mà ở nước ta từ trước đến nay mới chỉ được biết về mặt
khoa học, chưa được biết nhiều và có hệ thống về mặt triết học, là vấn đề vô cùng
cần thiết. Chính lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Tư tưởng triết học
của Albert Einstein”. Thông qua nghiên cứu, luận án này nhằm khái quát, hệ
thống tư tưởng triết học đồng thời đánh giá ý nghĩa lịch sử tư tưởng triết học của A.
Einstein theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, đã có những công trình nghiên cứu về A. Einstein với nhiều
góc độ khác nhau. Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài, trong phạm vi luận án này,
chúng tôi tạm chia thành 3 mảng chính như sau:
2
2.1. Những công trình, tư liệu nghiên cứu tiểu sử Albert Einstein
Đã có nhiều công trình và tư liệu về A. Einstein dưới dạng tiểu sử danh
nhân được xuất bản thành sách hoặc phổ biến thông qua các trang mạng toàn cầu.
Một trong những trang mạng tương đối đầy đủ dữ liệu về A. Einstein có địa chỉ tại
www.alberteinstein.info của The Hebrew University of Jerusalem bằng tiếng Anh
và tiếng Do Thái đã sưu tập tất cả những tư liệu liên quan đến A. Einstein bao gồm
tiểu sử, hoạt động, công trình khoa học, tư tưởng, hình ảnh và thư tín… Đây là
nguồn tham khảo quan trọng cho những ai quan tâm đến cuộc đời và sự nghiệp của
A. Einstein. Ở mảng này, trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã được tiếp
cận một số công trình, tư liệu chủ yếu sau đây:
A. Foelsing đã có tác phẩm “Albert Einstein - Nhà bác học vĩ đại của nhân
loại”, xuất bản năm 1993, nhân năm Vật lý thế giới. Là tác phẩm đồ sộ với gần
1000 trang in, A. Foelsing đã tổng hợp, chọn lọc và giới thiệu tiểu sử, cuộc đời và
sự nghiệp của A. Einstein một cách chi tiết và đầy đủ. Tác phẩm giúp cho người
đọc có cái nhìn tổng quan về A. Einstein từ những năm tháng trẻ tuổi đến sự thành
đạt trong khoa học và ảnh hưởng lớn lao của nhà bác học vĩ đại của nhân loại.
F. MacDonald với tác phẩm “Albert Einstein”; Mã Quan Phục với tác phẩm
“Albert Einstein - con người vĩ đại”. Đây là những ấn phẩm danh nhân, đề cập đến
A. Einstein từ cuộc đời, sự nghiệp, thuyết tương đối và những ảnh hưởng của ông
đối với thời đại. Cũng dưới hình thức phổ biến kiến thức trong loạt sách danh nhân,
R. Downs đã xuất bản “Những tác phẩm biến đổi thế giới”. Nguyễn Thế Tài, một
kỹ sư, nhà nghiên cứu khoa học người Việt tại Bỉ. Sau khi xem triển lãm về A.
Einstein với chủ đề “A. Einstein, một cái nhìn khác” vào đầu tháng 02 năm 2006 tại
Bruxelles đánh dấu năm 2005 nhân kỷ niệm 100 năm ra đời của thuyết tương đối,
Nguyễn Thế Tài đã xuất bản khảo cứu “Albert Einstein, nhà bác học đam mê và
chân thật”. Tác phẩm đã đề cập đến cuộc đời, sự nghiệp khoa học, tư tưởng triết học
và giá trị của A. Einstein đối với hôm nay. Với 230 trang sách, Nguyễn Thế Tài đã
dành 3 chương quan trọng: tư tưởng chính trị, quan niệm vũ trụ, triết học - tôn giáo
để khắc họa đầy đủ và sâu sắc những đóng góp khoa học và tư tưởng của A.
3
Einstein. Với sự khâm phục dành cho nhà bác học vĩ đại, Nguyễn Thế Tài cũng đã
viết một số bài báo trên các trang mạng và khẳng định rằng, A. Einstein là nhà bác
học vĩ đại với những tư tưởng có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống hôm nay.
Hưởng ứng Năm Vật lý thế giới (2005) do Liên Hợp quốc phát động, nhân
100 năm A. Einstein công bố thuyết tương đối, Hội thảo “Vật lý học, văn hoá và
phát triển” đã được tổ chức tại Thành phố Hội An (tỉnh Quảng Nam) từ 31/7/2005
đến 01/8/2005. Gần 100 đại biểu là các nhà khoa học và nhà nghiên cứu, văn nghệ
sĩ đã tham dự Hội thảo với những tham luận khoa học về vật lý học, về tư tưởng của
A. Einstein. Những tham luận tại Hội thảo đã được xuất bản thành sách “Einstein -
dấu ấn trăm năm” (2006). Những nhà nghiên cứu, nhà văn hóa Việt Nam đã đánh
giá cao những thành tựu về khoa học và tư tưởng của A. Einstein. Những thành tựu
đó có tính chất bước ngoặt, thể hiện tính cách mạng và là những đóng góp quan
trọng của A. Einstein đối với lịch sử khoa học và tư tưởng của nhân loại. Giá trị về
nhân cách, đạo đức và nhân văn từ tư tưởng của A. Einstein được các nhà nghiên
cứu đánh giá là mẫu mực đối với cuộc sống và sự sáng tạo trong khoa học.
Chung quy, đối với những công trình, tư liệu dưới dạng tiểu sử đã giúp cho
người nghiên cứu đề tài có nhiều thông tin và cứ liệu về cuộc đời và sự nghiệp của
A. Einstein để đối chiếu, so sánh, hệ thống, phân tích và đánh giá làm cơ sở cho
việc nghiên cứu tư tưởng triết học của A. Einstein một cách toàn diện, có hệ thống.
2.2. Những công trình nghiên cứu về vật lý học của Albert Einstein
Nhà vật lý vĩ đại người Đức, người góp phần khai sinh ra cơ học lượng tử,
tác giả của nguyên lý bất định nổi tiếng, đã được nhận giải thưởng Nobel năm 1932
- W. Heisenberg, đã có loạt bài giảng về “Vật lý và triết học” được đọc tại Đại học
St. Andrews (Scotland) và xuất bản thành sách năm 1958 với nhan đề “Vật lý và
triết học”. Năm 2009, sách của W. Heisenberg đã được dịch sang tiếng Việt và Nhà
xuất bản Tri thức phát hành tại Việt Nam với tên gọi: “Vật lý và triết học-Cuộc cách
mạng trong khoa học hiện đại”.
Nhà vật lý lý thuyết có ảnh hưởng lớn hiện nay, S. Hawking, đã có hai cuốn
sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Trong mỗi cuốn ông đã dành cho thuyết
4
tương đối cũng như bản thân A. Einstein vị trí trang trọng về mặt phổ biến kiến thức
và nhận định, đánh giá ý nghĩa tư tưởng triết học. Hai cuốn sách đó là: “Lược sử
thời gian” và “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ”. Trong “Lược sử thời gian”, S. Hawking đã
trình bày những vấn đề căn bản của vật lý học như: bức tranh vũ trụ, không gian và
thời gian, vũ trụ giãn nở, nguyên lý bất định, các hạt cơ bản và các lực trong tự
nhiên, lỗ đen, lỗ sâu đục và lý thuyết thống nhất của vật lý học…
B. Greene, giáo sư vật lý của Đại học Colombia, Mỹ đã viết và xuất bản
cuốn “Giai điệu dây và bản giao hưởng vũ trụ”. Cuốn sách được phát hành với hy
vọng độc giả không được đào tạo chuyên sâu về vật lý và toán học có thể tiếp cận
được. Người đọc tìm thấy trong cuốn sách này sự cô đọng của những kiến thức vật
lý hiện đại như thuyết tương đối hẹp, thuyết tương đối mở rộng và cơ học lượng tử.
A. Aczel đã ví phương trình E = mc
2
của A. Einstein là “Phương trình của
Chúa” trong tác phẩm “Câu chuyện về Phương trình thâu tóm cả vũ trụ”. Qua tác
phẩm này, A. Aczel đã đánh giá ý nghĩa lịch sử và ảnh hưởng cũng như nền tảng
của “phương trình kỳ dị” đối với khoa học hiện tại và tương lai. F. Capra, giáo sư
vật lý tại các đại học và viện nghiên cứu danh tiếng của Mỹ và Anh đã xuất bản
cuốn “Đạo của vật lý”. F. Capra đã trình bày một cách khúc chiết các vấn đề vật lý
và các nền đạo học phương Đông như Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo.
Vật lý học và tư tưởng của A. Einstein còn hấp dẫn với cô gái sinh năm
1986 ở Berlin. Năm 17 tuổi, S. Camejo đã viết cuốn sách “Thế giới lượng tử kỳ bí”.
Sách đã đề cập những vấn đề liên quan đến A. Einstein và các công trình khoa học
của ông một cách sáng sủa. Về ánh sáng và vật chất, nguồn gốc của lượng tử, hiệu
ứng quang điện, nguyên lý bất định của W. Heisenberg, cuộc tranh luận N. Bohr -
A. Einstein, phương trình E. Schrodinger, nghịch lý EPR… đã được S. Camejo
trình bày và luận giải một cách ngắn gọn, dễ hiểu, giúp người đọc có những hiểu
biết nhất định về thuyết tương đối và vật lý học của A. Einstein.
Đối thoại giữa M. Ricard và Trịnh Xuân Thuận về những vấn đề liên quan
đến tâm linh, Phật giáo, triết học và vật lý là nội dung căn bản của tác phẩm “Cái vô
hạn trong lòng bàn tay- Từ Big bang đến Giác ngộ”. Với những nội dung được trình
5
bày: Tồn tại và không tồn tại, những vấn đề về thời gian, ngữ pháp của vũ trụ…
thông qua hình thức đối thoại, Trịnh Xuân Thuận và M. Ricard đã đề cập đến A.
Einstein và thuyết tương đối cả ở phương diện vật lý cũng như triết học. Trong quá
trình nghiên cứu khoa học, Trịnh Xuân Thuận ngưỡng mộ và đánh giá cao những
cống hiến vật lý học và tư tưởng triết học của A. Einstein. Với những tác phẩm như:
“Những con đường của ánh sáng” và “Trò chuyện với nhà vật lý thiên văn Trịnh
Xuân Thuận”, cùng một số tác phẩm khác đã xuất bản ở ngoài nước… Trịnh Xuân
Thuận đã nhận định và đánh giá ý nghĩa to lớn của học thuyết, tư tưởng của A.
Einstein và ảnh hưởng của A. Einstein đối với khoa học và cuộc sống hiện đại.
Ở Việt Nam, từ những năm 30 của thế kỷ XX, thuyết tương đối của A.
Einstein đã được phổ biến. Trong những năm gần đây, có nhiều tác phẩm giới thiệu
về cuộc đời và công trình khoa học của A. Einstein trong lĩnh vực vật lý; một số tác
giả đã có những bài báo, cuốn sách phân tích tư tưởng triết học của A. Einstein.
Nguyễn Ngọc Giao đã dành chương 3 trong quyển sách “Hạt cơ bản và vũ trụ” để
trình bày quan niệm về không gian, vật chất và vận động theo quan điểm của A.
Einstein. Nguyễn Xuân Chánh với tác phẩm “A. Einstein và khoa học công nghệ
hiện đại xung quanh ta”, đã đề cấp đến giá trị của thuyết tương đối, hiệu ứng quang
điện, công thức E = mc
2
… của A. Einstein và giá trị thực tế của nó đối với khoa học
và đời sống. Hai tác giả Nguyễn Cảnh Lâm và Minh Đức đã xuất bản tác phẩm
“Những người khám phá thế giới bí ẩn A. Einstein và S. Freud”; sách đề cập đến
hai nhà khoa học và tư tưởng đã sáng tạo ra hai ngành khoa học mới: vũ trụ học và
phân tâm học.
Nhóm các tác giả Đặng Mộng Lân, Đoàn Nhượng và Phạm Văn Thiều có
tác phẩm “Albert Einstein và sự tiến triển của vật lý học hiện đại”. Sách đã được
biên soạn và dịch thuật giới thiệu những vấn đề chính liên quan đến thuyết tương
đối và tư tưởng của A. Einstein. Với 406 trang, sách đã trình bày những nội dung
vật lý và triết học gắn liền với A. Einstein như: A. Einstein từ năm kỳ diệu (1905)
cho đến lý thuyết trường thống nhất, ý nghĩa triết học của lý thuyết tương đối, kiểm
tra thực nghiệm lý thuyết tương đối, vũ trụ học hiện đại từ A. Einstein cho đến ngày
6
nay, vật lý học trong kỷ nguyên mới. Là một tác phẩm dịch thuật và tổng hợp,
“Albert Einstein và sự tiến triển của vật lý học hiện đại” đã giúp cho người đọc có
tầm nhìn đầy đủ về thuyết tương đối cũng như ý nghĩa triết học có được từ thuyết
tương đối của A. Einstein.
Năm 2008, nhân sinh nhật lần thứ 150 (1858-2008) của M. Planck - người đã
khai sinh ra thuyết lượng tử, một kỷ yếu về ông: “Max Planck người khai sáng
thuyết lượng tử”, đã được xuất bản tại Việt Nam, trong đó có một số bài viết về A.
Einstein và thuyết tương đối. Thông qua quyển sách này, người đọc được cung cấp
những thông tin, tư liệu liên quan đến hai trụ cột của nền vật lý hiện đại đầu thế kỷ
XX: thuyết tương đối và thuyết lượng tử.
Nhìn chung, những tư liệu và công trình về vật lý học và thuyết tương đối
có ý nghĩa quan trọng đối với đề tài luận án. Thông qua việc khảo cứu, giúp cho
người thực hiện đề tài nắm bắt được những nội dung quan trọng về vai trò, vị trí của
thuyết tương đối trong sự phát triển của vật lý học cũng như giá trị của nó trong
việc định hình tư tưởng triết học của A. Einstein dưới góc độ bản thể luận và nhận
thức luận.
2.3. Những công trình, tư liệu về tư tưởng triết học của A. Einstein
Một trong những công trình nghiên cứu tương đối sớm về A. Einstein đó là
“Einstein: cuộc sống và thời đại” của F. Frank xuất bản năm 1947. Với tác phẩm
này, F. Frank đã nghiên cứu rất công phu về cuộc đời và sự nghiệp và tác động của
những công trình vật lý của A. Einstein cùng với sự tiến triển của vật lý học hiện
đại. Đặc biệt, F. Frank đã sớm đề cập đến ý nghĩa triết học của thuyết tương đối của
A. Einstein. Thông qua công trình này, F. Frank đã gợi mở hướng nghiên cứu về A.
Einstein với tư cách là nhà triết học khoa học có tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Năm 1949, P. Schilpp xuất bản tác phẩm “Albert Einstein – Nhà triết học
khoa học”. Đây là một trong những quyển sách đầu tiên nghiên cứu về A. Einstein
với tư cách là nhà triết học. Thông qua tác phẩm, P. Schilpp đã giới thiệu, nhận định
và đánh giá tư tưởng triết học của A. Einstein. Nhà triết học D. Howard đã gọi A.
Einstein là nhà triết học khoa học và có nhiều công trình nghiên cứu về A. Einstein.
7
Tiêu biểu như “Albert Einstein nhà triết học khoa học” và “Albert Einstein và sự
phát triển của triết học khoa học thế kỷ XX”. D. Howard đã đánh giá những thành
tựu vật lý có ý nghĩa triết học của A. Einstein cũng như sự ảnh hưởng của các nhà
triết học trước đó là E. Mach, J. Poincaré, S. Mill, R. Avenarius, K. Pearson, R.
Dedekind, D. Hume đối với việc hình thành tư tưởng triết học của A. Einstein.
S. Thorpe đã đánh giá cao phương pháp tư duy của A. Einstein qua tác
phẩm “Tư duy như Einstein”. Cuốn sách gồm 11 chương và 2 phụ lục, hai chương
đầu giới thiệu khái quát về A. Einstein và nguyên tắc tư duy của ông. Đánh giá
những ảnh hưởng của A. Einstein đối với thế kỷ XXI, nhóm các tác giả P. Galison,
G. Holton và S. Schweber đã biên tập và xuất bản cuốn sách “A. Einstein for the
21
st
Century: His Legacy in Science, Aart, and Modern Culture”, do Nhà xuất bản
Đại học Princeton ấn hành năm 2008. Cuốn sách tổng hợp những bài viết về khoa
học, nghệ thuật và văn hóa hiện đại dưới tác động của học thuyết và tư tưởng của A.
Einstein cũng như sức lan tỏa của học thuyết A. Einstein đối với thế kỷ XXI.
Gần đây, W. Isaacson nhà báo Mỹ, Tổng giám đốc điều hành của CNN và
Tổng biên tập Tạp chí Time, chuyên viết về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng đã công
bố tác phẩm “Einstein cuộc đời và vũ trụ”. Trong cuốn sách này, W. Isaacson đã
lược sử, đánh giá những đóng góp quan trọng của A. Einstein đối với vũ trụ học.
Theo W. Isaacson, lý thuyết của A. Einstein đã có những tác động đối với thế giới
quan và nhận thức luận của con người về vũ trụ. Cuốn sách được giáo sư vật lý B.
Greene của Đại học Colombia, Mỹ (tác giả của sách “Giai điệu dây và bản giao
hưởng vũ trụ”) nhận xét: Isaacson đã mô tả bức tranh trọn vẹn về A. Einstein một
cách chính xác và khoa học. Isaacson giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về cuộc sống,
tâm hồn, và sự nghiệp khoa học của một nhân vật đã thay đổi toàn bộ quan điểm
của chúng ta về vũ trụ. Thật vậy, với “Einstein cuộc đời và vũ trụ”, W. Isaacson đã
trình bày và đánh giá toàn bộ cuộc đời của A. Einstein gắn với những sự kiện và
thành tựu; đây là nguồn tư liệu có ý nghĩa, góp phần quan trọng để chúng tôi hoàn
thành đề tài này.
8
Tác giả có đóng góp lớn trong việc nghiên cứu cuộc đời và sự sáng tạo của
A. Einstein với tư cách là nhà vật lý, nhà tư tưởng là Nguyễn Xuân Xanh với tác
phẩm “Einstein” (2007). Sau khi xuất bản, sách đã được các học giả khen ngợi là
tác phẩm nghiên cứu công phu nhất về cuộc đời và sự nghiệp của A. Einstein được
xuất bản ở Việt Nam. Thông qua tác phẩm này, Nguyễn Xuân Xanh đã tổng hợp
những tư liệu phong phú về cuộc đời và sự nghiệp của A. Einstein, trong đó đề cập
khá sâu sắc đến tư tưởng triết học và giá trị nhân văn của A. Einstein. Đặc biệt,
Nguyễn Xuân Xanh đã dành hai chương cuối cùng của quyển sách (chương 9 và 10)
có tên gọi “Einstein – Con người giải phóng”, nhận định và đánh giá tư tưởng triết
học dưới góc độ bản thể luận, nhận thức luận cũng như tư duy độc lập và sáng tạo
của A. Einstein.
PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng có loạt bài nghiên cứu về A. Einstein đăng trên
các tạp chí trong nước như: “Quan niệm về sự bất tử của con người” (Tạp chí Tâm
lý học, số 10, 2002), “Quan điểm của A. Anhxtanh về quan hệ giữa tôn giáo và
khoa học” (Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, 2003), “A. Anhxtanh - Nhà khoa học,
nhà triết học” (Tạp chí Triết học, số 4, 2003), “Quan niệm của A. Einstein về con
người, động cơ, mục đích và ý nghĩa của cuộc sống” (Tạp chí Nghiên cứu con
người, số 3, 2003). Thông qua các bài báo, Nguyễn Tấn Hùng đã trình bày và bước
đầu đánh giá A. Einstein trên nhiều phương diện: con người, khoa học và tôn giáo,
giá trị nhân văn và tư tưởng triết học; gợi mở hướng nghiên cứu về A. Einstein với
tư cách là một nhà triết học - một vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
Bùi Văn Mưa với luận án tiến sĩ “Triết học và Bức tranh vật lý học về thế
giới”, đã được in thành sách, đi sâu phân tích bức tranh vật lý học về thế giới trong
lịch sử phát triển của nó; trong đó đã đề cập đến bức tranh vật lý học về thế giới và
ý nghĩa triết học của học thuyết A. Einstein.
Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy rằng, đã có nhiều
công trình về A. Einstein ở trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu, đánh giá về
A. Einstein ở nhiều góc độ: cuộc đời và sự nghiệp của một nhà khoa học vĩ đại; nhà
vật lý học với những phát minh làm thay đổi thế giới; nhà triết học, với những tư
9
tưởng, quan điểm có ý nghĩa đối với lịch sử triết học. Tư tưởng triết học của A.
Einstein đã được các tác giả phân tích và đánh giá trên các mặt sau:
- Ý nghĩa triết học của thuyết tương đối.
- Tư tưởng bản thể luận và nhận thức luận.
- Tư tưởng tôn giáo và mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo.
- Giá trị nhân văn trong tư tưởng của A. Einstein.
Từ những công trình đã xuất bản về A. Einstein, chúng tôi nhận thấy rằng
các tác giả đã nghiên cứu và có đánh giá hầu hết những khía cạnh triết học trong
học thuyết và tư tưởng của nhà khoa học, nhà triết học A. Einstein. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ và có tính hệ
thống về tư tưởng triết học của A. Einstein.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng triết học của A. Einstein một cách khái quát và có hệ
thống trên các phương diện: tư tưởng bản thể luận, tư tưởng nhận thức luận, vấn đề
nhân sinh quan; từ đó rút ra những giá trị và đóng góp của A. Einstein đối với sự
phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ: Trình bày những điều
kiện, tiền đề hình thành tư tưởng triết học A. Einstein; khái quát và hệ thống tư
tưởng triết học của A. Einstein trên các phương diện: bản thể luận, nhận thức luận,
vấn đề nhân sinh quan; đánh giá ý nghĩa lịch sử tư tưởng triết học của A. Einstein.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc trong
nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở lý luận chung, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi còn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phân tích - tổng hợp,
logic - lịch sử, phương pháp hệ thống - cấu trúc, khái quát hóa - hệ thống hóa và các
phương pháp khác
10
5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận án
5.1. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã trình bày một cách có hệ thống và tương đối đầy đủ về tư
tưởng triết học của A. Einstein trên các mặt: bản thể luận, nhận thức luận, vấn đề
nhân sinh quan, mà từ trước đến nay ở nước ta chưa có một công trình nào thực
hiện.
- Luận án đã phân tích và rút ra ý nghĩa triết học của những phát minh trong
lĩnh vực vật lý học của A. Einstein, như thuyết tương đối nói chung, không - thời
gian, vận động, công thức E = mc
2
, tính thống nhất vật chất trong thế giới vi mô…
mở ra khả năng vận dụng những thành tựu trong lĩnh vực khoa học này vào nghiên
cứu và phát triển triết học.
- Luận án đã chứng minh tư tưởng nhân văn của A. Einstein với quan điểm
về ý nghĩa cuộc sống, chủ nghĩa hòa bình, giáo dục tư duy độc lập; tinh thần quả
cảm trong khoa học và lối sống giản dị của nhà khoa học vĩ đại, là mẫu mực về
quan niệm sống, là tấm gương sáng để mọi người noi theo.
5.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Về lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về bản thể luận,
nhận thức luận, nhân sinh quan của A. Einstein theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
Về thực tiễn: Luận án là cơ sở để thúc đẩy việc nghiên cứu tư tưởng triết
học của A. Einstein ở Việt Nam trong thời gian đến. Tư tưởng nhân văn của A.
Einstein góp phần giáo dục lòng yêu chuộng hòa bình, lòng tự trọng và sáng tạo
trong nghiên cứu và học tập, rèn luyện kỹ năng sống cho mọi người nói chung và
thế hệ trẻ nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học trong các trường đại học và cao đẳng. Luận
án sau khi hoàn thành và bảo vệ cấp cơ sở đào tạo có thể được xuất bản thành sách
phục vụ cho việc tham khảo trong giảng dạy và học tập.
6. Kết cấu của Luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
11
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN
Nghiên cứu về A. Einstein, chúng ta thấy rằng tư tưởng triết học của A.
Einstein xuất phát từ: điều kiện lịch sử, tiền đề khoa học tự nhiên, tiền đề tư tưởng -
lý luận và tư duy độc lập của Albert Einstein. Mỗi điều kiện, tiền đề có vị trí riêng
tạo nên chỉnh thể vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn trong quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng triết học của A. Einstein.
1.1. Điều kiện lịch sử hình thành tư tưởng triết học của Albert Einstein
1.1.1. Tình hình nước Đức cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Nước Đức vào những năm cuối thế kỷ XIX có một nền kinh tế phát triển vô
cùng thuận lợi. Sau chiến tranh Pháp – Phổ (1870 -1871), nước Đức được bồi
thường 5 tỷ fran và làm chủ Alsace và Lorraine, hai vùng đất giàu có về tài nguyên,
khoáng sản. Nguồn tài chính và tài nguyên có được nhờ chiến tranh là điều kiện
quan trọng để Đức xây dựng và phát triển một nền kinh tế hiện đại.
Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước Đức với xu hướng chuyển dần
từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc với tính chất điển hình; những hạn chế,
khuyết tật của mô hình kinh tế cũng dần dần xuất hiện. Đó chính là điều kiện quan
trọng, các tác động mạnh mẽ đối với A. Einstein dưới góc độ tư tưởng về việc cần
thiết phải hướng tới và xây dựng một xã hội tốt đẹp, mang tính nhân văn.
1.1.2. Chính trị - xã hội nước Đức cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với những biến động về chính trị - xã
hội ở nước Đức vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là nguyên nhân trực tiếp của
đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao mang bản chất hiếu chiến và xâm lược. Đó
cũng là hệ quả thảm khốc mà thế giới phải gánh chịu từ hai cuộc đại chiến thế giới
do nước Đức quân phiệt và phát xít phát động.Chiến tranh với những hậu quả đã
làm cho A. Einstein nhận diện đúng bản chất của nó và có thái độ hết sức rõ ràng
12
trong việc chống chiến tranh. Sống trong lòng chủ nghĩa tư bản nên ông đã hiểu rõ
những khiếm khuyết về kinh tế và giáo dục của xã hội tư bản để từ đó ông hướng
đến một nền giáo dục nhân bản, vì sự phát triển của con người. Từ tiền đề chính trị -
xã hội với những nét đặc trưng như vậy là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng
nhân văn của A. Einstein.
1.2. Những tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Albert Einstein
1.2.1. Tiền đề khoa học tự nhiên
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lĩnh vực vật lý học đã xuất hiện những
thành tựu mới như: W. Röntgen phát hiện ra tia X, A. Becquerel phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ, J. Thomson phát hiện ra điện tử và chứng minh điện tử là một trong
những thành phần cấu tạo nên nguyên tử …Những phát minh đó đã tác động mạnh
mẽ đến bản thể luận và nhận thức luận triết học, đòi hỏi nhận thức luận phải có tư
duy khác, trên cơ sở những khám phá của vật lý học hiện đại. Thuyết tương đối của
A. Einstein mang bản chất cách mạng về thế giới vật chất với tất cả sự khác biệt, đã
đem lại cho con người những thay đổi lớn lao trong nhận thức khoa học và cải tạo
thế giới. Chính những tiền đề khoa học tự nhiên là cơ sở quan trọng hình thành tư
tưởng bản thể luận, nhận thức luận trong triết học của A. Einstein.
1.2.2. Tiền đề tư tưởng và lý luận
Tư tưởng triết học của A. Einstein có cội nguồn từ việc say mê triết học và
sử dụng những nguyên lý triết học phục vụ cho khoa học của ông. A. Einstein sớm
quan tâm đến các tác phẩm triết học của B. Spinoza, I. Kant, A. Shopenhauer…
Trong thời gian ở Thụy Sĩ, A. Einstein đã say mê tìm và đọc nhận thức luận của D.
Hume, E. Mach. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để giải quyết những vướng mắc
khi lý giải những đột phá trong lĩnh vực vật lý học, A. Einstein đã sử dụng triết học
làm nền tảng cho khoa học.
Việc tiếp nhận những giá trị tư tưởng của những người đi trước có ý nghĩa
quan trọng trong việc hình thành tư tưởng của A. Einstein. Ông đã đánh giá cao và
kế thừa được những giá trị trong các học thuyết triết học, kể cả triết học duy tâm
chủ quan, vốn là đối tượng phê phán và bác bỏ của chủ nghĩa duy vật biện chứng;
13
nhưng A. Einstein đã có cách nhìn khác, thấy được mặt hợp lý và đã vận dụng được
tư tưởng của các nhà triết học này vào sự phát triển thuyết tương đối. Có thể khẳng
định rằng, quan điểm của A. Einstein về Thượng đế, về mối quan hệ giữa khoa học
và tôn giáo nói riêng và tư tưởng triết học nói chung xuất phát trực tiếp từ những
tiền đề tư tưởng và lý luận như đã trình bày.
1.3. Tư duy độc lập của Albert Einstein
Tư duy độc lập và sáng tạo của A. Einstein thể hiện qua phương tiện tư duy
mạnh mẽ - “tự do nội tâm”. Theo ông, chỉ có tự do nội tâm con người mới có thể
hành động độc lập và tạo ra những thành quả mang dấu ấn cá nhân hữu ích nhất và
thành quả này sẽ góp phần mang lại ích lợi cho cộng đồng, như có một “bàn tay vô
hình” xúi giục họ làm điều đó. A. Einstein chủ trương con người cần có tự do nội
tâm, cần phát huy tính độc lập trong sáng tạo, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và
học tập. Tư duy độc lập và sáng tạo của A. Einstein đã trở thành nhân cách của ông;
nhân cách đó đã mang lại cho nhân loại những giá trị khoa học và tư tưởng triết học
có giá trị.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Cùng với những điều kiện lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai
đoạn nở rộ của những phát minh khoa học, đặt con người trước những thách thức về
sự hiểu biết và cải tạo thế giới. Những phát minh trong lĩnh vực vật lý học đã tạo ra
một cuộc khủng hoảng thật sự trong khoa học; tuy nhiên, nó đã góp phần chỉ ra sự
giới hạn trong nhận thức của con người, cần phải có phương pháp mới để khắc phục
và nhận thức thế giới khách quan một cách phù hợp.
Kế thừa tư tưởng trước đó, tiếp cận giá trị khoa học đương thời, cùng với
“tư duy mới”, thành tựu trong khoa học và tư tưởng của A. Einstein góp phần giải
quyết cuộc khủng hoảng trong vật lý học và triết học đầu thế kỷ XX. Đó chính là cơ
sở cho sự hình thành tư tưởng triết học của A. Einstein dưới góc độ bản thể luận và
nhận thức luận. Việc đánh giá đúng tính chất của thời đại, cùng sự sáng tạo của một
nhân vật vĩ đại sẽ giúp chúng ta có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử để
14
nhận diện và đánh giá đúng tư tưởng triết học của A. Einstein và ý nghĩa của tư
tưởng ấy trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN
Đối với triết học, A. Einstein đã có những đóng góp ý nghĩa. Tư tưởng triết
học của ông góp phần giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và được thể hiện trên
nhiều phương diện. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ khái quát và đánh giá tư
tưởng triết học của A. Einstein ở ba nội dung cơ bản: tư tưởng bản thể luận, tư
tưởng nhận thức luận và vấn đề nhân sinh quan.
2.1. Tư tưởng của Albert Einstein về bản thể luận
Trên thế giới, một số nhà lịch sử, nhà triết học, nhà nghiên cứu đã xem A.
Einstein là nhà triết học thông qua những công trình vật lý, những bài nói, những
bài viết cũng như ngay chính đời sống rất riêng tư và đặc biệt của ông. Tư tưởng
của A. Einstein về bản thể luận được thể hiện thông qua những phát hiện và quan
điểm của ông về cấu trúc, hình thức tồn tại và sự thống nhất của thế giới vật chất.
2.1.1. Quan điểm của Albert Einstein về cấu trúc của vật chất
Cùng với những thành tựu đạt được trong vật lý học, hóa học, triết học đầu
thế kỷ XX, A. Einstein đã có những đóng góp dưới góc độ vật lý học và triết học
thông qua những quan điểm mới mẻ về cấu trúc của vật chất. Quan điểm của A.
Einstein về cấu trúc của vật chất, theo chúng tôi thể hiện ở hai vấn đề nổi bật: bản
chất của ánh sáng và mối quan hệ giữa khối lượng và năng lượng.
Bằng quan niệm tính chất lưỡng tính của ánh sáng, bức tranh vật lý học về
thế giới của A. Einstein luôn mang tính tương đối và ông đã chỉ cho chúng ta chỉ có
một cái tuyệt đối đó là tốc độ ánh sáng. Mọi thứ khác đều nằm trong giới hạn tốc độ
lớn nhất này. Với công thức E = mc
2
, thuyết tương đối hẹp của A. Einstein đã mở ra
một chân trời mới của khoa học có ý nghĩa triết học dưới góc độ bản thể luận. Trên
cơ sở các định luật về bảo toàn khối lượng và năng lượng, mối quan hệ giữa năng
lượng và khối lượng đã góp phần khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật
15
biện chứng: vật chất không sinh ra, cũng không mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này
sang dạng khác.
2.1.2. Quan điểm của Albert Einstein về không - thời gian
Không gian và thời gian hay các hình thức tồn tại của vật chất được A.
Einstein trình bày trong thuyết tương đối. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của học thuyết
là tính chất cách mạng trong quan điểm của A. Einstein về không gian và thời gian.
Không gian của A. Einstein khác một cách sâu sắc với không gian của I. Newton.
Không gian I. Newton tĩnh và bất động. Đó chỉ là cái sân khấu thụ động nơi diễn ra
các tấn kịch của vũ trụ với diễn viên là các hành tinh, các ngôi sao và các thiên hà.
Với quan điểm mới, A. Einstein đã cho không gian một vai diễn. Không gian đã vứt
bỏ tính thụ động của mình và trở nên động. Nó có thể co, giãn, biến dạng hoặc xoắn
lại tùy theo lực hấp dẫn. Bản thể luận triết học trong quan niệm về các hình thức tồn
tại của vật chất theo thuyết tương đối của A. Einstein ở tính chất mới mẻ và đúng
đắn của nó: tính tương đối của không gian và thời gian và một chiều mới do A.
Einstein phát hiện: không - thời gian.
2.1.3. Quan điểm của Albert Einstein về sự thống nhất của thế giới
Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin, quan niệm về sự thống nhất thế
giới của A. Einstein thể hiện tính duy vật và biện chứng. Ông đã trực tiếp hoặc gián
tiếp thừa nhận thế giới là vật chất, không do ai sáng tạo ra cũng không thể bị tiêu
diệt; tồn tại khách quan và độc lập với nhận thức của con người. A.Einstein luôn đặt
sự đa dạng trong thống nhất để nghiên cứu, nhận thức và ông xem sự thống nhất có
được dựa trên sự chi phối của các quy luật tự nhiên. Trong một cuộc trò chuyện với
R. Tagore vào năm 1930, A. Einstein đã nói: “Có hai khái niệm khác nhau về bản
chất của vũ trụ: Thế giới là một sự hài hòa phụ thuộc vào con người. Thế giới là
một thực thể không phụ thuộc vào nhân tố con người”. Quan niệm của A. Einstein
cho thấy, vũ trụ luôn hài hòa vì cuộc sống tươi đẹp của con người. Mặt khác, thế
giới là một thực thể độc lập với con người; do vậy, vũ trụ sẽ không có chỗ cho một
Thượng đế được sản sinh từ cảm giác của con người chi phối mọi hoạt động.
16
2.2. Tư tưởng của Albert Einstein về nhận thức luận
Khảo cứu về tư tưởng của A. Einstein, chúng ta nhận thấy rằng đối với nhận
thức luận, ông đã có những đóng góp giá trị qua thuyết thực tại và con đường nhận
thức thế giới khách quan.
2.2.1. Thuyết thực tại của Albert Einstein
Với thuyết thực tại, A. Einstein quan niệm rằng có một sự thực tồn tại độc
lập với khả năng quan sát của chúng ta. Để nhận thức chân lý khách quan, A.
Einstein đã xuất phát từ thực tại vật lý, ông tin rằng mọi tri thức đạt được đều có cơ
sở khoa học và phải được kiểm chứng mà không chấp nhận bất kỳ sự ngẫu nhiên,
may rủi. Chân lý đạt được trong nhận thức của A. Einstein là phức hợp của trực
giác, lý tính và của cả kinh nghiệm thực tiễn. Bằng trực giác và trải nghiệm khoa
học, coi trọng khả năng thấu triệt của tư duy lý tính, song ông không xem thường
nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức luận của A. Einstein không phải là chủ nghĩa
duy lý hay chủ nghĩa kinh nghiệm mà chính ông đã kết hợp được những yếu tố hợp
lý và khắc phục được những hạn chế của hai khuynh hướng đối lập này. Đó là vấn
đề có giá trị trong tư tưởng triết học của A. Einstein đối với sự phát triển của lý luận
nhận thức.
2.2.2. Con đường nhận thức của Albert Einstein
Nhận thức là quá trình chinh phục và cải tạo giới tự nhiên của con người.
Với A. Einstein, đây là một quá trình phức tạp trải từ kinh nghiệm đến lý tính. Về
con đường nhận thức, A. Einstein đã có quan điểm biện chứng khi không tuyệt đối
hóa nhận thức cảm tính hoặc nhận thức lý tính, mà đặt chúng trong mối quan hệ hài
hòa, bổ sung cho nhau. Trong nhận thức chân lý, A. Einstein đã đề cập đến trí tưởng
tượng (trực giác) và xem nó như là một công cụ cần thiết đối với nhận thức khoa
học. Với ông, đối tượng của quá trình nhận thức là thế giới khách quan. Tuy nhiên,
đối với mỗi người và nhân loại, kết quả đạt được trong nhận thức chỉ là bộ phận,
17
một vùng của thế giới mà thôi. Những phần còn lại của thế giới khách quan không
phải là “vật tự nó” như I. Kant quan niệm. Theo A. Einstein, đó là những bí ẩn của
thế giới mà con người cần phải tiếp tục tìm hiểu và nhận thức. Những bí ẩn của thế
giới không phải là “không thể biết” mà nó chính là động lực để con người và khoa
học hướng đến và lý giải trong tương lai.
2.3. Vấn đề nhân sinh quan trong triết học của Albert Einstein
2.3.1. Quan điểm của Albert Einstein về tôn giáo và mối quan hệ giữa
khoa học và tôn giáo
Từ thực tiễn nhận thức thế giới, A. Einstein đã bộc lộ quan điểm thế giới
quan và nhân sinh quan của mình. Ông cho rằng không có Thượng đế cá nhân. Thế
giới tự nhiên huyền bí chi phối cuộc sống con người chỉ là đối tượng nghiên cứu
của khoa học trong sự say mê khám phá bí ẩn của vũ trụ. Mặc dù ngưỡng mộ B.
Spinoza và nhiều lần nói rằng quan niệm của ông về Thượng đế gần giống với B.
Spinoza, song ông không phải là người thuộc phiếm thần luận cũng như tự nhiên
thần luận. Thế giới tự nhiên phong phú, đa dạng được chi phối bởi các quy luật - đó
chính là Thượng đế theo quan niệm của A. Einstein.
Tư tưởng về tôn giáo của A. Einstein đã thể hiện ông là một nhà khoa học-
nhà triết học tự mâu thuẫn. Dưới góc độ vật lý học; lượng tử là lĩnh vực mà ông có
công đầu khám phá, tuy nhiên với “tính bất định” lượng tử, ông là người phản đối
một cách cực đoan. Cuộc tranh luận kéo dài 30 năm giữa ông và “Trường phái
Copennhagen” xuất phát từ mâu thuẫn của chính ông nhằm để chứng minh quy luật
vũ trụ hài hòa. Dưới góc độ triết học, ông kiên quyết phê phán quan niệm về
Thượng đế cá nhân, nhưng lại phát biểu:“Tôi không phải là một người vô thần, và
tôi không nghĩ tôi có thể gọi mình là một người phiếm thần luận”.
2.3.2. Quan điểm của Albert Einstein về con người và ý nghĩa cuộc sống
Dấn thân trong các hoạt động xã hội, quan điểm của A. Einstein về con
người đã thể hiện mối quan hệ giữa bản năng sơ đẳng và mặt xã hội trong bản chất
của con người. Trong mối quan hệ ấy, sự gắn kết giữa cá nhân với xã hội thông qua
các hoạt động vừa là mục đích vừa là động cơ, được thể hiện một cách hài hòa để
18
con người khẳng định giá trị sống và cống hiến. Bàn về ý nghĩa cuộc sống, A.
Einstein cho rằng con người chỉ có thể tìm thấy được giá trị đích thực và ý nghĩa
thật sự với những việc làm không vụ lợi, hướng đến hạnh phúc cao cả của nhân
loại. Quan điểm về con người và ý nghĩa cuộc sống của A. Einstein mang tính biện
chứng, vì ông thấy được mối quan hệ thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
của con người nếu chúng ta đối chiếu với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Mặt khác, quan điểm của A. Einstein thể hiện tính nhân văn vì mục đích của
tất cả hoạt động của con người là vì cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa thật sự có được
cho mỗi cá nhân và cho toàn nhân loại.
2.3.3. Chủ nghĩa hòa bình của A. Einstein
Chủ nghĩa hòa bình là vấn đề chủ đạo, xuyên suốt trong cuộc sống của A.
Einstein. Tất cả điều đó giúp chúng ta có tầm nhìn đầy đủ dưới góc độ nhân văn về
tư tưởng chống bạo lực, bất công, sự thù hằn giữa các dân tộc và đề cao chủ nghĩa
hòa bình mà ông luôn theo đuổi. Chính vì thế, sau khi ông mất, đã có nhiều bình
phẩm đánh giá về ông với tư cách là “một nhà khoa học đam mê và chân thật”, một
con người vĩ đại luôn mang trong mình những giá trị tốt đẹp nhất. B. Russell nhà
triết học Anh, khi nhận xét về ông đã viết: “Einstein không những là một nhà khoa
học vĩ đại, ông còn là một con người vĩ đại. Ông đấu tranh cho hòa bình trong một
thế giới đang tiến dần về chiến tranh. Ông vẫn thánh thiện trong một thế giới điên
loạn, và phóng khoáng trong tư duy trong một thế giới của những người cuồng tín”.
2.3.4. Tư tưởng giáo dục của A. Einstein
Tư tưởng giáo dục A. Einstein là cách nhìn khác về nhà trường, vị trí của
người thầy, giá trị của giáo dục, phương pháp và động cơ học tập. Quan niệm đó
hướng giáo dục đến giá trị nhân bản, đến mục tiêu phát triển con người hài hòa và
toàn diện, để trường học mãi là nơi tốt nhất làm nên chân, thiện, mỹ ở mỗi con
người. Đó cũng là góc nhìn tham chiếu đáng suy ngẫm về cách thức “đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài” của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Đề cao tư duy độc lập của
mỗi cá nhân, A. Einstein nhấn mạnh tính cá thể trong hoạt động và sáng tạo, bởi vì
mọi thành quả mà nhân loại có được phần lớn đều là kết quả của hoạt động sáng tạo
19
của mỗi con người. Song, A. Einstein cũng thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa cá
nhân và xã hội. Mọi thành tựu cá nhân chỉ có giá trị khi mục đích của nó là phục vụ
cho sự phát triển của xã hội và mang lại hạnh phúc cho nhân loại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Tư tưởng triết học của A. Einstein gồm ba nội dung cơ bản: bản thể luận,
nhận thức luận và vấn đề nhân sinh quan; giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, thể hiện thế giới quan duy vật biện chứng. Tư tưởng triết học của A. Einstein
có tính độc đáo, là kết quả của những thành tựu khoa học tự nhiên trong thời kỳ
mới, sự kế thừa tinh hoa nhân loại và sự sáng tạo vượt bậc trong tư duy nổi trội của
ông. Tư tưởng triết học A. Einstein là sự nhận thức sâu sắc của con người về cấu
trúc và bản chất của thế giới, góp phần hoàn thiện thế giới quan triết học. Toàn bộ
nội dung tư tưởng triết học của A. Einstein có ý nghĩa vạch thời đại, là những đóng
góp quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử triết học nhân loại.
Chương 3
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN
Thông qua tư tưởng triết học của A.Einstein giúp chúng ta định hình về
khuynh hướng phát triển của triết học hiện đại nói chung và tính chất cách mạng
trong tư tưởng của A. Einstein nói riêng. Từ việc phân tích và đánh giá có tính hệ
thống tư tưởng triết học của A. Einstein, chúng tôi nhận thấy rằng ý nghĩa lịch sử từ
tư tưởng triết học của A. Einstein được thể hiện như sau:
3.1. Tư tưởng triết học của Albert Einstein là nhận thức sâu sắc của con
người về thế giới, góp phần hoàn thiện thế giới quan triết học
3.1.1. Thuyết tương đối – sự phủ nhận vai trò của Thượng đế và minh
chứng về một vũ trụ hài hòa
Thuyết tương đối mở lối cho chúng ta có tầm nhìn đúng đắn về nguyên lý
sáng thế và phủ nhận vai trò của Thượng đế trong việc tạo dựng thế giới. Từ sự phủ
20
nhận vai trò của Thượng đế, A. Einstein tin tưởng mạnh mẽ vào sự hài hòa, có trật
tự của vũ trụ; thuyết tương đối rõ ràng là một minh chứng đầy đủ nhất thể hiện sự
tin tưởng đó.
Từ quan niệm khác biệt về không gian và thời gian, A. Einstein đã chứng
thực rằng không gian và thời gian có tính tương đối. Thuyết tương đối của A.
Einstein đã mang lại cho khoa học và triết học một cấu trúc mới là không - thời
gian, giúp con người trả lời về những vấn đề cơ bản nhất của thế giới.
3.1.2. Tư tưởng bản thể luận của Albert Einstein – sự hoàn thiện thế
giới quan triết học.
Với khám phá của A. Einstein từ thuyết tương đối, ông đã chỉ ra con đường
đi tới một triết học cao hơn triết học tổng hợp tiên nghiệm Những quan điểm của
A. Einstein đã giúp cho triết học có sự nhìn nhận đầy đủ một số tính chất của thế
giới theo quan niệm duy vật biện chứng.
Thuyết tương đối đã đem lại sự thay đổi căn bản trong quan niệm về vận
động của vật chất, phù hợp với quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các
sự vật cụ thể trong thế giới vật chất không tồn tại vĩnh viễn mà phải tuân theo các
quy luật của phép biện chứng; vật chất tồn tại vĩnh viễn, không sinh ra cũng không
mất đi, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác có đầy đủ cơ sở khoa học và
được chứng minh.
3.2. Ý nghĩa cách mạng trong nhận thức luận của Albert Einstein
3.2.1. Thuyết tương đối – tư duy mới về những vấn đề cũ
Thuyết tương đối của A. Einstein là một cuộc cách mạng trong nhận thức,
đã làm đổi thay sự hiểu biết của con người do tính chất mới mẻ của lý thuyết này
mang lại. Với trí tưởng tượng phong phú và tư duy độc lập, phá bỏ những lối mòn;
thuyết tương đối đã đặt vật lý học, và nhận thức luận triết học trước những câu hỏi
có tính khoa học và thực tiễn.
Nhận thức luận của A. Einstein đã cho chúng ta thấy rằng nhận thức là một
quá trình phức tạp, từ “cảm tính” đến “lý tính” và luôn tồn tại giới hạn. Xét về bản
21
chất, trong một thời gian nhất định, con người khó lòng nhận thức hết được bản chất
của thế giới và vũ trụ; đó chính là giới hạn của nhận thức.
3.2.2. Nhận thức luận của Albert Einstein và yêu cầu đổi mới tư duy
Nhận thức luận của A. Einstein đặt ra yêu cầu đối với con người - phải đổi
mới tư duy. Nhận thức luận của A. Einstein đã cung cấp phương pháp mới để lý
giải các vấn đề vật lý học chưa được biết từ thời I. Newton. Ông đã phát triển một
phương pháp mới để đo những kích thước cơ bản của thế giới chúng ta trong thời
gian và không gian.
3.3. Giá trị nhân văn trong tư tưởng triết học của Albert Einstein
3.3.1. Nhân sinh quan của Albert Einstein thể hiện quan điểm duy vật
vô thần, có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo
Tư tưởng về tôn giáo của A. Einstein có ý nghĩa về mặt nhận thức luận,
nhân sinh quan; cũng như từ đó giúp chúng ta có hiểu biết đúng đắn về các tôn giáo
trong sự phát sinh và phát triển của nó. Quan điểm về Thượng đế của A. Einstein
thể hiện lập trường duy vật, vô thần có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo. Ông đã khẳng định, không thể có một Thượng đế cá nhân chi phối cuộc sống
hiện thực.
Quan điểm của A. Einstein về mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học và sự
khẳng định giá trị của khoa học trong việc nhận thức và cải tạo thế giới thể hiện
những yếu tố tích cực. A. Einstein đã nhìn thấy triết lý Phật giáo có những yếu tố
tích cực cũng như đóng góp về mặt tư tưởng của Phật giáo với sự phát triển của
khoa học.
3.3.2. Tư tưởng triết học của Albert Einstein mang tính nhân văn sâu
sắc, vì một nền hòa bình nhân loại
Tư tưởng nhân văn của A. Einstein là tư tưởng vì con người và phục vụ con
người; ý nghĩa của cuộc sống là được phát huy giá trị và tự do cá nhân vì mục đích
cao đẹp của con người và nhân loại.
22
Chủ nghĩa hòa bình của A. Einstein là tiếng nói mạnh mẽ chống lại bất
công, bạo lực hướng đến việc bảo vệ nhân phẩm và giá trị của con người. Từ thực tế
của đời sống chính trị xã hội, sự nhạy cảm của một con người nhiệt huyết và sự
dũng cảm của một nhà khoa học tỉnh táo về lý trí, những tư tưởng và hành động của
ông đã có tác động đến đời sống chính trị đương thời và góp phần tạo ra làn sóng
đấu tranh mạnh mẽ chống chiến tranh, chống sản xuất và sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tư tưởng giáo dục nói chung và giáo dục tư duy độc lập của A. Einstein nói
riêng, chúng ta cần có cách nhìn khác về nhà trường, về giá trị của giáo dục, về
phương pháp và động cơ học tập. Cách nhìn đó hướng giáo dục đến các giá trị nhân
bản, đến mục tiêu phát triển con người hài hòa và toàn diện, để trường học mãi là
nơi tốt nhất làm nên chân, thiện, mỹ ở mỗi con người.
Giá trị nhân văn trong tư tưởng A. Einstein có ý nghĩa quan trọng trong việc
điều chỉnh hành vi, giáo dục lối sống, thái độ học tập và nghiên cứu khoa học cho
mọi người, nhất là giới trẻ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nghiên cứu về nội dung tư tưởng triết học của A. Einstein, chúng ta nhận
diện được giá trị to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hệ thống tư tưởng của ông. Bằng
những phát minh mới mẻ trong lĩnh vực vật lý học về cấu trúc của thế giới như: bản
chất của ánh sáng, mối quan hệ giữa năng lượng và khối lượng, tính tương đối của
không – thời gian, sự thống nhất vật chất của thế giới đã đưa nhận thức của con
người vượt qua giới hạn, vươn tới những hiểu biết mới. Nhận thức luận của A.
Einstein đã góp phần vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm
duy vật biện chứng.
Trên cơ sở những quan điểm đó của A. Einstein giúp chúng ta có điều kiện
đối chiếu, phân tích, so sánh và khẳng định giá trị, tính đúng đắn của chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong sự phát triển của khoa học và thời đại. Tư tưởng nhân văn của
A. Einstein với những quan điểm tích cực về ý nghĩa cuộc sống, chủ nghĩa hòa bình
và tư tưởng giáo dục đã bổ sung cho chủ nghĩa duy vật lịch sử những vấn đề liên
quan đến con người và đời sống xã hội trên cơ sở quan điểm lịch sử và toàn diện.
23
Từ những yếu tố đó, chúng ta có thể khẳng định rằng tư tưởng triết học của A.
Einstein có ý nghĩa lớn đối với hôm nay và mai sau trong việc nhận thức thế giới,
cũng như góp phần cải biến và xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, trên cơ sở
trân trọng và phát huy nhân tố, phẩm giá con người.
KẾT LUẬN
Thuyết tương đối cùng với tư tưởng triết học của A. Einstein thể hiện quan
điểm duy vật, đối lập với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Tư tưởng triết học của A.
Einstein bao gồm tư tưởng về bản thể luận, nhận thức luận, tư tưởng về tôn giáo và
giáo dục. Ở phương diện nào, tư tưởng của ông đều thể hiện tính mới lạ, để lại dấu
ấn đặc biệt và có tầm ảnh hưởng sâu rộng.
Bản thể luận của A. Einstein với những quan điểm về cấu trúc của vật chất,
không - thời gian, tính thống nhất của thế giới, về Thượng đế và tôn giáo và mối
quan hệ giữa khoa học và tôn giáo… có ý nghĩa lớn đối với nhận thức và sự phát
triển của triết học cũng như nhiều lĩnh vực của thế giới hiện đại. Tư tưởng đó đã
góp phần khẳng định tính đúng đắn và khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng
về mối quan hệ giữa không gian với thời gian, giữa vật chất và vận động, giữa khối
lượng và năng lượng. Nghiên cứu và đánh giá đúng đắn giá trị bản thể luận của A.
Einstein là việc làm cần thiết, góp phần nâng cao sự hiểu biết của mỗi con người
cũng như góp phần nhận thức và cải tạo thế giới.
Nhận thức luận của A. Einstein với chủ nghĩa thực tại và con đường nhận
thức đã khẳng định sự đúng đắn của nguyên tắc nhận thức theo quan điểm duy vật
biện chứng. A. Einstein quan niệm rằng, thế giới khách quan tồn tại độc lập với
nhận thức của con người, là đối tượng và là khách thể của nhận thức. Trên cơ sở
thấu hiểu các quy luật tự nhiên, con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới,
song ở mỗi thời điểm nhất định, do giới hạn của tư duy, tri thức đạt được của con
người so với thế giới là nhỏ bé, và chỉ là một phần của hiện thực khách quan.
Tư tưởng nhân văn sâu sắc của A. Einstein đã làm cho ông trở thành một
nhà khoa học có tính chất khác biệt, một nhà khoa học thực sự hành động vì xã hội.
24
Quan điểm của A. Einstein về mục đích, ý nghĩa cuộc sống và chủ nghĩa hòa bình
gắn liền với chống chiến tranh và bất công xã hội của ông như là tấm gương phản
chiếu những biến động của thời đại. Tư tưởng giáo dục của A. Einstein với những
quan niệm về nhà trường và sứ mệnh của nhà trường, vai trò của người thầy, và
giáo dục tư duy độc lập có ý nghĩa đối với một nền giáo dục hướng đến giá trị thực
chất nhằm đào tạo ra những con người khả dụng cho xã hội. Triết lý giáo dục của
A. Einstein giúp cho chúng ta định hình và phấn đấu cho những giá trị bền vững của
giáo dục, tất cả vì sự tự do và hạnh phúc của con người.
Những thành tựu khoa học và di sản tư tưởng của A. Einstein cho thấy, ông
rất gần với chủ nghĩa duy vật biện chứng dưới góc độ triết học và với chủ nghĩa xã
hội dưới góc độ chính trị - xã hội. Xem xét trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chúng ta thấy rằng tư tưởng triết học A. Einstein với tư tưởng bản thể
luận độc đáo, tính cách mạng trong nhận thức luận, tư tưởng về tôn giáo, tư tưởng
nhân văn và triết lý giáo dục độc lập, sáng tạo là những vấn đề lớn, có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn mà con người cần và còn phải tìm hiểu với tất cả sự trân trọng và
nghiêm túc. Tìm hiểu về A. Einstein và những tư tưởng của ông khiến chúng ta
thêm tin tưởng vào khả năng trí tuệ của con người trong việc nhận thức và chinh
phục thế giới vì sự tiến bộ của con người và xã hội loài người.