Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Ôn tập đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.95 KB, 34 trang )

ÔN TẬP ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Quá trình phát triển và hoàn thiện đường lối đấu tranh giành chính quyền:
Những chuyển biến lịch sử đã tạo ra những bước tiến mới cho cuộc cách mạng ở Việt Nam.
( nguyên nhân):
Ngày 1 – 9 – 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, khai màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở bên
Pháp, mặt trận bình dân Pháp bị lật đổ, Chính phủ phản động mới lên thay đã tăng cường đàn áp cách
mạng ở chính quốc và các nước thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp ra sức vơ vét của cải tiền bạc,
sức người để phục vụ cho chiến tranh. Chúng thi hành chính sách “cai trị thời chiến” cực kì tàn bạo:
Về chính trị : tăng cường đàn áp, ban bố lệnh “thiết quân luật” phát xít hoá bộ máy nhà nước
Về kinh tế : tăng cường bóc lột để phục vụ chiến tranh, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”
Về quân sự: tăng cường bắt lính (7 vạn người Việt Nam bị đưa sang Pháp phục vụ cho chiến tranh )
Tất cả những điều đó làm cho mâu thuẫn chủ yếu vốn có của xã hội Đông Dương là mâu thuẫn giữa đế
quốc Pháp và các dân tộc bị áp bức càng thêm gay gắt. Lòng phẫn uất sục sôi của quần chúng sẽ “đẩy
nhanh quá trình hóa cách mạng”. Đó chính là cơ sở để Đảng ta phát động một cao trào giải phóng dân tộc.
Thêm vào đó, tháng 9 – 1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, thực dân Pháp từng bước đầu hàng và dâng
Đông Dương cho Nhật. Pháp và Nhật câu kết với nhau bóc lột nhân dân Đông Dương, đẩy nhân dân ta
vào cảnh sống “một cổ hai tròng”. Điều này làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta và Nhật – Pháp ngày
càng căng thẳng hơn bao giờ hết. Bối cảnh thế giới và trong nước thời kỳ nay ta tạo ra cho cách mạng vô
số những thuận lợi và khó khăn.
Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược để giành chính quyền của Đảng đã được hình thành, phát triển qua
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939), hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940 và được hoàn thiện tại
Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) với những nội dung chính sau đây:
- Một là: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Đảng ta đã xác định được mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương nói chung và nước ta nói riêng là mâu
thuẫn giữa dân tộc bị áp bức và đế quốc Pháp- Nhật. Vì thế “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
+ Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc thì vấn đề ruộng đất lùi xuống vị trí thứ hai
và phải phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đảng nhấn mạnh: “Đứng trên lập trường giải phóng dân
tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cách mạng, kể cả vấn đề điền địa cũng phải


nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”
+ Trong hoàn cảnh đặc biệt khi dân tộc ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, tại hội nghị Trung ương
8( tháng 5/1941), Đảng ta xác định “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng
giải quyết hai vấn đề : phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề giải
phóng dân tộc. Vì vậy, cách mạng Đông Dương lúc này là cách mạng dân tộc giải phóng”…Việc xác định
nhiệm vụ duy nhất - giải phóng dân tộc ở đây là sự phát triển lên một tầm cao mới, trong một hoàn cảnh
mới của tư tưởng chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu.
- Hai là: Đảng quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận dân tộc
1
riêng nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc mạnh mẽ và phát huy tính tự lập, tự cường của các dân tộc. Ở Việt
nam mặt trận đó là Mặt trận Việt minh. Các tổ chức quần chúng của mặt trận đều lấy tên là Cứu quốc
(Công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, thiếu nhi cứu quốc…)
để thu hút tất cả mọi người dân yêu nước tham gia công cuộc giải phóng dân tộc.
- Ba là: Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
+ Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đầu tiên phải xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và thành lập các đội du kích hoạt động vũ trang; xây
dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, căn cứ địa Cao bằng…
+ Đảng đã xác định hình thái khởi nghĩa ở Việt nam là “đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi
nghĩa”.
- Bốn là: Khẳng định việc sau khi cách mạng thành công, Việt Nam sẽ tách ra khỏi liên bang Đông
Dương thành lập một nước riêng và thể chế chính quyền trong tương lai của Việt Nam là thể chế “dân
chủ cộng hòa”- một chính phủ chung cho mọi giai tầng trong xã hội. Còn Lào và Campuchia có thể liên
kết thành liên bang hay tách riêng tùy ý. Mỗi dân tộc đều có “quyền tự quyết’.
Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng Đảng nhằm
nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ
lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
- Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đã phát huy
cao độ tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc và trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng dân tộc trong cuộc

đấu tranh giành độc lập.
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh tư tưởng giải phóng dân tộc
đã được vạch ra trong Cương lĩnh tháng 2/1930 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và chứng tỏ tính đúng đắn
của tư tưởng đó.
- Sự chuyển hướng chiến lược đã đánh dấu sự trưởng thành trong nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ
giữa 2 nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, phản đế và phản phong ở một nước phong kiến - thuộc địa.
- Sự chuyển hướng chiến lược đúng đắn với phương châm “lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao” là một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám.
3. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng ( 1945-1946), ý nghĩa lịch sử):
1.1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đứng trước bối
cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn chồng chất.
a) Những thuận lợi của cách mạng Việt nam:
- Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã hình thành, phong trào giải phóng dân
tộc đang dâng cao mạnh mẽ.
- Ở trong nước, chính quyền cách mạng cũng có một số thuận lợi nhất định:
2
+ Hệ thống chính quyền cách mạng đã được thiết lập từ trung ương đến địa phương.
+ Lòng tin và sự ủng hộ rất lớn của nhân dân dành cho Đảng, mặt trận Việt Minh và Hồ Chủ Tịch.
+ Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Hồ Chủ Tịch.
b) Những khó khăn của cách mạng Việt Nam:
Chính quyền non trẻ phải đôi đầu với nguy cơ “giặc ngoại xâm”, “giặc đói”, “giặc dốt”…
- Khó khăn đầu tiên và cũng là lớn nhất của cách mạng Việt nam lúc này là sự hiện diện của các quân đội
nước ngoài trên đất Việt nam. Các quân đội nước ngoài dù “khác nhau về màu da, tiếng nói nhưng giống
nhau ở dã tâm muốn thôn tính nước ta, muốn đẩy chúng ta trở về cuộc sống nô lệ”.
- Khó khăn thứ hai là các tổ chức phản động người Việt như "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt đã dựa vào
các thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng. Chúng đòi cải tổ chính phủ thành chính phủ liên hiệp, lập
ra chính quyền phản động ở một số nơi như Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên…

- Khó khăn thứ ba là khó khăn về mặt kinh tế. Chế độ mới tiếp quản một di sản kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
- Khó khăn thứ tư là khó khăn về mặt văn hóa- xã hội. Hậu quả của chính sách ngu dân của thực dân Pháp
là 95% dân số không biết chữ. Các tệ nạn xã hội hết sức nặng nề.
- Khó khăn thứ năm thuộc lĩnh vực ngoại giao. Lúc này, chưa có một nước nào trên thế giới công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao với Việt nam dân chủ Cộng hòa. Có thể nói rằng, vận mệnh dân tộc lúc này như
“ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy!
1.1.2. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng:
Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn đó, nhằm thực hiện 3 nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm, ngày 25/11/1945 Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Nội dung bản chỉ
thị như sau:
- Nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi và khó khăn của cách mạng Việt
nam.
- Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc “cách mạng dân tộc giải phóng”.
Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".
- Xác định kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng.
- Xác định những nhiệm vụ cấp bách của nhân dân ta lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân".
- Xác định các biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ đó. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải
quyết kịp thời những vấn đề cấp bách của cách mạng Việt nam và đề ra chiến lược, sách lược cách mạng
khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm nghèo của nước nhà.
3
Bài học lịch sữ:
Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là:
- Làm thất bại âm mưu xâm lược của các thế lực đế quốc, đưa cách mạng vượt qua tình trạng “thù trong,
giặc ngoài”.
- Đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng.
- Đã xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới- chế độ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.

- Đã chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc trong tương lai.
Bài học lịch sử trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng chiến kiến
quốc giai đoạn 1945-1946 là:
- Phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng.
- Phải triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính,
coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong
hoàn cảnh cụ thể.
- Phải tận dụng khả năng hoà hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề
cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.
3. Những thuận lợi và khó khăn khi nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp ?
+ Thuận lợi:
Thứ nhất: Ta có sức mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa khi tiến hành cuộc chiếntranh giành và bảo
vệ độc lập dân tộc.
Thứ hai: ta cũng đã có sự chuẩn bị nhất định về mọi mặt nên ta tiến hành chiến tranh với sự chủ động.
+ Khó khăn:
Thứ nhất: Nền kinh tế của ta lúc đó còn rất lạc hậu và kém phát triển, chưa thể đáp ứngnổi nhu cầu của
cuộc chiến tranh quy mô, hiện đại.
Thứ hai: Lực lượng quân sự của ta yếu hơn của địch với vũ khí thô sơ; quân đội chưađược huấn luyện,
đào tạo kỹ càng, bài bản trong khi quân đội Pháp là quân đội chính quy,quân đội nhà nghề lại được trang
bị vũ khí tối tân, hiện đại.
Thứ ba: Cuộc chiến tranh bắt đầu khi ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận và giúp đỡ.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn nói trên là cơ sở để Đảng ta xác định đường
lối cho cuộc kháng chiến.
4. Đường lối kháng chiến chống Pháp. Bài học lịch sử ?
Hoàn cảnh lịch sử
4
- Đảng và Chính phủ nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí, cố gắng làm những việc có thể
nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách
việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 18/12/1946 chúng gửi “Tối hậu thư” cho ta với

những đòi hỏi ngang ngược và ấn định thời gian đảo chính là ngày 20/12/1946 nếu chính phủ ta khước từ
những điều kiện do chúng đặt ra.
- Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch đã quyết định phát động toàn dân kháng
chiến và mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự
ở Hà Nội để giành thế chủ động. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, mệnh lệnh kháng chiến đã được phát
đi, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên
phạm vi toàn quốc bắt đầu. Nhân dân cả nước đã đứng lên theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Hồ Chủ Tịch.
Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn
xâm lược của thực dân Pháp.
* Đường lối kháng chiến trong giai đoạn 1946-1950 :
- Nội dung đường lối:
+ Mục đích kháng chiến là: "đánh bọn thực dân phản động Pháp xâm lược nhằm giành độc lập và thống
nhất.’’
+ Tính chất của cuộc kháng chiến:Tính dân tộc giải phóng và tính dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với
nhân dân Pháp) để chống bọn thực dân Pháp phản động.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh’’
Toàn dân kháng chiến có nghĩa là thực hiện mô hình cuộc chiến tranh nhân dân, ở đó mỗi người dân là
một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài để phát huy sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc chiến tranh
giành độc lập. Toàn diện kháng chiến có nghĩa là đánh địch trên tất cả các phương diện: quân sự, chính
trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… trong đó quân sự là hàng đầu bởi chiến tranh là một cuộc đọ sức về mọi
mặt nên phải tiến hành cuộc chiến tranh toàn diện là một lẽ đương nhiên. Hơn nữa, cuộc chiến tranh toàn
diện có khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dântộc. Trường kỳ kháng chiến có nghĩa là đánh
lâu dài. Ta tiến hành cuộc chiến tranh trường kỳ để chống lại âm mưu ‘’đánh nhanh, thắng nhanh’’ của
địch và để có thời gian xoay chuyển tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn
địch và đánh thắng địch. Để có thể xoay chuyển tương quan lực lượng từ yếu thành mạnh ấy đòi hỏi phải
có thời gian đủ dài.
Tự lực cánh sinh có nghĩa là ta phải dựa vào sức mình là chính bởi ta bắt đầu cuộc chiến tranh khi bị bao

vây tứ phía, không nhận được sự giúp đỡ của các nước khác.
+ Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ khó khăn song nhất định thắng lợi.
- Ý nghĩa của đường lối:
+ Đường lối trên trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp là sáng tạo và đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn của đất nước lúc bấy giờ.
+ Đường lối trên là sự kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân
5
tộc ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt nam.
+ Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng
đi vào ổn định và phát triển đúng hướng ngay từ lúc đầu để từng bước đi đến thắng lợi.
+ Đường lối kháng chiến chống Pháp ra đời ngay khi cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước bùng nổ
chứng tỏ sự kịp thời, nhạy bén và chủ động của Đảng ta trong hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt.
* Sự bổ sung đường lối kháng chiến của Đại hội Đảng II (tháng 2/1951):
- Bối cảnh lịch sử: Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều chuyển biến mới.
+ Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
+ Cuộc kháng chiến của chúng ta đã giành được những thắng lợi quan trọng, đặc biệt là thắng lợi của
chiến dịch Biên Giới thu đông 1950.
+ Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp vào cuộc chiến tranh
Đông Dương. Những nội dung mới đó đã đặt ra yêu cầu phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng
để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
+ Tháng 2/1951, Đảng ta triệu tập Đại hội Đảng II với 3 mục đích. Thứ nhất: Đại hội tuyên bố chia tách
Đảng CS Đông dương thành 3 đảng cách mạng riêng để chủ trương của từng Đảng phù hợp với từng dân
tộc và mỗi dân tộc đều có cơ hội thực hiện quyền “tự quyết”.
Thứ hai: Ở Việt nam, tuyên bố Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động
Việt nam. Thứ 3: Đề ra đường lối để đưa kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội Đảng đã thông qua nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt nam.
- Nội dung: Chính cương Đảng Lao động Việt nam có những nội dung cơ bản sau:
+ Tính chất xã hội: Xã hội Việt nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và nửa phong kiến". Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu

thuẫn giữa tính dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa.
+ Đối tượng của cách mạng Việt nam: có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là đế quốc Pháp
và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến phản động.
+ Nhiệm vụ cách mạng: Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là: 1. đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; 2. xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng; 3. phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội". Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành chiến tranh giải
phóng dân tộc.
+ Lực lượng của cách mạng Việt nam gồm có: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài
ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại
thành nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng.
+ Xác định tên gọi mới của cuộc cách mạng (mà qua đó xá định tính chất của cách mạng Việt nam) là:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
6
+ Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ
sở kiến thiết quốc gia.
+ Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô; thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và
đoàn kết Việt - Miên - Lào.
- Ý nghĩa:
+ Đường lối của Đại hội đã đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về mọi mặt.
+ Đường lối do Đại hội Đảng II thông qua đã đáp ứng những yêu cầu cấp bách của thực tế và góp phần
đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Từ đường lối kháng chiến chống Pháp đề ra trong những ngày tháng đầu của cuộc kháng chiến cho đến
khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi thì đường lối của Đảng đã được bổ sung và hoàn thiện để phù hợp
với những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử. Sự bổ sung và hoàn thiện đó chứng tỏ sự linh hoạt, nhạy bén
của Đảng ta trong việc hoạch định đường lối cách mạng.
* Bài học lịch sử: Trải qua qúa trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Cụ thể là những bài

học kinh nghiệm sau đây:
- Một là: Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
- Hai là: Kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, trong
đó chủ yếu là nhiệm vụ chống đế quốc.
- Ba là: Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
- Bốn là: Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, chủ động đề ra và thực hiện
phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo.
- Năm là: Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng
trong chiến tranh.
5. Đường lối kháng chiến chống Mỹ. Bài học kinh nghiệm ?(sách tài liệu)
6.Mục tiêu, quan điểm của CNH-HĐH đất nước trong thời kì đổi mới?trong các quan điểm trên, quan
điểm nào là quan trọng nhất, vì sao ?
Mục tiêu:
- Mục tiêu lâu dài, cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là:
+ Xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
+ CNH, HĐH nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
+ CNH để đủ sức lực hội nhập kinh tế thế giới khi đó là xu hướng tất yếu.
- Mục tiêu trước mắt: Về cơ bản, đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.
7
Quan điểm:
Quan điểm về CNH, HĐH được Đảng ta nêu ra từ Hội nghi TW lần thứ 7 (khóa VII) và được bổ sung,
phát triển qua các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng như sau:
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức .
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Trong các quan điểm trên, quan điểm nào là quan trọng nhất, vì sao ?( tại sao CNH-HĐH phải gắn
với kinh tế tri thức ?)
Khái niệm CNH:
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một
vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư
bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá
trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát
triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn.
Khái niệm HĐH:
Hiện đại hóa là quá trình sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với công nghệ của thế giới để
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm kinh tế tri thức:
Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge - BasedEconomy) là nền kinh tế
chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. "Nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin"
(OECD 1996).
[2]
: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử
dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất
cả các ngành kinh tế"
Khác nhau CNH-HĐH:
Công nghiệp hóa chỉ tiến hành trong một thời gian nhất định, khi nào thành nước công nghiệp thì quá
trình công nghiệp hóa sẽ dừng lại, trong khi hiện đại hóa là quá trình lâu dài.
Công nghiệp hóa do các nước nông nghiệp lạc hậu hoặc đang trong thời kỳ quá độ lện chủ nghĩa xã
hội tiến hành, còn hiện đại hóa thì được tiến hành ở tất cả các quốc gia, kể cả những nước đã phát triển.
Tại sao phải tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: theo tinh thần của hội nghị TƯ VII khóa 7, CNH, HĐH là quá trình

chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử
8
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khao học-công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Hiện đại hóa là quá trình sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với công nghệ của thế giới để
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nguyên nhân phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa:
- Đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến tranh phá
hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây dẫn đến nền kinh tế bị tụt hậu so với
thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa.
- Bối cảnh thế giới: sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu nước ta không kịp thời
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ bị bỏ lại phía sau.
- Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của nươc phát triển sau, tiếp thu được công nghệ mà
không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh.
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, số nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri
thức yêu cầu nước ta phải bắt kịp xu thế đó.
- CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức:
+ Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại
+Từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững vừa rút
ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thực trạng hiện nay:
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đả làm cho môi trường bị ô nhiễm do các nhà
máy xí nghiệp thải ra, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên không đúng làm ảnh hưởng đến môi trường
thiên nhiên, tình trạng chảy máu chất xám
7. Đặc trưng kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam ( mô hình ) ?
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung
của nền kinh tế thị trường:Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh. Hai là, giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có
tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền

kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết
của nền kinh tế. Bốn là, nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước
thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. Mặt khác, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất
của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng bản chất
dưới đây:
Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi
nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
Có những nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết công bằng xã hội sau. Có những nước lại
muốn dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất
gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói, giảm nghèo.
9
Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình
thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách
quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác
lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất
giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai
trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế
tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới - xã hội

chủ nghĩa ở nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối
thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu
Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều
chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do
kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc (hình thức) phân phối tương ứng
với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là
đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt
kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ
yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn
có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, cạnh tranh, ; giá cả do thị trường
quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế.
Điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế
không phải là nhà nước tư sản, mà là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa
chữa "những thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo, mà bản thân cơ chế thị
trường không thể làm được, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó bảo đảm cho nền kinh tế
tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội. Không ai ngoài Nhà nước có
thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất
nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch

với thị trường
10
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống
kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật,
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của
nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện
đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức
đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong
quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc
trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
8.Thực trạng và các giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Đó là do các nguyên
nhân
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được
trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.
Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3
thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới (năng
suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc còn lạc hậu, kém
phát triển (mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông
trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa
phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không
thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
- Do cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ.
Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các

ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như thị trường nước ngoài
còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối
lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế
khả năng cạnh tranh còn yếu.
Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng
lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng
giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao
động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức
cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt
quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm.
11
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong
khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư
nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời
nhưng cũng chưa có nhiều "hàng hoá" để mua - bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia
thị trường này.
c) Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường; do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất
hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường
khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so
với hầu hết các nước khác.
Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng
những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia
hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ
động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra "cái mạnh

tương đối" của nước ta, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để
phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội.
e) Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán,
chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất:
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở
hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng
hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi
phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng
trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn
lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại
khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với
những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh
tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc
đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với
tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên
thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
12
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần
giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường.

Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) phát triển ở cả
thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và
ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản
phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ; trên cơ sở
đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy, để phát triển kinh tế
hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội
do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã
hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền
sản xuất lớn hiện đại.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh và phổ biến
hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế
tri thức.
Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm
vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác
tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền
kinh tế.
Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bố
vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường. Trong những năm tới chúng ta cần phải:
- Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh; xóa
bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước,

tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
- Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng
bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
- Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với
đất.
- Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là
xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề.
- Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn các sản
phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hóa.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
13
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mới thu hút
được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát
triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các
hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Giảm dần nhập
siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình
thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần hướng vào
những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay
phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương
mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.
Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà
sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở
nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu
lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết

của Nhà nước.
Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước
Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
hàng hoá ở nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Nhà nước thực hiện định hướng
sự phát triển kinh tế; có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt
động kinh tế; hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức
năng quản trị kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Nhà nước sử
dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền lương và giá cả.
9. Mục tiêu, quan điểm xây dựng hệ thống chính trị thời kì đổi mới ?
Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị:
- Mục tiêu: Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, phát huy đầy đủ quyền lầm chủ của nhân dân.
Văn kiện của các kỳ đại hội sau này đều khẳng định: Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi
mới và kiện toàn hệ thống chính trị.
- Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị:
+ Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới về chính trị
+ Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc
thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
14
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có
hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước.
+ Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp.
+ Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội,

tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của các bộ phận
cấu thành hệ thống.
* Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
- Về vai trò của Đảng:
+ Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đại hội X và XI đã bổ sung một số nội dung quan trọng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
- Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2011 xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội
bằng việc đề ra chiến lược phát triển, đề ra các chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra việc thực hiên các chủ trương đó và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng
thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị” .Đảng không làmthay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Như vậy,
đổi mới phương thức hoạt động của Đảng cần phải khắc phục cả 2 khuynh hướng: hoặc là Đảng bao
biện, lầm thay phần việc của các bộ phận khác hoăc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.
- Về vị trí của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
- Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị: Đây là nội dung rất quan trọng
của việc đổi mới hệ thống chính trị. Nghị quyết trung ương 5 khoá X đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong
tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hội nghị T W 4 khóa XI đã bàn rất kỹ về việc chỉnh đốn
Đảng, khắc phục các hiện tượng tham nhũng, chạy chức chạy quyền của một số đảng viên dẫn dến việc
xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng.

+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên
định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thục hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực
hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng,
đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành
vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng
cấp, từng ngành.
15
* Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội TBCN
mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của cả loài người nên Việt Nam cần tiếp thu.
- Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công
quyền lực nhà nước trên cơ sở coi trọng pháp luật. Cương lĩnh Đại hội XI khẳng định: “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” . Đó là nhà nước có 5 đặc điểm sau đây:
+ Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo
luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa
Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của
nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền cần thực hiện tốt một số biện pháp lớn sau đây:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ
quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.
* Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp,
vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân
dân
- Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và
phản biện xã hội.
- Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc phải làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Vì sao phải kết hợp đổi mới kinh tế và chính trị ?
Trong triết học Mác- lênin và tư tưởng HCM có nói:
16
“Kinh tế quyết định chính trị
Chính trị là phản ánh sự tập trung kinh tế
Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội”
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan trọng trong
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết
đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thượng tầng, coi
chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng
vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về
tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá
trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết
chế, bộ máy hành chính còn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.Vì thế Kinh tế đổi mới đòi

hỏi chính trị phải đổi mới theo để theo kịp thời đại
11. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hoa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ?
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa có sự thống nhất hữu cơ giữa
tính tiên tiếnvà tính đậm đà bản sắc dân tộc:
- Nền văn hóa tiên tiến đó chính là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mac-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của đất nước.
- Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa gìn giữ và phát huy được những giá trị bền
vững, tinh hoa của văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, “cái
nguyên gốc” do dân tộc tạo ra mà nó bao hàm cả các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc
tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do đó, xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc, việc xây dựng và phát triển
một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu tất yếu đặt ra.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, tại Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa
VIII năm 1998, Đảng Cộng sản đã đề ra Nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời
cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước.
Nghị quyết đã đề ra những quan điểm chỉ đạo chiến lược sau:
- Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết hài hòa giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm
bảo cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng ta
xây dựng vừa phải là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.
- Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm này xác định phương hớng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà chúng ta tập trung xây
dựng. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm

vóc, vị thế của văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
- Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Quan điểm này nhấn mạnh tư tưởng nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về đảm bảo tính
17
thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều
có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng, các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền
văn hóa Việt Nam. Củng cố sự thống nhất dân tộc chính là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy
tính đa dạng văn hóa của các dân tộc.
- Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự
nghiệp văn hóa dân tộc. Mỗi người dân Việt Nam cần nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong quá
trình này. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước. Trong đó, đội
ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
- Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là “xây” phải đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm chính.
Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu,
chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Thực trạng về việc thực hiện chủ trương này: Nhìn vào tổng thể việc xây dựng nền văn hóa cũng như
từng mặt, từng lĩnh vực văn hóa, văn hóa – nghệ thuật, thông tin báo chí… chúng ta đều nhận thấy được
một bức tranh đan xen giữa những thành tựu và tiến bộ với những yếu kem và khuyết điểm.
Những thành tựu và tiến bộ: Việc thực hiện chủ trương này đã góp phần nâng cao một bước sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội với đường lối mới, CNH – HĐH với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, mở rộng một bước dân chủ hóa xã hội, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo, tính tích
cực của nhân dân, làm cho nhân tố văn hóa bước đầu tác động tích cực vào các mặt sản xuất, kinh doanh,
quản lý xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Phong trào “toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống
văn hóa, quy tụ các phong trào văn hóa tại các ngành, các giới là một biểu hiện sống động.
Bên cạnh đó cũng có những quyết điểm yếu kém, nhất là sự sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống và nếp sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, mức độ trầm trọng của tệ nạn quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực khác. Rõ ràng là tuy chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu,nhưng những tiến bộ văn hóa còn chưa vững chắc, sự phát triển văn hóa còn chưa
tương xứng với sự phát triển kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Công tác văn hóa chưa
thực hiện tốt và làm chuyển biến rõ rệt nhiệm vụ trọng tâm cấp bách là xây dựng con người, môi trường
văn hóa chưa lành mạnh. Chúng ta chưa tạo được những chương trình văn hóa, những tác phẩm văn hóa
nghệ thuật có chất lượng cao tương xứng với những chiến công và thành tựu của dân tộc, chưa tạo được
những chuyển biến cơ bản trong thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa, và văn hóa trong kinh tế,
chưa tiến hành thường xuyên việc phát huy nhân tố tiên tiến trong phong trào văn hóa và bồi dưỡng
những tài năng văn hóa.
Nhiệm vụ của thanh niên:
Chủ trương bảo vệ văn hoá dân tộc, mở rộng giao lưu văn hoá nhân loại, tiếp thu chọn lọc những cái hay,
cái khoa học, tiên tiến để bắt kịp với thời đại. Chủ động tham gia hội nhập giao lưu văn hoá với các quốc
gia để xây dựng những giá trị mới cho văn hoá Việt Nam, xây dựng Việt Nam thành 1 địa chỉ giao lưu
văn hoá quốc tế. Giữ gìn bản sắc dân tộc, chống cái lạc hậu, hũ tục, lỗi thời trong phong tục tập quán.
Câu hỏi tham khảo:
18
1: Nhận thức của đảng cộng sản VN về đường lối CMVN từ năm 1930_1945?
 Nhận thức của Đảng 1930 – 1935:
Thời kỳ này nhận thức của Đảng ta về đường lối CMVN thể hiện rõ trong luận
cương tháng 10.1930. Trong đó luận cương nặng về đấu tranh giai cấp đến CM điền
địa.
* Nội dung của Luận cương
- Về mâu thuẫn xã hội: Đó là mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt ở Đông Dương giữa “một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc”.
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương:
+ Lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, có tính chất thổ địa và phản
đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng.
+ Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

- Về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất
triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Trong hai nhiệm vụ
này, Luận cương xác định: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Đây là sự đề cao vấn đề đấu tranh giai cấp.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Công nhân và nông dân là 2 động lực chính của cách mạng, trong đó giai cấp vô sản vừa là động lực
chính, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng, dân cày (nông dân) là lực lượng đông đảo nhất và là động lực
mạnh của cách mạng.
+ Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp
thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ theo đế quốc.
+ Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sthương gia thì không
tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chnghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia
chống đế quốc trong thời kỳ đầu.
+ Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: Phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “trang bạo động”. Võ
trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân thủ huôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương đoàn kết gắn bó
với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải liên lạc với phong trào cách mạng ở
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộnvà tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng
ở Đông Dương.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt ycho thắng lợi của cách
mạng. Muốn vậy:
+ Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết vquần chúng.
19
+ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảntư tưởng, đại biểu
chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đđược mục đích cuối cùng là chủ
nghĩa cộng sản.
 Nhận thức của Đảng về đường lối CMVN 1936 -1945 được thể hiện rõ qua
các văn kiện

- Văn kiện hội nghị TW tháng 7-1936
- Văn kiện “chung quanh những vấn đề chiến sách mới”
- Văn kiện hội nghị TW 6 (11.1939), hội nghị TW 7 (11.1940) đặc biệt hội nghị TW 8 (5.1941) . Nhận
thức của Đảng ta về đường lối CMVN thời kỳ này đãnêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
vấn đề điền địa tạm gác lại, điều đóđã dẫn đến CM tháng Tám thành công.
2.Phân tích tình hình và thời cơ trong CMT8 năm 1945? Chủ trương của Đảng để chớp thời cơ đó?
* Tình hình CM trong CM tháng Tám – 1945 xuất hiện vào tháng 9 -1939 Đảng
ta đã thúc đẩy tình thế đó bằng quá trình XD lực lượng về mọi mặt của Đảng (chỉ thị?
Quân sự? Căn cứ địa?)
- Xuất hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược để giành chính quyền của Đảng đã được hình
thành, phát triển qua Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939), hội nghị Trung ương 7 (tháng
11/1940 và được hoàn thiện tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) với những nội dung
chính sau đây:
- Một là: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Hai là: Đảng quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận dân tộc riêng nhằm khơi dậy
tinh thần dân tộc mạnh mẽ và phát huy tính tự lập, tự cường của các dân tộc. Ở Việt nam mặt trận đó là
Mặt trận Việt minh. Các tổ chức quần chúng của mặt trận đều lấy tên là Cứu quốc (Công nhân cứu quốc,
nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, thiếu nhi cứu quốc…) để thu hút tất cả mọi
người dân yêu nước tham gia công cuộc giải phóng dân tộc.
- Ba là: Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
- Bốn là: Khẳng định việc sau khi cách mạng thành công, Việt Nam sẽ tách ra khỏi liên bang Đông
Dương thành lập một nước riêng và thể chế chính quyền trong tương lai của Việt Nam là thể chế “dân
chủ cộng hòa”- một chính phủ chung cho mọi giai tầng trong xã hội. Còn Lào và Campuchia có thể liên
kết thành liên bang hay tách riêng tùy ý. Mỗi dân tộc đều có “quyền tự quyết’.
* Thời cơ CM trong CM tháng 8 xuất hiện tháng 8-1945
+ Ngày 13/8 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Nhật ở Đông Dương hoang mang
cực điểm…
+ Tầng lớp tham gia ngã về phía CM :

- Từ giữa tháng 3/1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú cả về nội dung và hình thức.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy Ban giải phóng dân tộc.
20
- Trong tháng 5, 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều chiến khu được thành
lập ở cả ba miền. Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại
song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
+ Đội tiên phong ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu
- Giữa lúc Cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên mạnh mẽ, ngày 15/5/1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị nhận
định: tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này.
Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết
định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ
trang…
- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên quang) để chuẩn bị đại hội Quốc dân. Người ra chỉ
thị thành lập “Khu giải phóng”. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập.
- Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ thì nạn đói đã diễn ra
nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần
chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã đáp ứng đúng
nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, vì vậy trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng
triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
* Thời cơ trong CM tháng 8, 1945 diễn ra ngắn ngũi 13.8.1945 - 25.8. 1945
* Đảng kịp thời mở hội nghị toàn Quốc 13.8.1945 phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
- Hội nghị Tân trào của BCH TW Đảng (13 - 15/8/1945): Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta
giành chính quyền độc lập đã tới” và quyết định:
+ Phát động toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền từ ay phát xít Nhật và
tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương với nguyên tắc “tập rung- thống nhất-kịp thời”.
+ Quyết định thành lập “Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc” do đồng chí Trường Chinh àm trưởng ban. Ngay
đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ra quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
+ Phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng. Ở những nơi đã giành được chính quyền phải thành lập

Ủy ban nhân dân và lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm cơ sở cho chính sách đối nội.
+ Về đối ngoại, thực hiện chính sách “thêm bạn, bớt thù’’, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh - Pháp và
Mỹ - Tưởng; cần tránh thế cùng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân các nước Liên Xô, Trung Quốc, Pháp…
- Tiếp theo, Đại hội Quốc Dân cũng được triệu tập vào ngày 16/8/1945. Đại hội quyết định:
+ Nhất trí tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh.
+ Lập chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch
+ Quyết định Quốc ca, Quốc kỳ của Việt nam.
3. Mục tiêu, quan điểm CNH hóa nước ta trong những năm sắp tới là gì ? Hãy phân tích quan điểm vì
sao Đảng ta xác định trong sự nghiệp CNH ở nước ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững ?
a. Về mục tiêu: “ Xây dựng nước ta thành nước công nghiệp, có CSVCKT hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, XH công bằng dân chủ và văn minh.
21
b. Quan điểm CNH, HĐH ở nước ta:
Một là, CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với nền kinh tế tri thức.
Hai là, CNH, HĐH gắn với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Ba là, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững. ( trong
5 nhân tố phát triển, con người là quan trọng).
Bốn là, Khoa học công nghệ là nền tảng, động lực của CNH, HĐH.
Năm là, phát triển nhanh, bền vững hiệu quả, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc
thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo vệ sự đa dạng sinh học.
Sáu là, CNH, HĐH gắn với việc bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Đảng ta xác định trong sự nghiệp CNH ở nước ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản để phát triển nhanh và bền vững là vì:
- Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH ở nước ta: vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ
cấu kinh tế, thể chế chính trị và sự quản lý của nhà nước thì con người là quan trọng nhất. Đó là nguồn

lực quan trọng của mọi nguồn lực, tài nguyên quan trọng của mọi thứ tài nguyên. Muốn vậy phải tăng
cường đầu tư cho y tế, giáo dục, xem giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- CNH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học công
nghệ, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có vai trò quan trọng. Sự nghiệp CNH ở nước ta đòi hỏi
phải có nguồn lực con người đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, có khả năng nắm bắt và sáng tạo
công nghệ mới v.v
4. Trình bày những điểm cơ bản về thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta ?
Thể chế kinh tế: Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh
các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế chính trị, thể chế giáo dục Thế chế kinh tế nói chung là
một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất, kinh
doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy tắc, chuẩn mực về kinh
tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế,
truyền thống về văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành kinh tế v.v
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các quy tắc và luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ
chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh họat động kinh tế, giao dịch, trao đổi trên thị trường. Thể chế
kinh tế thị trường bao gồm:
- Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường, các bên tham gia trên thị trường với tư cách là
các chủ thể trên thị trường.
- Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường
mong muốn.
- Các thị trường nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định của luật lệ.
Trên thế giới có nhiều thế chế kinh tế thị trường: thị trường tự do, thị trường có sự quản lý nhà nước,
nhà nước thị trường kết hợp với nhau.
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự
chi phối, dẫn dắt của những yếu tố định hướng XHCN, do đó nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
22
5. Vì sao nói tình thế Cách Mạng tháng 8/1945 như “ngàn cân treo sợi tóc”, phân tích chủ trương
“kháng chiến kiến quốc” của Đảng và Nhà nước, kết quả, ý nghĩa chủ trương đó?

a. Hoàn cảnh lịch sử:
Tình hình thế giới:
CNXH ở Liên Xô đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào công nhân và nhân dân lao động trên thế giới
Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới, làm
lung lay hệ thống thuộc địa trên thế giới
Tình hình trong nước:
Thuận lợi:
CMT8 thành công thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đưa Đảng ta lên lãnh đạo đất nước.
Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xăm được kết tinh mạnh mẽ vả phát huy cao độ.
Sau chiến tranh TG lần thứ 2, Chủ nghĩa Xã hội trở thành 1 hệ thống mạnh mẽ trên thế giới, dẫn dắt
phong trào CM và phong trào dân chủ diễn ra như thác đổ.
Khó khăn:
Chính quyền Nhà nước còn non trẻ, lực lượng vũ trang CM mới được hình thành.
Nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh bóc lột, tài chính khủng hoảng.
Văn hoá 95% mù chữ, tệ nạn xã hội nặng nề.
Chính trị:
Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra, 20 vạn quân Tưởng lũ lược kéo vào nước ta cùng bè lũ tay sai
Việt quốc, Việt cánh hòng lật đổ chính quyền
Ở miền Nam, từ vĩ tuyến 16 trở vào, trên một vạn quân Anh dọn đường cho Pháp xâm lược nước ta với tư
cách giải giáp quân Nhật, đánh Sài Gòn vào ngày 23/9/1945, chính thức xâm lược nước ta lần 2.
Trên đất nước ta còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, chưa bao giờ Cách mạng VN phải đối phó với nhiều
kẻ thù như thế, chúng tuy đối lập nhau về lợi ích kinh tế nhưng lại giống nhau về âm mưa xoá bỏ chính
quyền cộng sản còn non trẻ ở nước ta.
b. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng:
3/9/1945 trong phiên bản họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch HCM đã thay mặt Chính phủ lâm
thời nêu ra 6 việc cấp bách:
25/11/1945 Ban chấp hành TW Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.
Về t/c cuộc Cách mạng
Về kẻ thù chính ta lúc này
Về nhiệm vụ

Về biện pháp thực hiện
Ý nghĩa chủ trương:
Giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng trong chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong tình
thế cách mạng khó khăn, phức tạp.
23
Tư tưởng kiến quốc đã phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh kháng chiến, xây dựng và bảo vệ chế độ
mới.
6.So sánh cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và luận cương chính trị tháng 10/1930 ?nhận
xét?
Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng
chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết
quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện. Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính trị(10/1930) có những điểm giống
nhau sau:
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách
mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức
tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông
đảo của nhân dân Việt Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập
dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ
bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị
và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến,
giành chính quyền về tay công nông.
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể
hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của

vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách
mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau: Cương lĩnh chính trị xây
dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù,
nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng(
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ
dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cưong lĩnh xác định: làm cho
Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
24
Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công
nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các
cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được
tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương
đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa
xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề
dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp
công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc
trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Như vậy,
ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy
được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc.
Với Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư
sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông

dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp
khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản
công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng
của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc,
khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và
tay sai.
Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ
nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh
chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát
triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận
dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp
nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách
quan của lịch sử .
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của
Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong
tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn
thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.
VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA TRONG VIỆC XỬ LÝ VỚI VẤN ĐỀ
BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY
25

×